Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Nhà Vua Trở Về - Quyển V - Chương 03 - Phần 1
Chương III
CUỘC HỘI QUÂN ROHAN
Giờ
thì tất cả các con đường đều chạy về phía Đông để đối mặt với cuộc chiến đang ập
đến và sự công kích của Bóng Đen. Ngay lúc Pippin đứng trước Đại Môn của kinh
thành nhìn Hoàng thân Dol Amroth trương cờ tiến vào, cũng là lúc Vua đất Rohan ra
khỏi khu đồi.
Ngày
đang tàn. Dưới những tia sáng mặt trời cuối cùng, đoàn kị binh hắt những cái bóng
nhọn dài về phía trước. Bóng tối đã trườn đến dưới rừng cây linh sam xào xạc phủ
đầy bên sườn núi dốc. Nhà vua cho ngựa đi chậm. Bấy giờ con đường vòng qua vai một
gờ đá lớn trọc lóc và đâm vào vùng bóng tối dưới những tán cây khe khẽ rì rầm. Họ
đi xuống, xuống mãi theo hàng một dài uốn lượn. Khi cuối cùng họ cũng tới đáy hẻm
núi, buổi tối đã lấp đầy những nơi trũng nhất. Mặt trời đã lặn. Ánh chiều tà phủ
lên thác nước.
Suốt
cả ngày, xa bên dưới họ, một dòng suối nhấp nhô đã chảy xuống từ con đèo núi cao
đằng sau, lách dòng chảy hẹp giữa những vách núi xanh bóng thông; và giờ qua một
cổng đá nó chảy ra rồi đổ vào một khe thung rộng hơn. Đoàn kị binh đi theo nó; và
đột nhiên Hargdal, dải thung lũng Khe Miếu trải ra trước mắt họ, ầm ĩ tiếng nước
rơi vào buổi tối. Dòng Tuyết Snawburna trắng xóa được dòng suối nhỏ hơn tiếp sức,
cuồn cuộn sủi bọt trên đá cuội, chảy xuống Edoras cùng những ngọn đồi và cánh đồng
xanh tươi. Ở xa phía bên phải, ngay đầu thung lũng dài, ngọn Starkhorn hùng vĩ sừng
sững trên những thân núi mênh mông mây cuốn; nhưng đỉnh núi nhọn lởm chởm vĩnh viễn
phủ trong tuyết trắng, lấp lánh cao tít bên trên thế giới, đằng Đông bắt bóng xanh
lam, đằng Tây loang lổ đỏ dưới hoàng hôn.
Merry
kinh ngạc ngắm nhìn vùng đất kì lạ này, vùng đất cậu đã được nghe kể nhiều câu chuyện
suốt dọc đường dài. Đó là một thế giới không có bầu trời, mà tầm mắt cậu, phóng
qua những vịnh không khí tăm tối, chỉ thấy những sườn núi mỗi lúc một thêm cao ngất,
hết rặng tường đá khổng lồ này đến rặng tường đá khác, và những vách núi dựng đứng
tư lự vờn sương. Cậu ngồi một lúc mơ mơ màng màng, lắng nghe tiếng ầm ĩ của nước,
tiếng thì thầm của rừng cây tối, tiếng lách cách của sỏi, và cái im lặng mênh mông
ủ ê chờ đợi đằng sau mọi âm thanh. Cậu yêu núi non, hoặc đúng hơn cậu đã từng yêu
ý nghĩ về những dãy núi trùng trùng điệp điệp ở hậu cảnh những câu chuyện từ xa
xôi đâu đó mang về; nhưng giờ cậu muốn oằn xuống dưới sức nặng không chịu nổi của
Trung Địa. Cậu muốn trốn khỏi cảm giác khổng lồ này trong một căn phòng yên tĩnh
bên ánh lửa.
Cậu
rất mệt, bởi mặc dù đi chậm, họ đã đi mà không nghỉ ngơi mấy. Nhiều giờ đồng hồ
liền trong suốt gần ba ngày mệt mỏi, cậu xóc lên xóc xuống, qua đèo xuyên thung
dài, vượt nhiều con suối. Đôi lúc, khi đường rộng hơn, cậu đi bên cạnh đức vua,
không để ý thấy nhiều kị sĩ mỉm cười khi thấy cả hai bên nhau: chàng Hobbit trên
chú ngựa lùn xám bờm xờm, và Chúa đất Rohan trên con tuấn mã trắng. Rồi thì cậu
nói chuyện với Théoden, kể cho ông nghe về quê nhà mình và những chuyện người Quận
vẫn làm, hoặc nghe ông kể truyền thuyết về đất Mark và những con người hùng cường
thuở xa xưa. Nhưng hầu hết thời gian, đặc biệt trong ngày cuối cùng này, Merry đi
một mình ngay phía sau nhà vua, không nói gì hết, cố gắng hiểu lối nói trầm vang
từ tốn của người Rohan mà cậu nghe thấy những người đi sau sử dụng. Ngôn ngữ ấy
dường như chứa rất nhiều từ cậu hiểu, dù được phát âm ngân nga và mạnh mẽ hơn ở
Quận, và dù vậy cậu vẫn không thể xâu chuỗi các từ với nhau. Thảng hoặc, một kị
sĩ nào đó lại cất vang giọng ca hào hùng trong trẻo, và Merry cảm thấy như trái
tim cậu nhảy nhót theo, dù không hiểu ca từ.
Nhưng
dù thế nào cậu vẫn cảm thấy cô đơn, và chưa bao giờ cô đơn hơn lúc này, khi ngày
kết thúc. Cậu tự hỏi Pippin đã đi tới đâu nơi miền đất lạ lùng này; và còn chuyện
gì sẽ xảy ra với Aragorn, Legolas và Gimli. Rồi đột nhiên như có bàn tay lạnh lẽo
chạm vào tim, cậu nghĩ tới Frodo và Sam. “Mình đang quên dần họ!” cậu tự quở trách.
“Và họ quan trọng hơn tất cả chúng ta nhiều. Và mình đến đây để giúp họ; nhưng giờ
họ hẳn phải ở cách xa đây hàng trăm dặm, nếu vẫn còn sống.” Cậu rùng mình.
*
* *
“Cuối
cùng cũng đến Hargdal!” Éomer nói. “Hành trình của chúng ta sắp kết thúc rồi.” Họ
dừng lại. Lối đường dẫn ra khỏi khe núi hẹp chợt dốc hẳn xuống. Chỉ thấy một thoáng
dải thung lũng mênh mông trong ánh chập choạng phía dưới, giống như nhìn qua ô cửa
sổ cao. Một tia sáng nhỏ đơn độc lấp lánh bên dòng sông.
“Cuộc
hành trình này đã kết thúc, có thể là vậy,” Théoden nói, “nhưng ta vẫn còn phải
đi nhiều. Hai đêm trước trăng tròn, và khi trời sáng, ta sẽ phi tới Edoras để hội
quân toàn đất Mark.”
“Nhưng
nếu người nghe lời khuyên của thần,” Éomer hạ giọng nói, “thì sau đó người hãy trở
về đây, cho tới khi chiến tranh kết thúc, dù thắng hay thua.”
Théoden
mỉm cười. “Không, con trai ạ, bởi ta sẽ gọi con như vậy, đừng nói những lời ngọt
nhạt của Lưỡi Giun vào đôi tai già này!” Ông ngồi thẳng dậy và nhìn lại hàng quân
dài mờ dần vào bóng hoàng hôn sau lưng. “Kể từ khi ta lên ngựa về Tây, chỉ vài ngày
mà như hàng năm trời đằng đẵng đã trôi qua; nhưng ta sẽ không bao giờ tì lên gậy
nữa. Nếu cuộc chiến thất bại, ta lẩn nấp giữa những ngọn đồi thì có ích gì đâu?
Và nếu chúng ta chiến thắng, dù ta có ngã xuống khi dùng đến chút sức lực cuối cùng,
sao có thể gọi là đau khổ? Nhưng giờ chúng ta sẽ không nói chuyện này nữa. Tối nay,
ta sẽ ngủ tại Cứ Điểm Dunharg. Ít nhất thì chúng ta vẫn còn một buổi đêm yên bình.
Hãy đi tiếp!”
Trong
bóng hoàng hôn tối dần, họ đi xuống thung lũng. Ở đây, dòng Snawburna chảy gần vách
phía Tây thung lũng, và không lâu sau, lối mòn dẫn họ tới một khúc cạn nơi dòng
nước nông chảy ồn ĩ trên đá cuội. Khúc cạn có người gác. Khi nhà vua đến gần, nhiều
người nhảy bật ra khỏi bóng vách đá; và khi nhận ra nhà vua họ kêu lên vui sướng:
“Théoden Vương! Théoden Vương! Vua đất Mark đã trở lại rồi!”
Rồi
ai đó thổi hồi tù và dài. Tiếng kêu vang vọng trong thung lũng. Những tiếng tù và
khác rúc lên trả lời, ánh sáng bừng lên bên kia sông.
Và
đột ngột đồng loạt cất cao những tiếng kèn từ phía trên, dường như rền vang từ hốc
đá nào đó, nơi hòa quyện chúng làm một và ném trả chúng cuồn cuộn và dồn dập lăn
xuống các tường đá.
Vậy
là Vua đất Mark thắng trận trở về từ phía Tây, đã tới Dunharg dưới chân Dãy Núi
Trắng. Ở đây, ông thấy tất cả lực lượng còn lại của dân tộc mình đã tập hợp đủ;
bởi ngay khi tin ông tới truyền ra, các chỉ huy đã phi ngựa đến diện kiến ông ở
khúc cạn, mang theo tin từ Gandalf. Dúnhere, thủ lĩnh dân ở Hargdal, đứng hàng đầu.
“Vào
bình minh ba ngày trước, thưa chúa thượng,” ông nói, “Scadufax tới Edoras như một
làn gió thổi đến từ phương Tây, và Gandalf báo tin về chiến thắng của chúa công
cho những trái tim chúng tôi vui sướng. Nhưng ông ấy cũng chuyển lời căn dặn của
chúa công là phải đẩy nhanh việc tập hợp đội kị binh. Và rồi Bóng Ma có cánh ập
đến.”
“Bóng
Ma có cánh?” Théoden hỏi. “Chúng ta cũng thấy nó nhưng đó là vào đêm khuya trước
khi Gandalf ra đi.”
“Có
lẽ, thưa chúa công,” Dúnhere nói. “Nhưng cùng là nó, hoặc một con giống nó, một
thứ bóng tối bay lượn trong hình dáng con chim khổng lồ, đã bay qua Edoras vào sáng
hôm đó, và tất cả mọi người đều run sợ. Bởi nó lượn xuống trên Meduseld, và khi
nó xuống thấp, gần sát đầu hồi, tiếng nó kêu làm tim chúng tôi ngừng đập. Rồi chính
Gandalf đã khuyên chúng tôi không nên tụ quân trên đất bằng mà tới đây đón chúa
công trong thung lũng dưới chân núi. Và ông ấy dặn chúng tôi không thắp đèn hoặc
đốt lửa ngoại trừ cho những nhu cầu cần thiết nhất. Chúng tôi đã làm theo. Gandalf
đã nói rất uy quyền. Chúng tôi tin rằng đó chính là điều chúa thượng cũng muốn.
Ở Hargdal chưa bao giờ thấy bóng những con quái vật này cả.”
“Tốt
lắm,” Théoden nói. “Giờ ta sẽ phóng tới Cứ Điểm, và trước khi nghỉ ngơi, ta sẽ gặp
các thống chế và chỉ huy. Hãy bảo họ tới chỗ ta càng nhanh càng tốt!”
Con
đường giờ dẫn sang phía Đông, cắt ngang thung lũng, ở đó thung chỉ rộng hơn nửa
dặm. Những vạt và khóm cỏ lởm chởm rải rác khắp nơi, xám xịt dưới màn đêm đang dần
buông xuống, nhưng phía trước, ở đầu kia thung lũng, Merry thấy một vách đá lừng
lững, một nhánh chân núi cuối cùng của đỉnh Starkhorn, bị dòng sông xẻ đôi từ rất
lâu về trước.
Ở
tất cả những nơi bằng phẳng đều có những đoàn người đông đảo tập hợp. Một số dồn
lại bên đường, vui mừng hoan hô nhà vua và các kị sĩ trở về từ phương Tây; nhưng
trải dài về phía xa sau lưng họ còn có những hàng lều trại được dựng lên trật tự,
những hàng ngựa buộc vào cọc, nhiều lều trữ vũ khí lớn, và những đống giáo dựng
lên tua tủa như thảm cây mới trồng. Lúc này, toàn bãi quân chìm dần vào bóng tối,
thế nhưng dù bầu không khí ban đêm lạnh lẽo tràn xuống từ những đỉnh núi cao, không
ánh đèn nào sáng lên, không đống lửa nào được thắp. Lính canh mặc áo choàng kín
mít đi đi lại lại.
Merry
tự hỏi ở đây có bao nhiêu kị sĩ. Cậu không đoán được số lượng họ trong bóng tối
ngày càng dày đặc, nhưng cậu thấy có vẻ đó là một đoàn quân lớn, phải lên tới mấy
ngàn người tráng kiện. Trong lúc cậu ngó nghiêng hai bên, đoàn người của nhà vua
đã tới chân vách đá lừng lững chắn cạnh phía Đông thung lũng, và ở đó, con đường
đột ngột dốc lên, khiến Merry ngước nhìn kinh ngạc. Cậu đang đi trên một con đường
không giống bất cứ con đường nào cậu từng thấy, công trình của bàn tay con người
từ những năm tháng xa xưa quá cả kí ức trong thơ ca. Đường đi vòng vèo lên mãi,
uốn lượn như rắn, cắt vào sườn đá dựng đứng. Dốc như cầu thang, nó ngoặt qua rồi
ngoặt lại dẫn lên phía trên. Ngựa có thể đi trên đường, và xe thồ có thể được kéo
lên chậm chạp; nhưng không kẻ thù nào có thể đến theo đường đó, trừ phi từ trên
trời, nếu nó được phòng thủ từ phía trên. Ở mỗi chỗ ngoặt lại có những khối đá lớn
tạc hình người, to lớn và chân tay lóng ngóng, ngồi khoanh chân với đôi cánh tay
ngắn mập khoanh trước cái bụng ông địa. Một vài hình khắc đã mất hết đường nét gương
mặt dưới sự bào mòn của năm tháng, chỉ còn lại những lỗ mắt tối sẫm vẫn chằm chằm
buồn bã nhìn những kẻ đi qua. Các kị sĩ hầu như không liếc mắt nhìn chúng. Họ gọi
chúng là hình nhân Púkel, và không mấy để ý tới chúng: chúng không còn chút kinh
hoàng hay quyền năng nào sót lại; nhưng Merry nhìn chúng kinh ngạc và cảm thấy gần
như thương hại, khi thấy chúng thêm gần, thê lương trong ánh chạng vạng.
Sau
một hồi lâu, cậu ngoảnh lại thấy mình đã lên được khoảng trăm bộ trên thung lũng,
nhưng xa phía dưới vẫn lờ mờ thấy dòng kị binh uốn lượn băng qua khúc cạn và đi
hàng một trên con đường tới khu lều trại được chuẩn bị cho họ. Chỉ nhà vua và đội
cận vệ đi lên Cứ Điểm.
Cuối
cùng, đoàn người của nhà vua tới bờ vách núi thẳng đứng, và con đường đi lên xẻ
đôi giữa hai vách đá, lên một quãng dốc ngắn rồi đổ ra một khoảng đất bằng rộng.
Người ta gọi nơi này là Firienfeld, một cánh đồng núi phủ cỏ và thạch nam xanh,
cao tít phía trên thung lũng sông Snawburna xẻ sâu, nằm ở khúc giao thoa giữa hai
khối núi hùng vĩ phía sau: đỉnh Starkhorn phía Nam, và phía Bắc là khối núi Írensaga
hình răng cưa; chính giữa, đối diện với các kị sĩ, là vách đen đỉnh Dwimorberg,
đỉnh Ma Ám, vụt lên từ những sườn núi dốc phủ đầy những cây thông tối thẫm. Chia
đôi cánh đồng núi cao là một hàng đồi những khối đá đứng không hình thù rõ rệt,
nhỏ dần vào bóng chạng vạng và biến mất giữa những tán cây. Những ai dám đi theo
con đường này rồi sẽ tới rừng đen Dimholt dưới chân đỉnh Dwimorberg, cột đá đầy
đe dọa, và bóng tối ngoác miệng trong ô cửa cấm.
Đó
chính là Dunharg tăm tối, thành quả của những con người đã bị lãng quên. Tên họ
đã mất từ lâu, và không bài ca hay truyền thuyết nào nhắc tới họ. Vì sao họ dựng
lên nơi này, làm một thị trấn, một ngôi đền bí mật hay một lăng mộ hoàng gia, không
ai ở Rohan có thể trả lời. Ở đây họ đã lao động trong Những Năm Đen Tối, trước khi
có con tàu nào cập bến bờ Tây, hay Gondor của người Dúnedain được xây dựng; và giờ
thì họ đã biến mất, chỉ còn những hình nhân Púkel là còn lại, vẫn ngồi ở các chỗ
ngoặt của con đường.
Merry
nhìn hai hàng đá kéo dài: những khối đá mòn và đen đúa; một vài khối nghiêng, một
vài khối đổ xuống, một số nứt vỡ; trông chúng giống như hai hàng răng già nua đói
ngấu. Cậu tự hỏi chúng có thể là gì, và cậu hi vọng nhà vua sẽ không đi theo chúng
vào bóng tối phía trước. Thế rồi cậu thấy có những lều trại cả hai bên hàng đá,
nhưng không cái nào dựng gần cụm rừng, trái lại dường như đều tránh đi mà co cụm
về phía bờ vách núi. Nửa bên phải trảng Firienfeld rộng hơn, lều trại cũng nhiều
hơn; nửa bên trái là một khu trại nhỏ, chính giữa có một nhà lều lớn. Từ phía này,
một kị sĩ tiến ra chào đón họ, và họ rẽ khỏi con đường.
Khi
họ tới gần hơn, Merry thấy kị sĩ kia là một người phụ nữ, mái tóc tết dài lấp lánh
trong ánh chạng vạng, thế mà nàng đội mũ sắt và trùm giáp tới thắt lưng như một
chiến binh, đeo theo kiếm bên sườn.
“Kính
mừng Chúa đất Mark!” nàng kêu lên. “Trái tim thần vui sướng khi thấy người trở về.”
“Còn
con, Éowyn,” Théoden nói, “mọi chuyện vẫn ổn với con chứ?”
“Tất
cả đều ổn,” nàng trả lời; nhưng Merry thấy dường như giọng nàng phản bội nàng, và
cậu hẳn sẽ nghĩ nàng vừa khóc, nếu điều đó có thể tin được ở một người có nét mặt
nghiêm nghị dường kia. “Tất cả đều ổn. Con đường lên đây thật mệt mỏi đối với người
dân của ta, khi đột nhiên phải xa rời ngôi nhà của mình. Cũng có những lời phàn
nàn, bởi từ lâu rồi chúng ta chưa bị chiến tranh bắt rời khỏi những cánh đồng xanh;
nhưng không hề có rắc rối gì lớn cả. Giờ tất cả đều đã ổn thỏa, như người thấy đó.
Và nơi nghỉ của người đã được chuẩn bị rồi; bởi thần được biết tin về người rất
đầy đủ, và biết khi nào người tới.”
“Vậy
là Aragorn đã tới đây,” Éomer nói. “Anh ấy còn ở đây không?”
“Không,
ngài đi rồi,” nàng trả lời, quay mặt đi nhìn về dãy núi tối đen trên nền trời phía
Đông và Nam.
“Anh
ấy đi đâu vậy?” Éomer hỏi.
“Em
không biết,” nàng đáp. “Ngài đến đây vào buổi đêm, và đi vào sáng hôm qua, trước
khi mặt trời lên qua đỉnh núi. Ngài đã đi rồi.”
“Con
buồn khổ, con gái của ta,” Théoden nói. “Chuyện gì đã xảy ra vậy? Nói cho ta biết
có phải anh ấy đã nói về con đường đó không?” Ông chỉ theo những hàng đá dần chìm
trong bóng tối dẫn về đỉnh Dwimorberg. “Về Lối Người Chết?”
“Vâng,
thưa chúa thượng,” Éowyn nói. “Và ngài đã tiến vào bóng tối mà chưa từng ai trở
ra. Thần không thể khuyên can được. Ngài đã đi rồi.”
“Vậy
là con đường của chúng ta đã chia lìa,” Éomer nói. “Anh ấy đã mất dấu. Chúng ta
phải đi tiếp mà không có anh ấy, và hi vọng của chúng ta suy giảm.”
Họ
chậm chạp đi qua thảm thạch nam thấp và cỏ vùng cao, không nói gì nữa cho tới khi
đến nhà lều của nhà vua. Ở đây, Merry thấy mọi thứ đã sẵn sàng, và thấy mình không
bị bỏ quên. Một cái lều nhỏ đã được dựng cho cậu cạnh nơi nghỉ của nhà vua; cậu
ngồi một mình trong đó khi con người đi tới đi lui, vào gặp nhà vua và bàn bạc với
ông. Buổi đêm kéo đến, những đỉnh núi lấp ló ở phía Tây đội lên vương miện bằng
sao, nhưng phương Đông tối và trống trải. Những hàng đá chạy dài từ từ mờ dần không
nhìn thấy được, nhưng ở cuối hàng, tối hơn bóng đêm, vẫn mãi thấy cái bóng gù gù
mênh mông của đỉnh Dwimorberg.
“Lối
Người Chết,” cậu thì thầm. “Lối Người Chết? Tất cả điều này nghĩa là sao vậy? Giờ
họ đều đã rời bỏ mình. Họ đều đã đi đến định mệnh nào đó: Gandalf và Pippin tới
cuộc chiến ở phía Đông; Sam và Frodo tới Mordor; Sải Chân Dài cùng Legolas và Gimli
tới Lối Người Chết. Nhưng rồi cũng sẽ sớm đến lượt mình thôi, mình đoán vậy. Mình
tự hỏi tất cả bọn họ đang nói gì với nhau, và đức vua định làm gì. Bởi giờ mình
phải tới nơi nào ngài tới.”
Giữa
những suy nghĩ ảm đạm này, cậu chợt nhớ rằng mình rất đói, và cậu dậy đi xem có
ai khác ở khu trại lạ lùng này cũng thấy đói không. Nhưng đúng lúc ấy tiếng kèn
đồng vang lên, và có người tới triệu cậu, hầu cận của đức vua, tới hầu bên bàn ông.
Ở
bên trong nhà lều có một khoảng nhỏ ngăn riêng ra nhờ các tấm thảm treo thêu và
trải da thú trên mặt đất; bên trong Théoden đang ngồi quanh cái bàn nhỏ cùng Éomer,
Éowyn và Dúnhere, chúa thung lũng Hargdal. Merry đứng cạnh ghế đặt chân của nhà
vua chờ đợi, cho tới lúc vị vua già thoát khỏi những suy nghĩ trầm tư, quay lại
cậu mỉm cười.
“Đến
đây, cậu Meriadoc!” ông nói. “Ngươi không phải đứng. Ngươi sẽ ngồi cạnh ta, chừng
nào ta còn ở trên đất của mình, và làm khuây khỏa trái tim ta bằng những câu chuyện.”
Người
ta dọn chỗ cho chàng Hobbit ở bên tay trái nhà vua, nhưng không ai đòi kể chuyện
gì. Thực ra không ai nói chuyện nhiều, và họ ăn uống hầu như trong im lặng, cho
tới lúc cuối cùng, thu được đủ can đảm, Merry hỏi câu hỏi cứ luôn hành hạ cậu.
“Đã
hai lần rồi, thưa bệ hạ, tôi nghe nhắc đến Lối Người Chết,” cậu hỏi. “Nó là gì thế?
Và Sải Chân Dài đâu rồi, ý tôi là Vương tử Aragorn, anh ấy đi đâu?”
Nhà
vua thở dài, nhưng không ai trả lời, tới khi cuối cùng Éomer lên tiếng. “Chúng tôi
không biết, và trái tim chúng tôi trĩu nặng,” chàng nói. “Nhưng về Lối Người Chết,
chính cậu đã bước lên những bước đầu tiên của nó rồi. Không, tôi không nói điềm
xấu đâu! Đường chúng ta lên đây là lối tới Cửa Tối, sâu trong rừng Dimholt. Nhưng
điều gì nằm bên trong, không ai biết cả.”
“Không
ai biết,” Théoden nói: “thế nhưng những truyền thuyết cổ xưa, giờ thì ít khi còn
được nhắc đến, từng kể đôi điều về nó. Nếu những truyện kể xa xưa được truyền từ
cha sang con trong gia tộc Eorl là đúng, thì Cửa dưới chân Dwimorberg dẫn tới một
lối đi bí mật trong lòng núi đến nơi nào đó đã bị lãng quên. Nhưng không ai từng
dám vào tìm kiếm bí mật của nó, kể từ khi Baldor, con trai Brego, đi qua Cửa và
không bao giờ còn xuất hiện trước mắt người đời nữa. Người đã lập một lời thề liều
lĩnh, trong khi uống cạn sừng rượu ở bữa tiệc Brego tổ chức mừng ngày cất Meduseld,
và người không bao giờ tới được chiếc ngai tôn quý thuộc quyền người thừa kế.
“Người
ta nói Người Chết từ Những Năm Đen Tối canh gác lối đi, và sẽ không cho người sống
nào bước vào những sảnh đường bí mật của họ; nhưng đôi khi người ta thấy chính họ
đang lướt qua cửa xuống con đường đá như những cái bóng. Rồi người ở Hargdal vội
vàng đóng sập cửa nhà, kéo rèm che cửa sổ mà sợ hãi. Nhưng Người Chết ít khi xuất
hiện, chỉ vào thời loạn lạc và chết chóc mà thôi.”
“Còn
ở Hargdal đồn đại thế này,” Éowyn thấp giọng nói, “rằng trong những đêm không trăng
chỉ cách đây không lâu, một đoàn quân lớn ăn vận kì lạ đi qua. Chúng đến từ đâu
không ai biết, nhưng chúng đi lên con đường đá và biến mất vào trong đồi, như thể
đến một cuộc hẹn.”
“Vậy
thì tại sao Aragorn lại đi theo hướng ấy?” Merry hỏi. “Các vị không biết gì giải
thích được điều đó à?”
“Trừ
phi anh ấy nói với cậu như với một người bạn những lời mà chúng tôi chưa được nghe,”
Éomer nói, “thì giờ không ai trên vùng đất người sống biết được mục đích của anh
ấy.”
“Ngài
đã thay đổi rất nhiều từ khi thần thấy ngài lần đầu trong cung điện của chúa công,”
Éowyn nói: “khắc khổ hơn, già dặn hơn. Thần nghĩ ngài như trong cơn mê, giống như
kẻ bị Người Chết gọi hồn.”
“Có
lẽ anh ta thật sự đã bị gọi hồn,” Théoden nói, “và trái tim mách bảo ta rằng ta
sẽ không còn gặp lại anh ta nữa. Nhưng đó là con người có khí chất đế vương với
số phận cao quý. Và hãy tìm an ủi trong ý nghĩ này, con gái của ta, vì xem ra con
cần an ủi trong nỗi đau buồn dành cho vị khách này. Người ta nói rằng khi dòng giống
Eorlingas xuống đây từ phương Bắc và cuối cùng cũng đi ngược dòng Snawburna, tìm
kiếm những nơi trú ẩn kiên cố trong khi nguy cấp, Brego và con trai Baldor đã trèo
lên Cầu Thang Cứ Điểm và đến trước Cửa Tối. Một ông lão ngồi trên thềm cửa, già
nua không thể đoán tuổi tác, xưa đã từng cao lớn và mang khí chất đế vương, nhưng
giờ khô héo như một tảng đá lâu đời. Quả thực họ đã nhầm lão là tảng đá, bởi lão
không cử động, và không nói lời nào, cho tới khi họ định đi qua lão tiến vào trong.
Và rồi một giọng nói cất lên từ lão, như thể cất lên từ mặt đất, và ngạc nhiên thấy,
giọng nói ấy dùng ngôn ngữ miền Tây: Cửa vào đã đóng.