23. Bà Bảy Vượt Biên (Ngọc Đẹp)
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông
Bà Bảy Vượt Biên
Ngọc Đẹp
Chuyến đi vượt biển để tìm tự
do của tôi rất là may mắn, không gặp cướp biển mà chỉ bị sóng biển và mưa gió
nhưng cũng đủ để làm tôi hoảng hốt không dám vượt biển lần nữa. Dần dần tôi
quen với mọi người chung quanh, tôi mới biết được là mọi người đến đảo đều mang
theo một câu chuyện vượt biển khác nhau mà nơi dừng chân lại giống nhau, đó là
tìm tự do.
Tôi ở lại “khu C” là nơi
trung tâm sinh hoạt của đảo Pulau Bidong bây giờ, gần bãi biển, chợ, trường
học, thông tin văn hóa, gần cả nhà thờ, chùa, v.v… Buổi chiều ở đảo cuối năm
sao mà mưa thật lớn, mưa ngập cả lối đi, cơn mưa kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ,
có thông báo trên đài phát thanh, có tiếng nghe được có tiếng nghe không. Nhưng
chúng tôi vẫn đoán được là có người mới đến đảo. Một số người cùng xóm đã mặc
áo mưa đến hội trường để đi tìm người thân, nhưng lúc về họ bảo rằng chẳng thấy
ai quen cả. Nghe nói đâu toàn là đàn bà con nít, điểm khởi hành là vùng miền
Tây sông Hậu Giang. Chẳng có ai là dân xứ khác cả, tôi nghe đến đây thì vội
mừng, lát nữa trời tạnh mưa tôi sẽ đến hội trường tìm người thân hay bạn bè gì
đó, biết đâu sẽ tìm được người quen, đem về ở cùng nhà cho vui. Cùng người bản
xứ thì lúc nào cũng vui hơn.
Trời vừa dứt cơn mưa, tôi
đang loay hoay với bữa cơm chiều nấu chưa xong, thì có một anh chàng đến tìm
tôi và bảo: “Nhà chị có hai người phải không?” Tôi đáp: “Dạ, đúng như vậy!” Anh
nói tiếp: “Chị đón người mới nhập trại, chỉ có nhà chị chưa đủ mười lăm người,
ngoài ra những nhà khác đông lắm, không thể ở được, đây là một gia đình xin chị
đón tiếp giùm”.
Trong đầu tôi nghe loáng
thoáng mười lăm người. Trời ơi? Sao mà đông thế. Quy định chỉ có mười người cho
một căn, mà bây giờ lên đến mười bảy người, không biết làm sao bây giờ. Anh ấy
quay trở về phòng làm việc, và một lúc sau anh tay xách nách mang vài thứ gì
đấy cùng với bà mẹ khá lớn tuổi ngoài năm mươi, cùng với lũ trẻ mười bốn nhập
chung nhà với tôi.
Tôi chỉ cho bà chỗ nghỉ, rồi
phụ giúp mấy đứa bé tắm rửa. Cơm chiều cũng đã xong, tôi mừng thầm, bà mẹ với mười
bốn đứa trẻ thì vui mừng nhà lắm. Vài ngày sau, tôi mới biết bà không phải là
mẹ của chúng nó, đứa gọi bằng bà nội, đứa gọi bằng bà ngoại, có đứa gọi bằng
bà. Sao bà can đảm thế, dẫn cả lũ nít đi vượt biển, tôi khâm phục bà lắm. Tôi
và em tôi tìm cách nói chuyện với bà, nhưng bà không nói chỉ gật đầu với lắc
đầu, đưa tay làm hiệu thế là xong.
Cứ mỗi lần ăn cơm với bà, bà
chỉ để đôi đũa lên trên chén cơm rồi khấn nguyện điều gì khá lâu, xong bà để
chén cơm xuống ngay miệng định ăn, thì nước mắt của bà cứ tuôn tràn, rồi bà
ngưng không ăn được. Động tác như vậy, cứ lập đi lập lại nhiều lần. Hình như
chén cơm của bà đã đầy cả nước mắt. Bà ăn được một phần chén cơm, rồi lại bỏ đi
nằm. Bà luôn luôn nằm quay mặt vào vách, tiếng khóc nghe nức nở lắm. Tôi thông
cảm cho bà, tình trạng những người mới tới đảo, ai cũng nhớ nhà, nhớ quê hương,
nhớ người thân. Suốt ba tuần lễ ở chung, bà chỉ nói câu “Cám ơn cháu”, vậy là
xong. Những đứa trẻ đi theo bà, đứa lớn nhất chín tuổi, còn nhỏ nhất là hai
tuổi. Tôi săn sóc hai đứa trẻ nhỏ nhất cho bà, còn những đứa khác có đứa tự lo
lấy cũng được.
Ít lâu sau, tôi mới nấu cơm
đãi bà. Bà trông khỏe hơn trước, nhưng nỗi buồn niềm tâm sự ảo não. Trong buổi
cơm, chẳng có gì đặc biệt, toàn bộ thực phẩm được cấp. Nhưng tôi làm rất nhiều
món, trước khi ăn cơm, tôi cẩn thận nói với bà: “Thưa bác, ngày mai hai chị em
con sẽ rời trại, để trại chuyển tiếp. Bữa cơm hôm nay là bữa cơm chia tay với
bác.”. Tôi mới nói đến đây, bà ôm chầm lấy hai chị em tôi, lại khóc nữa, sao bà
nhiều nước mắt thế! Tôi cầm tay bà, tay bà lạnh khô cứng, có lẽ vì làm việc quá
nhiều.
Ăn cơm xong, hai chị em tôi
bận rộn với việc rời đảo ngày mai, bà đến bên cạnh tôi ngồi xuống và nói: “Cảm
ơn hai cháu nhiều lắm, nếu không có hai cháu bà không thể nào chăm sóc cho đám
trẻ này được”. Và bà tự giới thiệu bà là bà Bảy rồi nói: “Cháu cứ gọi bác như
thế!” Tôi ở với bà gần một tháng mới biết được tên bà.
Xong bà nói tiếp:
“Con gái của bác, nếu nó còn
sống thì nó cũng cỡ tuổi cháu, hình dáng bề ngoài và giọng nói cũng giống như
cháu. Mỗi lần nhìn cháu bác lại nhớ đến nó. Nay tụi cháu đi rồi, thì nhà này
buồn lắm.”. Tôi an ủi bà, càng an ủi bà càng khóc, tôi không biết phải làm sao?
Có lẽ bà muốn gắn chặt tôi với bà hay bà muốn nói với tôi điều gì đó. Tôi nói
với bà: “Sau này bác có đến trại chuyển tiếp, bác tìm con.”. Tôi đưa tên họ và
địa chỉ cho bà. Bà bảo bà không biết đọc chữ. Tôi hỏi quê quán bà, mới biết bà
ở ngay đầu xóm quê ngoại tôi. Bây giờ tôi nhìn rõ, bà đã đến nhà ngoại tôi vài
lần, trong lúc nghỉ hè, tôi có ở đó chơi. Còn nhớ bà đem biếu ngoại tôi nhánh
cau giòn mới hái. Đến thăm nhau hàng ngày, mà sao bây giờ bà đến đây rồi. Bà
vui mừng ôm chầm lấy tôi, hình như bà đã tìm được an ủi và nỗi nhớ thương. Lúc
này, bà mới cẩn thận kể lại chuyện vượt biển của bà cho tôi nghe. Câu chuyện
chưa kết thúc, thì đêm cũng tàn, bà quá mệt mỏi và sang mai tôi lại rời đảo. Bà
kể:
“Chuyến đi của tôi rất nhiều
tốn kém. Tàu lớn, máy móc đem theo nhiều, vì tàu đa số là đàn bà và trẻ em,
cùng với mấy đứa con của bà, rể, dâu, cháu nội và cháu ngoại gọi bà bằng cô,
bằng dì. Để bảo đảm không bị công an bắt, ba đứa con của bà vừa cải tạo xong
chúng nó muốn đi an toàn, chúng tôi phải tốn mười cây vàng để che mắt tụi công
an đưa chúng tôi ra khỏi hải phận.
Ra tới hải phận quốc tế trên tàu
là bảy mươi tư người cùng chúc mừng nhau vượt khỏi hiểm nghèo, đi biển không
như mình tưởng tượng được. Trải qua một đêm rồi đến ngày hôm sau, khoảng bốn
giờ chiều, tàu chúng tôi gặp một tàu mà chúng tôi tưởng là tàu cứu người ngoài
khơi, mọi người đều náo nức vui mừng vì có tàu cứu giúp. Không ngờ, tàu ấy cặp
vào tàu chúng tôi, một số người nhảy vọt lên, người cầm dao, người cầm cây. Tất
cả chín người, ai cũng có vũ khí đe dọa, chúng ra dấu bảo đưa tiền, vàng. Chúng
tôi trên tàu ai cũng đưa cho để được thoát nạn. Xong, chúng bỏ đi, khoảng hai
tiếng đồng hồ sau, lại có một nhóm khác nữa đến, cứ thế cho đến ngày thứ hai,
tổng cộng bọn cướp tàu chúng tôi là năm lần. Chúng tôi bàn với nhau, tất cả tài
sản mà mình mang theo hãy bỏ chung với nhau, mỗi lần gặp cướp lại chia ra một
ít, như thế hay hơn để bảo đảm an toàn.
Mọi người đồng ý với nhau,
thêm hai chiếc tàu cướp tới nữa, chúng tôi lại đưa tiền cho họ. Có lẽ chê ít
hay sao đó, họ tách rời phụ nữ ra, dẫn sang tàu chúng, tất cả mười bảy cô gái,
xong họ hãm hiếp, mặc cho tiếng kêu cầu cứu gào thét của phụ nữ, xong họ trả
phụ nữ lại tàu. Chúng nó bàn tính với nhau rất lâu rồi quyết định đục thủng
thuyền của chúng tôi, phá cho hư máy, tất cả lương thực nước uống mang theo đều
bị chúng quăng xuống biển. thuyền của chúng tôi bị nước ngập tràn phân nửa, mọi
người bắt đầu lo sợ, và hì hục tát nước ra. Đến nửa đêm, ai nấy đều mệt và cứ
để cho thuyền trôi. Phần vì bị say sóng, phần thì đói lạnh, khát nước, nên đã
ngủ thiếp đi. Vào lúc nửa đêm, sóng to bắt đầu nổi dậy, ai cũng lo sợ thuyền
của mình bị chìm, phụ nữ thì lo ôm con vào lòng, thanh niên thì lo tát nước,
tiếng khóc của trẻ em tiếng to tiếng nhỏ, phụ nữ bị hãm hiếp thì chỉ biết ôm
gối ngồi khóc thút thít, hình như tiếng khóc đó không ngưng được. Trên tàu, trẻ
em đòi mẹ cho ăn, rồi tiếng chửi thề của ai đó trên tàu” Cướp gì thì cướp, tại
sao còn quăng hết đồ ăn xuống biển, bây giờ trẻ em đói lấy cái gì mà ăn”. Hình
như lúc nào trên tàu cũng có tiếng phàn nàn tụi cướp quá dã man.
Mờ mờ sáng hôm sau, chúng tôi
lại thấy xuất hiện thêm hai tàu trước mặt, không ai đoán sai cả, đó là tàu
cướp. Chúng cướp gì nữa bây giờ, trên tàu đâu còn gì để cướp, đồ quý giá, đồ
ăn, đồ dụng, phương tiện vượt biên đắm chìm cả dưới lòng đại dương. Đàn bà, con
gái đã bị chúng hành hạ, bây giờ còn đến làm gì? Thôi thì cứ xuôi theo định
mệnh là xong. Thuyền chúng cặp hai bên thuyền của chúng tôi, sau vài phút quan
sát, tất cả bọn chúng độ khoảng hai mươi người, đến từng người lục soát. Hỏi
han la lối, mọi người trên tàu không ai trả lời. Không hiểu họ nói gì, nhưng
chúng tôi cũng thừa biết rằng họ muốn vàng và đồ quý giá, tiếng trẻ con càng
khóc lớn hơn nữa. Trên tàu bọn cướp không còn tìm ra thứ gì đáng giá nữa, chúng
bèn kéo tất cả phụ nữ lên đằng trước mũi tàu, những đứa bé khóc la đòi mẹ, bọn
cướp vẫn không màng quan tâm đến. Chúng xô đẩy chị em phụ nữ qua hai tàu của
chúng, còn lại năm phụ nữ chúng lấy dây trói lại hết, lột quần áo quăng xuống
biển và chúng đè họ hãm hiếp trước mũi tàu, trước bao cặp mắt của mọi người,
tiếng la hét của những người bị hiếp, tiếng cầu cứu của những người bị bắt đi,
nghe sao mà thê thảm quá! Trên tàu, phụ nữ chỉ còn lại có tôi, có lẽ bọn cướp
chê tôi quá già, xấu xí, nhờ vậy tôi thoát được cảnh này.
Đau đớn hơn nữa là con dâu
tôi, ôi sao mà tội quá! Con dâu tôi vừa mới cưới đầu năm, cuối năm tôi dẫn đi
vượt biên với cái bụng đã căng tròn, hình dáng bên ngoài rất là mệt mỏi, phần
vì đói, không quen đi biển lại mang thai lớn. Mà bọn cướp cũng không tha cho
nó. Giờ đây nằm giống như người chết trên mũi tàu, toàn thân nó không có thứ gì
để che, con trai của tôi (chồng nó) không thể chịu được cảnh vợ mình mang bầu mà lại bị
hãm hiếp, nó đứng dậy chạy tới, xô tên cướp sang một bên. Tên cướp lao đao té
xuống thuyền, xong nó vùng dậy và nói gì đó với đồng bọn, lập ức chúng nó xuất
hiện trên tay mỗi đứa đều có một con dao mũi dài và cong, chúng nhảy sang tàu
chúng tôi chém. Tất cả mọi người còn sống sót. Có một thằng đưa tay cao chém
thật mạnh vào cổ thằng con trai tôi, đầu rớt xuống biển, máu phọt ra, thân thể
ngã rầm xuống tàu, tôi nhào tới ôm lấy con, tay chân nó còn run, tim của nó vẫn
còn đập, tôi áp mặt vào ngực nó, ôm chặt nó vào lòng. Máu của nó thêm một lần
nữa hòa tan vào người tôi và lúc ấy tôi đã chết cùng với con trai tôi, mặc cho
chung quanh tiếng la hét, tiếng khóc lóc, tiếng kêu của trẻ em, tất cả cùng tôi
chìm vào biển sâu.”
Vừa lúc này, trời ở đảo
Bidong có gió lạnh từ biển thổi vào, tôi biết đêm đã khuya, tiếng nói cùng
tiếng khóc của bà thì thào bên tai tôi nhỏ dần, nhỏ dần rồi tan biến trong đêm
tối. tôi nghĩ bà đã ngủ hoặc vì thương nhớ con mà không thể kể tiếp được giờ
phút hãi hung ấy mà bà đã chứng kiến.
Câu chuyện của bà kể cho tôi
nghe đến đây coi như kết thúc. Nhưng tại sao bà còn sống và nằm cạnh tôi như
bây giờ, tôi thật có nhiều câu hỏi cho bà, nhưng lại không dám đánh thức bà
dậy. Sáng mai tôi rời đảo rồi, hoàn cảnh của bà làm tôi rung động, suốt đêm tôi
cứ nghĩ lung tung, gia đình bà đã tan nát, không còn nữa, phần máu thịt bà đã
tan trong lòng đại đương, mang theo cả linh hồn và sự sống của bà. Bây giờ bà
chỉ còn có cái xác gầy gò khô héo, cùng với trách nhiệm nặng nề là đám trẻ mồ
côi của bà. Bây giờ tôi mới hiểu thái độ thờ ơ, lạnh lùng của bà lúc bà mới đến
ở với tôi. Tôi lại thấy thương bà hơn bất cứ một ai và tôi cũng không muốn rời bà,
tôi muốn ở lại thêm với bà một ít lâu nữa. Nhưng chuyện đó tôi không quyết định
được.
Chúng tôi chia tay bà, thông
thường mọi người rời trại vui vẻ, hăng hái ra đi mà sao trong lòng tôi còn
quyến luyến sâu đậm. Tôi rời trại cứ suy nghĩ mãi… Bà đã chết cùng với con bà
trên biển mà tại sao ngày hôm nay bà lại còn kể câu chuyện của bà cho tôi nghe.
Thật là một sự huyền bí chứa trong lòng tôi bao nhiêu câu hỏi mà không sao trả
lời được.
Một tháng sau, tôi gặp lại bà
tại trại chuyển tiếp của Mã Lai (trại Sangei Besi), bà lại ôm lấy tôi vừa cười
vừa khóc, thế là bao nhiêu câu hỏi ấm ức lâu nay đều mang ra nhờ bà giải đáp.
Bà bảo rằng bà đã chết trên
con thuyền đầy máu ấy. Rồi cơn mưa buổi tối ấy rất lớn, nước ngập lên cả tàu
nữa, ngập đến chỗ của bà nằm, bà cố gắng ngồi dậy, nhưng không sao ngồi được,
cả một khối nặng đè lên người bà, bà cố gắng hết sức cũng không lay chuyển
được, đó là những người trên tàu chết và đè lên người của bà. Một lúc khá lâu,
một cơn sóng biển thật mạnh đánh vào mạn thuyền, hất tung khối đè nặng trên
người bà. Bà lật đật ngẩng đầu lên để mà thở trong bóng tối dày đặc của biển,
bà cũng không biết được bà đang ở đâu. Bà sờ soạng trong bóng tối, bà không nhớ
được chuyện gì đã xảy ra cho bà. Bà đưa tay mò mẫm chung quanh để tìm phương
hướng, đụng phải mạn thuyền rồi bà lần mò đến đó, để hai tay lên mạn thuyền,
hai chân bà đứng trên những xác chết nằm ngổn ngang trên thuyền, bà nhắm mắt
lại, không nghe một cử động nào hay tiếng người nào đó chung quanh, mà chỉ còn
tiếng thì thầm của sóng biển, lúc này bà mới nhớ ra tàu đã bị cướp và tất cả đã
chết. Bà nhắm mắt lại, nguyện cầu cho những linh hồn đã ra đi, và nguyện cầu
cho có một con sóng lớn tới để mang bà đi cùng với thân nhân của bà. Đến sáng
hôm sau, mặt trời đã lên cao, bà tỉnh dậy bằng tiếng khóc của trẻ em. Không
phải một tiếng mà rất nhiều tiếng. Bà quay lại nhìn đằng sau khoang tàu, nơi mà
phần dưới để máy chạy, phần trên được che một cái mui để ngồi lái, không to
lắm, khoảng bằng một cái giường để ngủ. Bà run rẩy đi về hướng ấy, thì ra những
đứa trẻ trên tàu đều tập chung ở đó. Không có ai là người lớn cả, toàn là trẻ
em, bà nhìn lại trên tàu, khoảng ba mươi xác chết nằm ngổn ngang, trôi bồng
bềnh qua lại, nước đã vào hơn nửa thuyền, nước mưa, nước biển và máu trộn chung
với nhau. Có những xác chết không đầu, bà biết trong đó có cả con của mình,
dâu, rể và cháu của bà. Bà không dám nhìn nữa chỉ biết ôm chặt những đứa bé còn
lại trên tàu, nước mắt của bà cứ trào ra. Bây giờ bà chỉ còn có một ước mơ duy
nhất là cho sóng biển nổi lên, mưa thật lớn để tàu bà được chìm trong biển cả,
và tất cả sẽ đoàn tụ bên kia thế giới.
Qua thêm một ngày nữa, tàu bà
lênh đênh trên biển đã là ngày thứ năm. Đến trưa hôm ấy bà thấy một chiếc máy
bay. Bay tới, bay lui trên đầu bà rồi họ phóng thanh nói gì bà chẳng hiểu, rồi
lại bay mất. Vài tiếng đồng hồ sau, cũng chiếc máy bay đó dẫn đến hai con
thuyền thật lớn, họ cặp vào tàu bà, rồi lần lượt đưa bà cùng lũ trẻ sang tàu
họ. Ngày hôm sau bà đến Bidong cùng mười bốn đứa trẻ mồ côi, người cứu bà đã
phát hiện nhiều xác chết trôi trên biển.
Khi tôi gặp lại bà trên trại
chuyển tiếp, bà rất vui mừng vì đoàn tàu của bà được trực tiếp sang Mỹ trong
thời gian sắp tới. Hiện nay tôi không biết bà đang ở đâu trên đất nước này.
Những đứa bé đó bây giờ thực sự đã trưởng thành, không biết chúng còn nhớ lại
chuyến vượt biển đau thương ngày nào không? Lúc ấy là cuối năm 1985 và đang
bước vào mùa xuân năm 1986.
Tôi nhớ tàu của tôi đến
Bidong trước tàu bà. Tàu của tôi là MB- 464, Nhóm tàu của bà lên đảo cách đó ba
tuần... được gọi là MB–474 hay MB-477 tôi không nhớ rõ lắm.
Ngọc Đẹp
* Tên: Phan Ngọc Đẹp
* Tên thật: Nguyễn Ngọc Đẹp
* Tên thường gọi: Lê Trinh
* Sinh năm: 1961 tại Huyện Kế Sách. Thị xã Sóc Trăng,
tỉnh Hậu Giang (lớn lên và vượt biên tại đây)
* Học lực: Tốt nghiệp lớp mười hai năm 1980.
* Vượt biên: Năm 1985.
* Đến Mỹ năm 1986, học College ra trường năm 1990, đi
làm và lập gia đình.
* Gia cảnh: Chồng (Phan Phương) và một bé trai (Phan
Khoa Jonathan).
* Cha và anh đều phục vụ cho chế độ VNCH trước 1975.
Cha và mẹ hiện sống ở Mỹ. Có bốn chị em gái cũng sống ở Mỹ. Còn một người chị
và một người anh kẹt lại Việt Nam sẽ định cư ở Mỹ vào mùa hè 2003. Hiện đang
sống tại Portland, Oregon.