Bản chúc thư - Chương 23
Chương hai mươi ba
Trời hãy còn tối khi máy tàu ngừng và đánh thức Nate. Anh sờ
vào cổ tay trái rồi nhớ rằng mình không mang đồng hồ. Anh nghe tiếng động của
Welly và Jevy di chuyển đằng sau anh. Họ đang ở phía đuôi tàu, nói chuyện rù rì
với nhau.
Anh tự hào về mình vì thêm một buổi sáng điều độ, thêm một
ngày sống lành mạnh với sách vở. Sáu tháng trước, mỗi lần thức giấc, đôi mắt
anh sưng húp, lờ mờ, tư tưởng rối như mạng nhện, miệng khô cổ rát lưỡi đắng
chát, hơi thở nồng nặc mùi men, và câu hỏi lớn cứ mỗi ngày vẫn lởn vởn trong đầu
“Tại sao ta lại làm chuyện đó?” Anh thường ói mửa trong phòng tắm, nhiều khi tự
móc họng cho mửa ra hết để nhẹ bớt người. Sau khi tắm ra, luôn luôn là tình
trạng phân vân không biết nên dùng cái gì làm bữa ăn sáng đây. Ăn cái gì nóng
và có dầu để ổn định bao tử hay có lẽ là nên “chơi” một “em Mary khát máu”
(tiếng lóng để chỉ marijuana, một loại ma túy) để ổn định thần kinh?
Mỗi sáng như thế, không có ngoại lệ. Trong những ngày cuối
của cuộc tái nghiện gần đây nhất, anh đã qua nhiều tuần lễ liên tiếp mà không
có một buổi sáng điều độ nào. Tuyệt vọng, anh đến gặp một bác sĩ tư vấn và khi
được hỏi anh có thể nhớ lại ngày cuối cùng mà anh còn điều độ hay không, anh
nhận là không thể.
Anh đã thoát khỏi cơn nghiền rượu, nhưng chưa thoát hẳn khỏi
sự tơ tưởng vương vấn.
Welly kéo chiếc xuồng nhẹ về phía mạn trái của chiếc Santa
Loura và cột chặt lại. Hai người đang chất đồ xuống chiếc xuồng nhỏ khi Nate
bước xuống mấy bực cầu thang. Cuộc phiêu lưu hướng sang một giai đoạn mới. Nate
đang sẵn sàng cho cuộc thay đổi phong cảnh.
Trời u ám và đe dọa sẽ mưa nhiều. Cuối cùng mặt trời cũng
hiện lên vào khoảng sáu giờ. Nate biết vì anh đã mang lại đồng hồ.
Một chú gà trống cất tiếng gáy. Họ neo tàu gần một trang
trại nhỏ. Về phía tây, bên tay trái của họ, một con sông nhỏ đổ vào sông
Paraguay.
Vấn đề là làm sao chất đủ những vật dụng cần thiết và đồ ăn
thức uống xuống chiếc xuồng nhỏ mà không làm nó quá tải. Những phụ lưu nhỏ mà
họ sắp gặp đã ngập lũ, các bờ sông không phải lúc nào cũng thấy được. Nếu chiếc
xuồng đi quá thấp trong nước, họ có thể bị mắc cạn hoặc tệ hơn, hỏng chân vịt.
Chiếc xuồng nhỏ chỉ có một động cơ, không có máy phụ, chỉ có một cặp chèo mà
Nate đã học một khóa hỏa tốc về chèo xuồng trong lúc ngồi uống cà phê trên
boong. Cặp chèo sẽ đắc dụng đấy, anh nghĩ, nhất là khi bị người da đỏ hay các
con thú đói săn đuổi.
Ba thùng chứa dầu, mỗi thùng năm gallon được xếp ngăn nắp ở
giữa xuồng. “Số nhiên liệu này đủ chạy trong mười lăm tiếng”, Jevy giải thích.
“Khá lâu đấy”
“Tôi muốn an toàn”
“Khu định cư cách đây bao xa?”
“Tôi không chắc lắm.” Cậu ta chỉ vào căn nhà. “Ông chủ trại
đó nói khoảng bốn tiếng.”
“Ông ta có biết những bộ lạc da đỏ không?”
“Không. Ông ta không thích người da đỏ và nói rằng ông ta
chẳng bao giờ thấy họ xuất hiện trên sông.”
Jevy gói theo một tấm bạt để căng làm lều, hai cái chăn, hai
cái mùng, một tấm che mưa, hai xô để tát nước, và chiếc poncho. Welly đưa thêm
một hộp thực phẩm và một két nước uống đóng chai.
Ngồi trên giường nhỏ trong cabin, Nate lấy bản copy di chúc,
giấy xác nhận, và giấy khước từ quyền thừa kế từ va li ra, gấp chúng lại với
nhau và đặt vào trong một phong bì cỡ đựng thư từ. Một phong bì chính thức của
hãng luật Stafford. Anh cẩn thận gói trong túi nhựa không thấm nước, xong bỏ
vào túi quần có phéc-mơ-tuya kéo dài.
Có những bản copies giấy tờ khác mà anh muốn để lại trên
tàu. Và bởi vì chiếc Sata Loura trông có vẻ an toàn hơn chiếc xuồng nhỏ rất
nhiều, anh quyết định để lại cái Satfone. Anh kiểm lại hai lần giấy tờ và điện
thoại, rồi khóa va li lại và để trên giường. Hôm nay có thể là ngày quyết định
đây, anh thầm nghĩ. Trong anh có sự hưng phấn rộn ràng khi nghĩ đến cuối cùng
sẽ gặp được Rachel Lane.
Họ ăn sáng nhanh gọn với bánh mì bơ trên boong đứng phía
trên chiếc xuồng nhẹ và nhìn mây. Bốn giờ ở Brazil có nghĩa là sáu hoặc tám giờ
và Nate bồn chồn muốn khởi hành. Vật cuối cùng mà Jevy mang xuống thuyền là con
dao rựa sáng quắc có tay dài. “Cái này dành cho các chú anaconda,” cậu ta cười
nói. Nate cố phớt lờ vật đó. Anh vẫy tay chào tạm biệt Welly, uống cạn li cà
phê cuối trong khi họ còn đong đưa theo nhịp con nước cho đến khi Jevy khởi
động chiếc xuồng con.
Sương mù là đà trên mặt nước, trời lạnh buốt. Từ khi rời
Corumbá, Nate đã quan sát dòng sông từ trên boong tàu, rất an toàn; bây giờ anh
mới thực sự ngồi trên dòng sông. Anh liếc nhìn chung quanh và không thấy có
phao hay áo cứu sinh nào. Nước sông vỗ vào mạn xuồng. Nate căng mắt nhìn vào
sương mù, quan sát những vật trôi nổi trên đường đi.
Họ đi qua những dòng nước chảy xéo cho đến khi đi vào giang
khẩu của phụ lưu dẫn đến những buôn làng người da đỏ. Nước sông ở những nơi đó
êm hơn nhiều. Chiếc xuồng nhẹ rẽ nước lướt tới để lại một vệt xoáy nước dài.
Sông Paraguay nhanh chóng lùi xa.
Trên giang đồ của Jevy, phụ lưu này có tên gọi chính thức là
Cabixa. Trước đây Jevy chưa từng đi qua nhánh sông này vì không có chuyện gì
cần. Nó căng như một sơi dây từ Brazil đến Bolivia nhưng ngoằn ngoèo khó định
hướng. Ở cửa sông, nó rộng tám mươi bộ rồi hẹp dần lại còn khoảng năm mươi bộ.
Một vài nơi sông tràn ra, vài nơi khác, những tàn cây hai bên bờ còn dày đặc
hơn so với sông Paraguay.
Nate kiểm tra thời gian: đã mười lăm phút. Anh muốn định thời
lượng cho mọi việc. Jevy hãm máy chiếc xuồng lại khi họ đến gần ngã rẽ đầu
tiên, đầu tiên của hàng ngàn ngã rẽ. Một con sông cùng kích cỡ bắt nhanh sang
bên trái và người thuyền trưởng phải quyết định xem lộ trình nào vẫn theo dòng
Cabixa. Họ giữ phía tay phải, nhưng hơi chậm và đi ngay vào một cái hồ. Jevy
tắt máy. “Ở yên đó”, cậu ta nói, và đứng trên các thùng chứa dầu, cậu ta quan
sát những dòng nước vây quanh. Chiếc xuồng đứng yên. Một dãy những bụi cây còi
cọc khiến anh chú ý. Anh chỉ tay và lẩm nhẩm điều gì đó.
Chính xác có bao nhiêu phỏng đoán dự phần trong đó Nate cũng
không thể nói. Jevy đã nghiên cứu bản đồ và đã sống trên những dòng sông này.
Tất cả đều dẫn trở lại sông Paraguay. Nếu họ quẹo lầm và bị lạc đường, thì chắc
chắn các dòng nước cuối cùng cũng sẽ dẫn họ về lại với Welly và con tàu.
Họ chạy men theo các bụi cây ngập nước mà vào mùa khô chúng
làm thành hai bờ sông, và rồi họ ở giữa một dòng nước cạn với các nhánh cây
trên đầu. Nó không có vẻ là con sông nhánh Cabixa nữa, nhưng một tia liếc nhanh
vào mặt thuyền trưởng không tiết lộ điều gì khác ngoài sự tự tin.
Một giờ sau khi khởi hành, họ đến gần căn nhà đầu tiên - một
cái chòi vách đất nhưng mái ngói đỏ, ngập sâu ba bộ trong nước và không thấy có
dấu hiệu người hay thú vật nào. Jevy chạy chậm lại để nói chuyện.
“Trong mùa lũ, nhiều người ở vùng Pantanal di chuyển đến
những chỗ cao hơn, đem theo con cái, gia súc, vật dụng và bỏ nhà đi khoảng ba
tháng.”
“Tôi chẳng thấy chỗ nào cao hơn chỗ nào.”
“Đúng là không có nhiều. Nhưng mỗi pataneiro đều dự phòng
sẵn một chỗ để đến, vào thời điểm này trong năm.”
“Thế còn những người da đỏ?”
“Họ cũng di chuyển lòng vòng vậy”
“Ngộ thiệt. Chúng ta không biết họ ở đâu để mà tìm, còn họ
lại thích di chuyển lòng vòng, cái trò cút bắt này coi bộ hay đây.”
Jevy khúc khích cười và nói “Chúng ta sẽ tìm ra họ thôi.”
Họ chạy qua cái chòi. Chẳng có cửa lớn hay cửa sổ nào. Chẳng
có gì nhiều để gọi là một căn nhà.
Chín mươi phút trôi qua và Nate đã hoàn toàn quên chuyện bị
ăn thịt, khi họ vòng một khúc sông cong và đến gần một đàn cá sấu lớn đang nằm
ngủ lơ mơ dưới nước. Chiếc xuồng quấy rầy giấc ngủ của lũ ngạc ngư khiến chúng
bực mình quẫy đuôi bắn nước lên tung tóe. Nate nhìn vào cái rựa cán dài, có khi
cần đến chăng, rồi cười ý nghĩ ngớ ngẩn của mình.
Bọn bò sát không tấn công, chỉ trố mắt nhìn chiếc xuồng chạy
qua và nói với nhau: “Thôi tha cho chúng nó làm phúc!” Cả bọn nhất trí, gật gù:
“Phải, phải, tha làm phúc!” rồi lim dim ngủ trở lại.
Không gặp trở ngại nào khác trong hai mươi phút tiếp theo.
Con sông hẹp trở lại. Hai bờ thắt lại gần nhau đến nỗi cây cối hai bên giao
cành nhau trên mặt nước. Cảnh vật bỗng tối sầm, giống như đi qua một đường hầm.
Nate nhìn đồng hồ. Đã cách xa chiếc Santa Loura hai tiếng.
Trong khi chạy dzích dzắc qua những đầm lầy, họ loáng thoáng
thấy chân trời. Các ngọn núi của Bolivia lờ mờ hiện ra, hình như gần hơn. Mặt
nước rộng ra, cây cối thưa dần và họ đi vào một cái hồ lớn với hơn một tá những
con sông nhỏ chảy vào đó. Lần đầu, họ đánh một vòng chậm rãi, rồi lần thứ hai
càng chậm hơn. Mọi chi lưu rộng giống nhau như một. Cabixa là một trong các chi
lưu đó và thuyền trưởng cũng bị mất đầu mối, mù tịt luôn!
Jevy đứng trên các thùng dầu và quan sát các dòng nước trong
khi Nate ngồi bất động. Một ngư ông đâu bỗng xuất hiện trong đám cỏ dại phía
bên kia hồ. Gặp được người ấy có lẽ là may mắn duy nhất trong ngày nay của họ.
Người đi câu đang kiên trì ngồi trong một chiếc canoe nhỏ,
loại được làm theo lối thủ công cổ truyền từ hàng bao ngàn năm trước, bằng cách
khoét ruột một thân cây. Anh ta dội một cái nón rơm te tua che gần kín mặt, khi
chỉ còn cách anh ta mấy bộ, sát gần đủ để nhìn rõ anh ta hơn, Nate để ý thấy
rằng anh ta câu mà không dùng cần câu, chỉ quấn dây quanh bàn tay mình thôi.
Jevy ân cần chào hỏi bằng tiếng Bồ và trao cho anh ta một
chai nước uống. Nate chỉ cười cầu tài và nghe những luyến âm mềm mại, líu nhíu
của thứ ngôn ngữ lạ lẫm kia, chậm hơn tiếng Tây Ban Nha và đầy giọng mũi giống
như tiếng Pháp.
Nếu người đi câu có vui vì gặp được người khác giữa chốn ba
la hiu quạnh, anh ta cũng không lộ ra điều đó. Anh ta sống ở nơi nào vậy?
Rồi họ bắt đầu chỉ trỏ về hướng các dãy núi, họ nói líu lo
với nhau và Nate có cảm tưởng Jevy đang cố moi từng mẩu thông tin nhỏ. Có thể
phải hàng giờ nữa trước khi họ gặp được người khác. Với những đầm lầy và nước
sông đang dâng lên, việc đi lại càng thêm khó khăn. Chỉ mới đi vào đây có hai
giờ rưỡi mà họ đã lạc đường.
Một đám mây những con muỗi đen bay ngang trên đầu họ và Nate
vội vàng bôi thuốc chống muỗi. Người đi câu nhìn anh với vẻ hiếu kì.
Họ chào tạm biệt rồi tiếp tục cuộc hành trình trong lúc gió
thổi hiu hiu. “Mẹ anh ta là người da đỏ”, Jevy nói.
“Hay đấy”, Nate trả lời, vừa lấy tay xua muỗi.
“Có một xóm dân cư cách đây vài giờ nữa.”
“Vài giờ?”
“Có lẽ độ ba giờ.”
Họ đủ nhiên liệu để chạy máy trong mười lăm tiếng, và Nate
lên kế hoạch đếm từng phút. Dòng Cabixa lại bắt đầu gần một tiểu đảo nơi có một
chi lưu khác, rất giống với nó, cũng rời hồ. Dòng sông rộng ra, và họ ra giữa
dòng, mở hết van tiết lưu cho chiếc xuồng con băng băng rẽ nước.
Nate xuống thấp hơn trong lòng chiếc xuồng và tìm một chỗ ở
đáy giữa thùng đựng thức ăn và hai cái xô, lưng dựa vào chiếc ghế dài. Ở đó
sương mù không bám lên đầu anh. Anh đang tính làm một giấc ngủ ngắn thì động cơ
khục khặc. Chiếc xuồng tròng trành lắc lư rồi chậm lại. Anh đưa mắt nhìn xuống
dòng sông, e ngại chuyện đi lòng vòng không đến đâu và nhìn Jevy.
Tuy vậy, chuyện trục trặc máy móc không phải là điều anh phí
thời gian lo lắng. Cuộc hành trình của họ đã có khá đủ những hiểm nguy nho nhỏ.
Nếu máy hư, họ sẽ phải mất nhiều ngày lao động gãy xương sống để chèo chiếc
xuồng quay về với Welly. Họ sẽ bắt buộc phải ngủ trong xuồng, ăn những gì đã đem
theo cho đến khi cạn hết lương thực, tát nước ra khỏi xuồng khi trời mưa và cầu
mong gặp được ông bạn câu cá để chỉ cho họ đường đi đến nơi an toàn.
Bỗng dưng Nate đâm hoảng.
Thế rồi xuồng lại chạy bình thường, động cơ nổ đều như thể
không có gì xảy ra. Chuyện đó trở thành thông lệ, cứ mỗi hai mươi phút hay cỡ
đó, ngay lúc Nate sắp sửa thiu thiu ngủ, thì tiếng nổ đều đặn của động cơ lại
khục khặc. Xuồng lại tròng trành, chậm hẳn lại. Nate nhanh chóng nhìn vào hai
bên bờ sông để trông chừng những động vật hoang dã. Jevy sẽ lẩm bẩm chửi thề
bằng tiếng Bồ, loay hoay với van gió và van tiết lưu, và rồi mọi chuyện lại êm
xuôi được đổ khoảng hai mươi phút nữa.
Rồi họ ăn trưa với lương thực mang theo, dưới một gốc cây
trong khi mưa rơi chung quanh.
“Anh chàng đi câu trở lại kìa!” Nate nói. “Anh ta có biết
mấy người da đỏ không?”
“Có. Mỗi tháng một lần, họ đi xuồng độc mộc đến Paraguay để
mua bán bằng cách đổi chác hóa vật. Anh ta vẫn gặp họ.”
“Cậu có hỏi là anh ta đã từng thấy một nhà truyền giáo là
phụ nữ da trắng chưa?”
“Có. Anh ta nói chưa hề thấy. Ông là người Mỹ đầu tiên mà
anh ta thấy.”
“Vậy là anh ta may lắm đấy!”
Dấu hiệu đầu tiên của buôn làng hiện ra sau bảy giờ. Nate
thấy một làn khói xanh mỏng manh uốn co vươn lên khỏi đám cây, gần một chân
đồi. Jevy chắc chắn họ đã đặt chân đến biên giới Bolivia. Đất ở đây cao hơn và
họ đến gần núi. Vùng bị ngập đã ở phía sau họ.
Họ đến một khoảng trống giữa các đám cây và nơi đó họ thấy
hai chiếc xuồng độc mộc. Jevy lái chiếc xuồng nhẹ vào chỗ khoảng trống đó. Nate
nhanh chóng nhảy lên bờ, mong được duỗi thẳng chân ra cho đỡ tê và cảm thấy đất
dưới chân mình.
“Hãy ở gần đây”, Jevy cảnh báo trong khi cậu ta đổi các
thùng dầu ở trong xuồng. Nate nhìn cậu ta. Đôi mắt họ gặp nhau và Jevy gật đầu,
hướng về đám cây cối.
Một người da đỏ đang quan sát họ. Một thanh niên da màu nâu,
ngực để trần, đóng cái khố bằng rơm, không mang vũ khí. Điều ấy trấn an tinh
thần Nate rất nhiều vì lúc đầu anh rất sợ. Anh chàng da đỏ có tóc đen dài và
những sọc đỏ trên trán và nếu như anh ta cầm một ngọn giáo, có lẽ Nate đã đưa
tay đầu hàng ngay, khỏi nói tiếng nào.
“Anh ta có vẻ thân thiện không?” Nate hỏi, không rời mắt
khỏi anh chàng kia.
“Tôi nghĩ vậy.”
“Anh ta biết nói tiếng Bồ không?”
“Tôi cũng không biết.”
“Sao cậu không thử xem?”
“Thong thả”
Jevy bước ra khỏi chiếc xuồng. “Hắn ta trông giống một tay
ăn thịt người quá”, cậu ta thì thầm. Ý đồ hài hước coi bộ không hợp cảnh.
Họ đi vài bước về phía anh chàng da đỏ và anh ta cũng tiến
mấy bước về phía họ. Cả ba dừng lại với một khoảng cách vừa phải ở giữa. Nate
bị cám dỗ bởi ý tưởng đưa lòng bàn tay ra, mỉm cười, gật đầu để tỏ thiện chí
hiếu hòa.
“Fala portugés?” Jevy hỏi với nụ cười… quá đỗi dễ thương!
Anh chàng da đỏ cân nhắc câu hỏi thật lâu và rõ ràng là anh
ta không nói được tiếng Bồ. Trông anh ta còn rất trẻ, có lẽ chưa tới hai mươi
và tình cờ ở gần con sông khi nghe tiếng động cơ chiếc xuồng.
Họ khảo sát nhau từ khoảng cách độ hai mươi bộ trong khi
Jevy cân nhắc những phương án hành động. Có tiếng động trong bụi cây phía sau
chàng da đỏ.
Dọc theo hàng cây, ba người khác trong bộ lạc xuất hiện, may
mắn là họ đều không có vũ khí. Bị vượt qua về số lượng và thấy mình vi phạm
lãnh thổ của người ta, Nate sẵn sàng chạy trốn. Họ không cao lớn lắm, nhưng họ
có lợi thế sân nhà. Và họ không tỏ ra thân thiện gì lắm, chẳng cười cũng chẳng
nói Hello!
Một phụ nữ trẻ bỗng xuất hiện từ trong đám cây bước ra, đến
đứng gần anh chàng thanh niên đầu tiên. Cô ta cũng da màu nâu và để ngực trần,
và Nate cố không nhìn chăm chăm vào đôi vú căng phồng khỏe mạnh trông rất bắt
mắt. “Falo”, cô ta nói.
Chậm rãi, nói rõ từng tiếng, Jevy giải thích họ muốn gì và
yêu cầu được gặp tù trưởng bộ lạc. Cô ta dịch lại cho mấy người kia nghe, họ
túm tụm lại và bàn tán với nhau có vẻ nghiêm trọng.
“Vài người muốn xơi chúng ta ngay”, Jevy nói như nín thở.
“Vài người muốn để dành đến ngày mai.”
“Coi bộ vui đấy!”
Khi mấy người đàn ông kết thúc cuộc bàn luận, họ nói lại cho
chị phụ nữ. Lúc đó cô ta bảo với những kẻ xâm nhập rằng họ phải chờ, ở trên
sông, trong lúc tin tức về chuyện họ đến đây được tường trình đầy đủ cho các
thủ lĩnh cao cấp. Chuyện này Nate thấy rất hợp, nhưng Jevy còn chưa được thỏa
mãn. Cậu ta hỏi họ xem có một nhà nữ truyền giáo da trắng sống với họ không.
“Mấy người hẵn đợi đấy”, cô ta nói.
Những người da đỏ biến sau rừng cây.
“Cậu nghĩ gì?” Nate hỏi Jevy khi bọn họ đã đi xa. Cả anh và
Jevy đều không di chuyển một inch nào. Họ đứng trong đám cỏ cao quá mắt cá và
nhìn vào đám cây, rừng cây rậm rạp mà Nate chắc chắn từ đó bọn anh đang được
quan sát kĩ.
“Họ bị nhiễm những bệnh kì quái từ những người lạ”, Jevy
giải thích. “Vì thế họ trở nên thận trọng.”
“Tôi có đụng vào ai đâu.”
Họ rút lui về chiếc xuồng và Jevy bận bịu với việc chùi lại
mấy cái bu lông-giá trị. Nate lục mấy giấy tờ từ túi ra để kiểm tra lại. Chúng
vẫn khô ráo, không bị ngấm nước.
“Mấy giấy tờ đó cho người đàn bà ông đi tìm?” Jevy hỏi.
“Đúng vậy.”
“Tại sao? Có chuyện gì với bà ấy?”
Những luật lệ khắt khe cấm thổ lộ bí mật với người khác hình
như lúc này không nên cứng nhắc nữa. Trên thực tế, chuyện này có tính sinh tử,
nhưng bây giờ ngồi trên một chiếc xuồng, sâu trong vùng Pantanal, chẳng có
người Mỹ nào ở gần, quy luật đó cần nên uyển chuyển. Và tại sao không? Jevy có
thể nói với ai chứ? Tán gẫu một chút phỏng có hại gì?
Theo quy định nghiêm ngặt của Josh đối với Valdir, Jevy chỉ
được cho biết là có một vấn đề pháp lí quan trọng ở nhà khiến họ phải đi tìm
Rachel Lane.
“Bố cô ta mới chết vài tuần trước đây và để lại cho cô ta
khối tiền.”
“Bao nhiêu?”
“Mấy tỉ”
“Hàng tỉ?”
“Ừ”
“Vậy ông ấy giàu lắm.”
“Ừ, giàu sụ.”
“Ông ta có những người con khác nữa không?”
“Sáu người, hình như vậy.”
“Ông ta có cho họ mấy tỉ không?”
“Không, ông ta cho bọn họ rất ít.”
“Sao ông ta cho cô ấy nhiều vậy?”
“Không ai biết. Chuyện đáng ngạc nhiên.”
“Cô ấy biết bố mình chết không?”
“Không.”
“Cô ấy yêu bố không?”
“Tôi nghi ngờ điều đó. Cô ấy là con ngoại hôn. Hình như cô
ấy cố chạy trốn khỏi bố mình và khỏi mọi thứ khác trên đời. Cậu có nghĩ vậy
không?” Nate vung cánh tay chỉ về hướng Pantanal khi nói điều này.
“Đúng vậy. Một nơi lí tưởng để lánh đời. Ông ta có biết cô
ấy ở đâu khi ông ta mất?”
“Không chính xác. Ông ấy biết rằng cô là một nhà truyền
giáo, sống với người da đỏ ở đâu đó trong vùng này.”
Jevy quên khuấy cái bu lông-giá trị đang cầm trong tay và
nghiền ngẫm về tin đó. Cậu ta muốn đặt nhiều câu hỏi. Sự tiết lộ bí mật của ông
luật sư càng mở rộng.
“Sao ông ấy để lại một gia tài lớn lao vậy cho một đứa con
chẳng yêu gì ông ta?”
“Có lẽ ông ta điên. Ông ta nhảy từ sân thượng xuống.”
Điều này quá tải đối với khả năng tiếp thu của Jevy lúc này.
Cậu ta lé mắt nhìn xuống dòng sông, chìm trong suy tư.