36. Bỏ Nước Ra Đi (Diễm Kiều)
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông
Bỏ Nước Ra Đi
Diễm Kiều
Bỏ nước ra đi lòng buồn làm
chết cả hồn tôi. Xa mái ấm gia đình. Xa giống nòi, tiếng cười bạn bè thân
thiết. Những hình ảnh gần gũi nhất trong những ngày qua. Quê hương ơi! Việt Nam
nước tôi, tôi có biết bao nhiêu kỷ niệm êm đềm từ thủa thơ ấu, cũng như lúc
trưởng thành. Người Việt Nam chúng ta vốn đã sẵn giàu tình cảm, lìa xa quê
hương có mấy ai không đau buồn, nhớ thương, mong đợi và hy vọng có ngày trở về
cố hương. Làm sao tôi quên được cuộc hành trình vượt biển đông năm xưa. Thấm thoát
đã hơn hai mươi năm, mà tôi cứ tưởng chừng vừa xảy ra hôm qua...
Ngồi trên chiếc xích lô máy,
nhìn qua những xóm nhỏ và con đường quen thuộc, tôi thấy những trụ đèn như chạy
theo sau. Hành trang của ba mẹ con tôi chỉ vỏn vẹn có một túi vải nhỏ gồm có
thuốc ngừa thai, một ít thuốc cảm, một hũ đường, chanh khô, hai hộp sữa bò và
bảy trăm đồng tiền mới. Đêm đó chúng tôi đến ngã tư Bảy Hiền để ngủ qua đêm với
gia đình ông sáu. Rồi gặp thêm ba gia đình nhựa ở Long Xuyên trong một căn biệt
thự sang trọng.
Trời vừa rạng đông, mọi thứ
tự kẻ trước người sau, gặp nhau trên chuyến xe Rạch Giá. Những ánh mắt nhìn
nhau như kẻ xa lạ. Mọi chặng đường công an xét rất gắt gao. Dừng tại Rạch Giá,
tôi giữ khoảng cách xa ông Sáu đủ để nghe và thấy. Một cô gái mặc chiếc áo bà
ba trắng, quần đen vừa bước xuống xe lôi, đến hỏi ông. Gia đình ông Sáu lên xe,
tôi cũng theo ngồi ghế phía sau. Mặt trời vừa rựng ở chân mây. Nhìn những con
chim bay mà tưởng chừng chúng bay về Sài Gòn.
Xe ngừng lại, cô gái bước
xuống xe trả tiền. Cô đưa chúng tôi qua những cánh đồng ruộng, rạ khô vàng
cháy, như sắp bốc lửa dưới ánh nắng tháng tư. Vào một căn nhà lá vách đất. Cô
gái gọi hai ông bà độ tuổi tứ tuần bằng ba má. Người đàn bà đưa chúng tôi vào
căn buồng chật hẹp chỉ đủ ngồi chen chúc, che bên ngoài bằng tấm màn vải. Tôi
nghe nhột nhạt trong bụng như kiến bò. Mâm cơm tối được đưa vào, mấy bát cơm
gạo đỏ và đĩa sặc khô nướng. Lúc đang ăn, tai tôi nghe rõ từng tiếng nói của
mấy người hàng xóm tới chơi. Tôi run. Tim đập mạnh, sợ người ta khám phá mình.
Càng lo sợ, tôi càng muốn “pi pi”. Tiếng chó sủa đêm xen lẫn tiếng chó tru, tạo
thành một âm thanh nghe ớn lạnh tóc gáy. Tôi cố gắng bò ra sau hè, tè cho nhẹ
cái bụng. Những hạt sương rơi lành lạnh làm tôi nổi da gà.
Gà gáy hiệp nhất, chúng tôi
bắt đầu đi xuống ghe. Dẫn đường là ông gánh dầu. Tôi phải băng qua ven rạch, bò
qua lộ, lội qua mương. Chân tôi sụp xuống lỗ chân trâu đầy bùn nước. Kinh tâm,
táng đởm, làm tim tôi muốn ngừng đập. Như có phép lạ nào giúp đỡ hai con tôi.
Chúng chạy nhanh hơn mẹ, để bắt kịp những người đi trước.
Dân quê đêm đêm thường đi cắm
câu, đặt bẫy. Mỗi lần nhìn thấy ánh đèn dầu thấp thoáng xa xa là tôi chui nhanh
vào bụi rậm. Bất kể kiến bu nhột hay rắn hổ mang cắn đưa tôi về chầu Diêm Vương.
Có lúc phải ráng căn răng chịu đau vì gặp gai nhọn đâm xuyên qua da thịt. Cũng
có lần chui nằm vào đống rơm khô, thò đầu ra, nhìn trên trời có muôn ngàn vì
sao và thấy rõ chị Hằng.
Có một đứa bé sáu tháng cứ
khóc hoài. Mồi lần khóc là có người phát hiện. Chủ ghe phải lo lót vàng để được
yên. Tội nghiệp biết mấy! Đứa bé nhiều lần tưởng đã chết ngộp vì cha mẹ nó dùng
khăn để bịt chặt miệng nó không cho phát ra tiếng khóc. Trọn một ngày chúng tôi
phải nằm dưới mương sâu. Không sao chịu nổi cái nắng quái ác, thấy rát đau trên
mặt. Tôi chịu đói, chịu khát, chịu đau đớn, nhức nhối với mấy ổ kiến vàng.
Chúng tôi không dám ở trên bờ nữa, lội ven rạch, chạy dài những hàng dừa nước
xanh để lẩn trốn, thỉnh thoảng hàng dừa bị gió lay làm tôi muốn nín thở. Trời
chưa tối nhưng bóng cây hai bên bờ đổ ập xuống dòng sông, nên có vẻ như tối.
Bỗng một chim li ti đen, như bị động xao xác bay qua đầu tôi.
Xa xa những chiếc thúng đen
đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Sông Hậu Giang như một dòng nước chết. Ngồi
trên thúng chèo ra đến ghe. Mọi người lên được trên ghe, gian nan cũng lắm mà
đoạn trường cũng nhiều. Chiếc ghe một máy bị trở quá nhiều nên chạy ì ạch. Bình
minh không nắng ở xứ nhiệt đới cho tôi cảm giác buồn vu vơ chợt len lén vào hồn
của kẻ ra đi nhưng đang đầy theo sóng. Bỗng nghe tiếng súng đùng đùng đâu
đây... Gặp tàu đánh cá quốc doanh bắt lại, khám xét tứ tung. Tịch thâu hải bàn
và ống nhòm. Rồi họ bỏ ra một cái thùng nhựa, bảo chúng tôi tự nguyện ai còn gì
dấu cất nên bỏ hết vào thì được tha cho đi.
Sau đó mưa bão đánh dồn dập
hai thân ghe. Có những nhát như chém vào khoảng không, làm cho ghe lắc lư, trồi
lên ngụp xuống như nhảy sóng. Thuyền nhân như hạt bụi trong cuồng phong. Tiếng
nguyện cầu kinh Chúa cũng như kinh Phật liên tục vang lên từ đó.
Mới có hai ngày đường mà
lương thực khô gần hết. Nước uống chỉ đủ nhỏ giọt từng muỗng cà phê. Đến được
hải phận quốc tế, thấy tàu qua lại chúng tôi dùng áo trắng hay đốt đuốc sáng
lên làm hiệu. Cùng la to S.O.S, nhưng họ đành lòng ngoảnh mặt làm ngơ bỏ chạy
luôn! Trên nét mặt những thuyền nhân đầy vẻ ưu tư lẫn nét buồn vẩn vơ theo
chiếc ghe định mệnh qua sóng nọ biển kia, tưởng chừng như vô tận.
Tổng cộng tám lần ghe bị hải
tặc tấn công. Mỗi lần gặp là mỗi lần phải leo trèo qua tàu chúng để bị khám
xét. Mấy ai còn lành lặn, bầm chân, trầy da, rướm máu... là chuyện không đáng
kể. Chân một cậu bị ép chặt giữa hai vành tàu, gãy xương, phải xé vạt áo lại
băng bó lại vết thương, vẫn không được tha. Dễ mấy ai mà không sống đi chết lại
với những bộ mặt ác quỷ, người cầm búa, kẻ cầm súng, tên cầm dao to tiếng vào
chiếc ghe nhỏ bé mong manh của đoàn người đói khát đi tìm tự do.
Có lần gặp tên hai tên hải
tặc xé toạc áo của hai chị em gái tuổi khoảng mười tám, đôi mươi. Hai tay của
mỗi tên xục xạo thân thể các cô một cách thô bỉ, chúng cười nhe răng trông dã
man, ghê tởm làm sao. Rồi kéo lôi xềnh xệnh hai chị em với những dòng nước mắt
lã chã. Đàn bà, con gái trên ghe đều chắp tay cúi lạy. Mạng sống con người chỉ
còn biết buông trôi theo dòng. Ra đi âm thầm. Mà chết cũng lặng lẽ. Đã có hàng
trăm ngàn người Việt Nam chấp nhận cái chết, vùi chôn vực sâu. Biển Đông là
nghĩa địa, nơi an nghỉ cuối cùng của thuyền nhân kém may mắn.
Có một lần hải tặc xách bổng
con trai tôi lên, chân cháu chọi lia lịa mà khóc không ra tiếng, hắn định quăng
cháu xuống biển. Tôi chạy tới ôm chầm lấy hắn khóc rống lên, la thật to: “Con
tôi! Con tôi!” Hắn quăng trở lại sàn nghe cái bịch. Tôi ôm chầm lấy con mà khóc
như chưa bao giờ được khóc. Dù bị hành hạ nhưng nếu ở lại Việt Nam, con sẽ
trách mẹ suốt đời. Nghĩ vậy tôi tự tìm lấy sự yên ổn trong tâm hồn.
Lần cướp biển thứ tám, không
còn gì nữa để chúng vơ vét. Chúng bèn đục gỡ máy tàu. Mạng sống con người như
chỉ là mành treo chuông. Chiếc ghe chỉ còn trôi dạt theo chiều gió biển đẩy
đưa. Bỗng tôi nghe có tiếng con gọi: “Mẹ ơi! Có ông già râu dài kéo chiếc ghe
đi”. Tiếp theo là một tiếng “rầm!”. Chiếc ghe tròng trành suýt lật ngang. Mọi
người nhốn nháo. Nhìn thấy trước mũi ghe là một hòn đảo nhỏ. Mọi người dìu nhau
lên tảng đá lớn. Suốt đêm ai nấy đều run lập cập, nhìn lại chiếc ghe từ từ chìm
xuống, như biết mình đã làm tròn phận sự.
Bình minh vừa ló dạng, có
người khám phá bên trên là đất liền. Chúng tôi may mắn gặp được đôi vợ chống
trẻ người Thái Lan đang hưởng tuần trăng mật. Họ nấu cho một nồi cháo lớn với
một chai nước mắm hiệu con mực. Nhờ chút cháo, hai con tôi từ từ tỉnh lại. Cậu
người Thái đưa chúng tôi đến chính quyền địa phương làm nhiều chuyến bằng chiếc
ca nô. Chính quyền địa phương lấy những chiếc xe dùng chở heo đưa chúng tôi đến
trại tị nạn Cong – Sa Mui. Chung quanh trại này được rào bằng dây kẽm gai. Cảnh
sát Thái rất ác độc, đánh đập thuyền nhân đến u đầu, chảy máu,... mỗi khi khám
xét, bắt bẻ là làm vệ sinh trại không sạch. Chúng tôi ăn cơm gạo sâu mọt, hôi
mốc với khô mục. Mỗi khi tắm giặt chờ mọi người đi ngủ hết mới dám thoát y.
Trại này có rất nhiều muỗi. Đêm ngủ mà để tay chân lộ ra vành mùng, muỗi đeo
đến cắn cổ tay như đeo xâu chuỗi đen.
Rồi một ngày xe bus chuyển
thuyền nhân đến trại tị nạn Songkla. Đến nơi nhưng chưa được vào ngay. Chúng
tôi phải ngủ qua đêm trên sạp gỗ chợ Thái ngay bờ biển. Nhìn biển gần, tôi nhớ
biển xa. Chiều tàn trên bờ biển lờ trôi. Chim bay về chân núi xa với mà cứ
tưởng bay về quê hương tôi. Nghe những làn sóng vỗ vào bờ rì rào âm vang như
điệu nhạc buồn! “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”. Sau khi làm xong tất cả
mọi thủ tục giấy tờ, chúng tôi được gọi lên nhập trại.
Tôi tình nguyện làm trong nhà
bếp của “Children Center” do cha Joe đảm trách. Trung tâm này gồm có một trăm
bốn mươi ba trẻ em. Đa số là mồ côi, cha mẹ chết trên đường vượt biển. Tôi nấu
cơm bằng bếp than cho từng ấy cháu ăn, món ăn thay đổi mỗi ngày. Rồi rửa chén,
dọn dẹp linh tinh. Làm vệ sinh sạch sẽ trong nhà bếp. Tình yêu trẻ trong hoàn
cảnh đau thương này giúp tôi làm việc không biết mệt mỏi mà vui.
Sau bốn tháng được chuyển
trại đi Bangkok để khám sức khoẻ. Tôi không phải là người sanh ở đảo, cuộc đời
lại trôi nổi từ đảo này sang đảo khác. Songkla, Panat Nikhom, Ga Lang II
(Indonesia)... Những dãy ba-rắc cất thứ tự bên nhau, phần trên để ngủ, phía
dưới làm nhà bếp, bàn ăn, họp bàn chuyện trò cho đỡ nhớ nhà. Ngoài giờ học
tiếng Anh tôi tình nguyện làm ở bệnh xá, giúp đỡ bệnh nhân. Cuối tuần thường rủ
nhau hai ba gia đình đi cắm trại ven bờ biển. Tuy không có món ngon vật lạ, tôi
cũng biết chế biến những đồ hộp được lãnh thành món ăn hợp khẩu. Đó là niềm hạnh
phúc của tôi.
Tình đồng hương biết yêu
thương lẫn nhau, chia sẻ từng bó rau muống chính tay cuốc đất trồng. Trống trọt
tưới nước. Biếu nhau những con cá tươi bé nhỏ vừa mới bắt được. Tổ chức tiệc
nhỏ để tiễn đưa những ai có tên định cư ở các nước tự do. Tại sân tàu để chuyển
người sang phi trường Singapore, tiễn người đi chưa bao giờ buồn thế, kẻ ở
người đi lưu luyến, vui buồn lẫn lộn.
Mỗi kỷ niệm là một bức ảnh,
làm thành một quyển “album”, lưu lại tất cả sinh hoạt của tôi trên khắp nẻo
đướng tị nạn. Mà ngày nay bạn Việt cũng như bạn Mỹ được xem qua, ai cũng đều
nói giống như người “tourist”, không giống dân tị nạn tí nào.
Vận nước tôi rủi mất tự do,
những cũng may cho nước tôi trong thế kỷ thứ hai mươi mốt này có thêm biết bao
nhân tài làm vẻ vang dân tộc. Nhờ trời thương ba đứa con tôi cũng đã tốt
nghiệp, với một mảnh bằng MD, PhD, và hai cháu đã có bằng MD, đều tốt nghiệp Đại
Học Harvard.
Tôi tin tưởng hầu hết nhân
tài sẽ trở về cố hương, góp phần xây dựng lại một nước Việt Nam tự do, dân chủ,
và phú cường.
Diễm Kiều