13. Một Lần Đổi Hướng (Tài Công MH 153 )
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông
Một Lần Đổi Hướng
Tài Công Mp53
Trời vừa hừng đông, chiếc xe
đò cũ kỹ chở đầy hàng hóa, nặng nhọc lăn bánh ì ạch rời bến cảng Phú Lâm, bò từ
từ ra đường lộ lớn, hòa nhập vào dòng xe cộ tấp nập xuôi về miền Tây. Tôi ngồi
thu mình nơi hàng ghế cuối, hai tay ôm chặt giỏ là một vật quan trọng trong
quyết định sự sống còn của gần tám mươi sinh mạng chuẩn bị vượt biển phó thác
cho may rủi, tìm cái sống trong cái chết của chuyến đi định mệnh trên một chiếc
thuyền mong manh bé nhỏ. Đó là chiếc hải bàn do anh Phương, một người anh nuôi
tốt bụng, sĩ quan Hải Thuyền (đã qua đời vì bạo bệnh trong trại cải tạo năm
1977), để lại cho tôi trước khi đi tập trung với một lời nhắn nhủ: “Em cất kỹ
cái này, mai mốt biết đâu có khi cần”. Tôi cất giữ chiếc hải bàn suốt ba năm
như một báu vật hộ thân. Phong trào vượt biển rầm rộ khắp nơi, hải bàn trở nên
đắt giá. Nhiều lúc tôi đói rã ruột nhưng cố chịu đựng cầm cự qua ngày, nhất
định không mang ra bán. Rồi ngày đó đã đến như lời anh Phương Hải Thuyền đã
nhắn nhủ.
Xe từ từ tăng tốc độ, lao
nhanh làm gió lạnh buổi sáng sớm lùa vào cơ thể người. Tôi chợt rùng mình hồi
hộp, tim đập mạnh khi nghĩ đến các trạm công an kiểm soát dọc đường. Tôi sẽ trả
lời sao khi bị xét hỏi, bị bắt với tang vật, mà bản án dành cho những người tổ
chức vượt biên lúc bấy giờ là “phản quốc”. Riêng tôi lại là tài công sẽ cầm lái
chiếc ghe chở người vượt biển. Tôi không dám nghĩ tiếp, nhắm mắt lâm râm cầu
xin Thượng Đế, khấn nguyện vong hồn anh Phương Hải Thuyền phù hộ, tôi đã đem
được chiếc hải bàn đến điểm hẹn.
Trời nhá nhem tối, sau khi
vượt chặng đường dài ba trăm sáu chục cây số, qua nhiều trạm công an lục soát
xét hỏi. Tạ ơn Thượng Đế ở trên cao. Cảm ơn anh Phương Hải Thuyền đã phù hộ,
tôi đã đem được chiếc hải bàn xuống điểm hẹn.
Xách chiếc giỏ đệm ra khỏi xe
đò, tôi ngơ ngác đưa mắt nhìn quanh tìm người chủ ghe đưa tôi đến điểm hẹn. Tất
cả đều xa lạ trước cảnh ồn ào hỗn độn của bến xe Cà Mau, phần lo ngại bị bọn
lưu manh giựt giỏ xách. Tim tôi lại đập mạnh khi chợt thấy bóng hai người công
an sắc phục đang ngồi trong quán nước gần đó. Do phản ứng tự nhiên hay do quá
hồi hộp, một động lực nào đã khiến tôi mạnh dạn bước lại ngồi xuống bàn bên
cạnh hai người công an, nghĩ rằng nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất. Ngồi
chỗ này thì bọn lưu manh không dám đến giựt giỏ xách, nhưng lại quên mất một
điều, người ta đến đón tôi cũng sẽ không dám đến gặp tôi để đưa đến điểm hẹn.
Cuối cùng tôi cũng gặp được
người hướng dẫn, đến điểm hẹn ngủ tạm một đêm để hôm sau xuống nghe. Trong căn
nhà nhỏ bên cạnh những khuôn mặt lạ hoắc đa số là phụ nữ và trẻ con, không cần
đoán cũng biết họ xuống đây chờ vượt biên như tôi. Dù họ đã cải trang, mặc áo
bà ba đen theo kiểu nhà quê, nhưng chiếc áo đen thô kia lại vô tình tố cáo làn da
trắng trẻo, mịn màng của đàn bà đô thị, và những bàn tay nõn nà búp măng của
hàng tiểu thư đài các, con gái nhà giàu Sài Gòn, những mái tóc “demigracon”,
làm sao qua mắt được đám nghiệp vụ công an nghiệp vụ, chuyên lùng bắt dân thành
phố xuống vượt biên.
Mọi người yên lặng ngồi quạt
muỗi chờ sáng, thỉnh thoảng tiếng con nít giựt mình khóc ré lên vì muỗi cắn.
Tôi nín thở từng cơn. Không ai dám ngủ vì phập phồng lo sợ công an có thể ập
vào khám xét bắt đi bất cứ lúc nào. Thời gian trôi thật chậm chạp, nặng nề khó
thở. Người chủ ghe kêu tôi tìm chỗ chợp mắt môt chút để lấy sức vì mai còn phải
đảm trách chuyến hải trình dài. Tôi nhắm mắt nguyện cầu Thượng Đế, xin anh
Phương Hải Thuyền...
Tờ mờ sáng mọi người đã thức
dậy. Theo sắp xếp của chủ ghe, từng toán vài người xuống bến tàu có xuồng nhỏ
đưa ra ghe lớn. Riêng tôi ở lại với người tài cải (thợ máy) tên là Mười An để
thảo luận tình hình sắp tới và những biện pháp đối phó lỡ gặp công an chặn giữa
đường hay ra khỏi bị hải tặc tấn công...
Chín giờ sáng, tôi cùng Mười
An với chiếc hải bàn được xuồng máy đuôi tôm đưa ra Vàm Tắc Thủ để đến chiếc
ghe vận mạng. Đó là chiếc ghe lưới đánh cá nhỏ đang đậu cặp vào đám lá ven bờ
Vàm Tắc Thủ. Sông chia ba nhánh, nhánh vô Cà Mau, nhánh vào U Minh, nhánh ra
cửa biển Ông Đốc. Trên ghe có vài tay lưới đang bung xổ ra để ngụy trang, từ xa
trông như ghe đang đậu để vá lưới, sửa chữa. Chúng tôi leo lên gặp chủ ghe dặn
dò kế hoạch lộ trình.
Sau vài phút trao đổi, được
biết chuyến đi còn nhiều nguy hiểm chực chờ, không đơn giản như tôi tưởng, phải
qua một khúc sông dài mới qua cửa biển Ông Đốc. Dọc đường còn phải đi ngang đồn
công an Rạch Ráng, phải ngưng lại vài điểm rước thêm người, lấy thêm dầu và
lương thực...
Từ giây phút này, tôi hồi hộp
từng cơn, cảm thấy phó thác tất cả cho chiếc ghe định mệnh mang số MH 153. Mười
An trấn tĩnh tôi bằng một câu khôi hài lạc quan đỏ đen bói toán: “Anh à, số 153
cộng lại là chín nút.” Tôi cười hỏi lại: “Còn chữ MH thì sao?” An trả lời không
do dự: “MH là số ghe của tỉnh Minh Hải. Mấy cha nội tôi lấy tên rừng U Minh và
biển Nam Hải ghép lại. Em thấy chữ EM còn có nghĩa là “một hơi”, tức là ra tới
biển thì anh lo cầm lái, em lo coi máy, chạy một hơi là tới Mã Lai liền. Em
chưa biết anh tên gì nhưng anh là tài công thì em kêu anh bằng anh tài nghe.
Còn em là con thứ mười trong gia đình mười một anh em nên Mụ Bà đặt tên cho em
Mười An, vậy tức em có tới mười bà mẹ sanh hộ mạng lận.” Tôi nhìn An mỉm cười,
thầm hy vọng những điều người thợ máy nói sẽ là sự thật.
Tôi và An chui xuống hầm máy
xem xét tình trạng máy móc, đề máy, thử bơm nước, thử số tới số de cẩn thận,
rồi ra phía trước mở nắp xuống coi các khoang hầm, xem lườn ghe có bị vô nước
không. Tôi thấy có gần hai mươi người toàn đàn bà con nít ngồi nín khe, sợ sệt.
Họ đã ém sẵn trong đó từ lúc nào. Mở nắp hầm lên thì con nít khóc ré lên đòi về
nhà. Đậy lại thì ngộp, thiếu không khí, nhưng không còn cách nào khác hơn vì
trên ngã ba Vàm Tắc Thủ sáng sớm xuồng ghe tấp nập xuôi ngược dập dìu. Một
chiếc vỏ lãi (loại xuồng nhỏ và dài, đặt máy GMC chạy nhanh như ca nô, còn gọi
là vỏ vọt) của công an tuần tiễu chạy lại gần. Tôi chỉ đủ thời gian gõ lên nắp
hầm ba tiếng theo chỉ dẫn của chủ ghe để báo động cho người ở dưới khoang biết
có công an tới gần xong cùng Mười An lập tức cởi đồ, mặc xà lỏn nhảy ùm xuống sông
lặn hụp sau bánh lái làm bộ đang sửa chân vịt. Chiếc vỏ lãi công an tấp gần ghe
tôi, họ hỏi lớn: “Ê! Ghe biển hả, dưới hầm có cá tươi hay cá muối nước đá gì
nhậu được hông vậy tụi bay?” Tôi nói to: “Dạ! Ghe đang bị gẫy chưn vịt đang sửa
xếp ơi!” Người công an hỏi tiếp: “Thiệt hôn mày, tao leo lên mà có cá là tao
lấy hết à nghen!”. Tôi mạnh dạn nói lớn: “Mấy ngày nay ghe nằm ụ nên tụi em còn
phải ăn cá khô đó sếp. Kỳ sau vô có cá tươi thì em sẽ để dành cho sếp nhậu.” Toán
công an nhìn quanh chiếc ghe, thấy mấy tay lưới bung xổ bừa bãi không có khả
nghi gì nên quay mũi chạy luôn, trước khi đi còn nói với một câu: “Nhớ nghen
mày, tao ghi số ghe tụi bây rồi đó, kỳ sau có cá biển nhớ ghé đồn Rạch Ráng đưa
cho tao nghen!” Chúng tôi qua phen hú vía. Tạ ơn Thượng Đế trên cao. Cảm ơn anh
Phương Hải Thuyền. Không biết chúng tôi còn bao nhiêu phen đứng tim như thế này
nữa.
Đúng hai giờ chiều, tôi được
tín hiệu di chuyển, cho ghe chạy về hướng sông Ông Đốc. Chiếc vỏ lãi của nhóm
tổ chức dẫn đường một lúc rồi phóng nhanh về phía trước mất hút. Tôi không buồn
thắc mắc. Có lẽ họ đi rước thêm người. Tôi giữ tốc độ bình thường vừa chạy vừa
thả theo con nước ròng. Ba tiếng đồng hồ nặng nề trôi qua. Mười An ngồi cạnh
tay lái im lặng, thỉnh thoảng mồi cho tôi điếu thuốc. Ghe gần đến đồn công an
Rạch Ráng. Từ xa tôi thấy lố nhố những cây ăng ten trên nóc nhà, thấy cột cờ đỏ
sao vàng trên tấm bảng trước cổng đồn công an, trụ sở ủy ban nhân dân huyện
Trần Văn Thời... Chiếc vỏ lãi dẫn đường vẫn chưa trở lại. Tôi giật mình hỏi
Mười An: “Tụi mình phải làm sao đây?” Mười An sửng sốt: “Ủa họ không có nói gì
với anh sao?”. Tôi lắc đầu bảo: “Em cho bớt ga lại”. Ghe từ từ đến gần đồn công
an Rạch Ráng, Tôi đưa mắt ra hiệu cho An gõ ba tiếng lên nắp hầm. Ghe đã đến
sát bên đồn công an. Tôi lái chầm chậm cho ghe hướng mũi vào bờ giả bộ như sắp
cập vào đồn. Mười An có lẽ đoán trước được nước cờ “tương kế tựu kế” bất ngờ
của tôi, nó bình tĩnh bước ra trước mũi ghe, cầm sợi dây luộc cuộn tròn như
chuẩn bị nhảy lên bờ cột ghe vào cọc. Phía trước sân đồn, mười mấy lính công an
mặc xà lỏn áo thung đang đánh bóng chuyền. Hai ba người mặc sắc phục đeo K54
cũng chăm chú vào trận đấu và vỗ tay phụ họa hò la nên không chú ý đến chiếc
ghe. Tôi chỉ chờ giây phút này, trả số về “bon-noa” cho chân vịt ngưng quay,
bớt ga cho tiếng máy thật nhỏ và thả ghe trôi thật chậm qua khỏi đồn. Họ vẫn
không chú ý, tôi tiếp tục thả trôi tà tà, mười thước, hai mươi thước, rồi ba
mươi thước thước, rồi một trăm thước. Mười An vẫn đứng yên vị thế. Tôi từ từ
ngoái cổ lại phía đồn, trận bóng chuyền đang hồi quyết liệt hơn. Tôi thò tay
cầm cần số, nín thở vô số thật nhẹ, chưn vịt quay từ từ, ghe trôi nhanh hơn,
qua hết dãy hàng quán chợ búa, ra khỏi khu vực Trần Văn Thời.
Mười An khom người chui vô
cabin nói nhỏ: “Mình vọt luôn đi anh Tài!” Tôi quay mặt lại phía sau không thấy
ghe xuồng nào theo nên tăng ga chạy nhanh hơn. Mười An mồi cho tôi điếu, đưa
tay vướt ngực thở phào: “Hồi nãy em tưởng anh ghé vào đồn nên muốn đứng tim
luôn. Nếu em bị bắt chắc là bị tử hình chung với anh và mẹ em sẽ buồn lắm.”.
Tôi vỗ nhẹ vai nó: “Không sao đâu em, thôi xuống hầm máy coi cái bơm nước đi.”
Mười An quay lưng, tôi chắp
hai tay ngước mặt lên trời lâm râm khấn: “Tạ ơn Thượng Đế trên cao. Cảm ơn anh
Phương Hải Thuyền...”
Qua khỏi Rạch Ráng thì trời
gần sụp tối. Tôi kêu An mở hé nắp hầm để gió lùa vào khoang cho những người ở
dưới dễ chịu một chút. Chiếc vỏ lãi quay trở lại với bảy tám người khách, mấy
can dầu, gạo, thuốc lá và đèn pin, xong vội vã đi tiếp. Ghe đến gần cửa biển
Ông Đốc, dọc đường thỉnh thoảng một chiếc xuồng nhỏ từ trong bờ chèo ra đưa
khách lên khách ghe. tôi tính nhẩm gần tám chục người, thầm ái ngại vì ghe nhỏ
quá mà chở quá đông, ra biển liệu có vượt qua nổi sóng to gió lớn hay không.
Người chủ ghe leo lên dặn dò tôi những ám hiệu để qua đồn công an biên phòng,
anh đưa tôi cây “Ple-gun” cùng dây đạn sáu viên để bắn tín hiệu cầu cứu khi gặp
tàu quốc tế ngoài hải phận rồi bắt tay tôi chúc thượng lộ bình an, anh xuồng vỏ
lãi chạy ra phía cửa biển Ông Đốc.
Ghe ra đến cửa biển thì đã gần
nửa đêm. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Quay lại phía sau lần cuối, tôi nghẹn ngào nói
thầm: “Quê hương ơi, vĩnh biệt. Mẹ ơi, xin tha tội bất hiếu của con.” Tôi biết
giờ này mẹ đang ngồi bên bàn thờ cha tôi để van vái cho thằng con vượt biển
bình an.
Đêm tối đen không trăng sao,
phía trước là một vùng trời nước mịt mù. Tôi lấy hải bàn ra, rọi đèn pin nhắm
hướng Mã Lai. Những người trên ghe bắt đầu say sóng, ụa mửa. Một số leo lên
ngồi trên sàn ghe vì dưới hầm quá đông, quá ngộp. Tôi cứ nhìn kim hải bàn và
cầm chặt tay lái, ghe bắt đầu vượt sóng to. Tôi cảm thấy lạnh vì gió lớn hát
bọt sóng bay tung tóe vào ca-bin làm ướt hết quần áo. Dù lạnh nhưng tôi vẫn đổ
mồ hôi như tắm vì lo sợ hoang mang trong bóng đêm dày đặc. Hành trình thì hoàn
toàn vô định giữa biển khơi mênh mông sóng gió. Tôi lại chắp tay trước ngực cầu
nguyện, xin phù hộ...
Mười An đến cạnh tôi, chìa
gói mì tôm. Hai đứa cùng nhai sống, uống nước lạnh cho đỡ đói. Gần năm tiếng
đồng hồ trôi qua, bầu trời hừng đông dần hiện rõ những lượn sóng to trước mặt.
Tôi vẫn nhìn hải bàn, xả máy tống hết ga và giữ chặt vô lăng, nương chẻ theo
từng lượn sóng để ghe không bị úp. Bỗng từ xa, mờ mờ bóng một chiếc tàu buôn
lớn, tôi đoán ghe đã ra hải phận quốc tế. Mười An la len: “Tàu quốc tế kìa, bắn
xi nhan lên đi anh Tài.” Mọi người trên ghe ngồi nhổm dậy, mừng rỡ xôn xao chỉ
về hướng tàu. Tôi định thần nhìn kỹ, lắp viên đạn đỏ nhỏ dài như viên pháo, đưa
lên khỏi đầu chĩa về hướng chiếc tàu buôn. Một vệt đỏ xẹt lên cao rồi tan trong
không khí. Năm phút, mười phút nặng nề trôi qua, vẫn không thấy chiếc tàu buôn
đổi hướng. Bắn thêm một viên, rồi viên thứ ba, vẫn vô vọng... Không biết họ có
nhận được tín hiệu cầu cứu chăng? Chiếc tàu buôn từ từ khuất bóng giữa đại
dương.
Trời đã sáng tỏ, sóng bớt to.
Tôi ái ngại nhìn phía trước mênh mông, không bờ bến, chiếc thuyền quá nhỏ bé,
mong manh. Người trên ghe ngầy ngật say sóng và ụa mửa liên tục. Chỉ có tôi,
Mười An, và vài ông có lẽ là cựu quân nhân là còn tỉnh táo, dù rất mệt mỏi. Tôi
kêu An nổi lửa nấu nồi cháo lớn, múc cho đàn bà trẻ em mỗi người một chén, húp
với chà bông để cầm hơi. Họ ăn vào lại ói ra. Trẻ con bị nước biển thấm vào
người nên cảm lạnh nằm thiêm thiếp. Tôi giao tay lái cho Mười An, bò lần ra
phía trước trấn tĩnh mọi người: “Cố gắng lên nghe các anh chị, mình đã đến hải
phận quốc tế rồi, không bao lâu nữa sẽ tới Mã Lai.”
Giữa trưa, mặt trời đứng
bóng, ghe vượt sóng nặng nề, chậm chạp. Số đông đàn bà trẻ em đã ngất xỉu nằm
mê man, la liệt. Mấy anh cựu quân nhân đề nghị đổi hướng vô Thái Lan vì e rằng
trẻ em không chịu nổi mà chết trên ghe. Tôi cho mọi người biết nếu vào hải phận
Thái Lan thì sẽ bị hải tặc cướp và hãm hiếp. Trước khi đi tôi đã nhận được thư
của những người bạn đi trước hiện còn tạm cư ở Thái Lan khuyên đừng vào hải
phận Thái lan. Các anh đồng ý, rồi thay phiên nhau đút cháo, xức dầu cho những
người ngất xỉu.
Đến xế chiều, mây đen cuồn
cuộn che mờ mịt, gió bắt đầu thổi mạnh. Mọi người hốt hoảng bồng bế xuống
khoang hầm. Trời nổi giông, sấm chớp gầm vang, gió rít từng hồi báo hiệu một
cơn bão sắp đi ngang. Mưa trút nặng hột, gió mạnh, sóng cao từng đợt chụp vào
làm ghe chòng chành nghiêng ngả.
Tôi môi ghì chặt tay lái, hai
chân cố đứng vững nhưng ghe lắc liên tục nên tôi bị chúi ngã theo từng cơn
sóng. Khung kiếng chắn gió phía trước bị đánh bể. Đầu tôi va mạnh vào đó, tôi
choáng váng, máu chảy xuống gò má. Mưa tạt mạnh tê rát mặt mũi, máu hòa nước
biển thấm mặn môi. Mười An một tay xốc nách tôi, một tay cầm vô lăng. cả hai
cùng nhào lộn trong ca-bin. Chiếc hải bàn văng xuống sàn long lóc. Tôi chợt nhớ
tới anh Phương Hải Thuyền, sợ hải bàn lọt xuống biển. Một động lực nhiệm màu
khién tôi bật dậy, một tay chụp hải bàn ôm chặt vào ngực, một tay nắm vô lăng
gượng người đứng thẳng nhìn phía trước luồn lách qua những cơn sóng dữ hung
thần...
Nửa giờ đồng hồ trôi qua,
biển đã bớt cơn thịnh nộ nhưng sóng vẫn chưa ngừng. Mười An dọi đèn pin, bẻ
điếu thuốc lá rịn vào vết kiếng cắt và xé khăn quán ngang trán tôi. Ghe vẫn
chạy ì ạch, nặng nề vì nước tràn vào khoang bơm ra không kịp. Tôi kêu An nhờ
mấy anh cựu quân nhân qua hầm máy, hợp sức dùng can múc nước tát ra ngoài cho
nhẹ ghe để khỏi bị chìm. Tôi nhìn hải bàn, chỉnh lại tay lái và tiếp tục chạy.
Quá nửa đêm, dưới khoang
trước bỗng có tiếng la thất thanh: “Trời ơi, con tôi chết rồi!” Cả đám người
nhốn nháo la hét, chửi đồ thằng tài công khốn nạn, vô lương tâm, không chịu tấp
vô Thái Lan. Một thanh niên từ dưới khoang chui lên ca-bin chụp cổ cùng tay
thoi mạnh vào mặt tôi. Do bất ngờ, tôi té lăn, máu từ vết cắt lại chảy ra. tôi
gượng dậy, cắn răng chịu đau, đứng im không chống cự vì đoán rằng anh ta là
người vừa mất con.
Mười An nhào tới cả anh ra,
mấy anh quân nhân xúm ôm anh ta lại. Đứa con trai một tuổi của anh ta bị say
sóng, đói rét, cảm lạnh suốt một ngày một đêm không ăn uống, thuốc thang, đã
trút hơi thở trên tay mẹ cháu. Tôi chết lặng, nước mắt tuôn dài hòa cùng máu
thấm mặn môi, thương cho người cha vừa mất đứa con thơ vô tội.
Các anh cựu quân nhân thì có
vẻ thông cảm, lập tức làm rào bảo vệ tôi trước sự phẫn nộ của đám đông trên
ghe. Cuối cùng họ buộc tôi đổi hướng vào Thái Lan để thu ngắn lộ trình, vì ghe
còn nhiều đứa trẻ đang thoi thóp. tôi không nỡ nhìn những đứa trẻ khác tiếp tục
chết, đành cắn răng gạt nước mắt đổi hướng hải bàn dù biết vòng vây hải tặc
Thái Lan đang trực chờ.
Ba ngày lênh đênh trên vịnh
Thái Lan, thỉnh thoảng gặp vài thây người trôi rải rác trên mặt biển. Mười bốn
lần tàu bị hải tặc tấn công, cướp bóc vơ vét vòng vàng nữ trang, hãm hiếp đàn
bà con gái. Tôi là tài công nên bị đánh đập, tra khảo nhiều nhất, bị kề dao vào
cổ, nhưng may là tôi không có vàng trong người nên họ chưa cắt cổ tôi quăng
xuống biển. Họ lấy luôn cả máy ghe vì nghi bên trong có dấu vàng. Cướp xong, họ
bỏ mặc ghe chúng tôi, quay tàu đi với những tiếng cười man rợ.
Cuối cùng một tàu đánh cá
Thái Lan thứ mười lăm, do ông thuyền trưởng tóc bạc người Thái gốc Hoa tốt
bụng, thấy cảnh tang thương bi đát trên ghe nên động lòng trắc ẩn, bất chấp
lệnh cấm của chính phủ Thái Lan, trong đêm tối lén kéo chiếc ghe sắp chìm của
chúng tôi vô bờ ven tỉnh Songkhla vào một đêm hạ tuần tháng 8 năm 1980.
Đoạn kết:
Tôi, người tài công bất lực,
vì tôn trọng nỗi mất mát đau thương của những nạn nhân trên chiếc ghe bất hạnh
nên không dám tả lại hình ảnh hãi hùng của mười bốn lần cướp biển hành hạ, và
thời gian trong trại tạm cư với những cái bào thai oan nghiệt. Thiết nghĩ đó
cũng là nỗi đau chung của một dân tộc bé nhỏ triền miên bị đọa đầy thống khổ.
Vì yêu chuộng tự do phải liều chết ra đi theo cùng vận nước. Ai đã từng là
thuyền nhân hôm xưa đang sống trên miền đất tự do xin hãy nguyện cầu anh linh
của những oan hồn ưởng tử đang chìm sâu dưới lòng bốn phía đại dương. Xin cho
người Việt Nam lưu vong trên khắp địa cầu thương yêu nhau hơn.
Little Saigon, tháng 10 năm 2002.
Tài Công Mp53