Bản chúc thư - Chương 15 - 16

Chương mười lăm

Mơ ước của bà Lillian Phelan về một bữa ăn khuya đầm ấm
trong đêm Giáng sinh bị tan vỡ khi Troy Junior đến trễ, say nhè và vừa mới gây
gổ, choảng nhau với Biff. Hai người đến, mỗi người lái một chiếc Porsche mới
cáu cạnh, màu khác nhau. Tiếng hò hét dậy lên khi Red cũng đã “sương sương” đôi
chút, phiền trách ông anh cả đã làm hỏng đêm Noel của má. Khách khứa đến đầy
nhà. Bốn người con của Lillian đều có mặt – Troy Junior, Rex, Libbigail, và
Mary Ross, cùng với mười một đứa cháu, và cả đám bạn của chúng – đa số chẳng hề
được đích thân bà Lillian mời.

Các cháu của Phelan, giống như bố mẹ chúng, đã thu hút thêm
nhiều bạn mới, từ khi cụ Troy mất.

Lễ hội mừng Giáng sinh thật tưng bừng – cho đến khi Troy
Junior đến. Chưa bao giờ người ta thấy những quà tặng “thần kì” như thế được
trao đổi. Những người thừa kế trong gia đình Phelan mua tặng nhau, hoặc tặng cụ
bà Lillian những bộ quần áo đặc biệt nhất, những loại nữ trang thật đẹp, những
đồ chơi điện tử tân kì nhất, và cả những tác phẩm nghệ thuật – mà không phải
bận tâm về giá cả. Chỉ trong vòng vài tiếng, tiền bạc đã đem lại những thứ tốt
nhất cho họ. Lòng hào hiệp của họ là... vô giới hạn!

Chỉ còn hai ngày nữa thôi, di chúc sẽ được chính thức công
bố.

Spike, đồng của Libbigail, một cựu vận động viên đua xe đạp
mà nàng gặp trong trung tâm cai nghiện, định can thiệp vào cuộc đấu khẩu giữa
Troy Junior và Rex, nhưng mới mở miệng nói chưa hết câu đã bị Troy Junior quạt
cho tắt ngay bằng cách nhắc nhở rằng chàng ta chỉ là một “tên hippie béo phì mà
đầu óc đã bị chất gây ảo giác LSD làm hỏng mất rồi”. Mấy lời đó làm Libbigail
nghe ngứa tai quá nên đốp trả ngay bằng cách gọi Biff – vợ của ông anh cả - là
con mẹ dâm đãng nhếch nhác. Cụ bà Lillian nghe rát tai bèn đi tị nạn nơi phòng
ngủ của mình và khóa trái cửa lại. Thế hệ thứ ba cùng đồng bọn dạt xuống tầng
hầm, nơi đó có ai đã để sẵn mấy thùng bia ướp lạnh.

Mary Ross, có thể nói là người biết điều nhất và chắc chắn
là người cẩn ngôn nhất trong bộ tứ đó, thuyết phục được hai ông anh và bà chị
Libbigail ngưng chửi mắng nhau, mỗi người tản ra một góc với những người thân
của mình. Họ dạt ra thành những nhóm nhỏ, ngồi vào những bàn riêng cách xa
nhau. Một cuộc hưu chiến khá ngột ngạt tạm được thiết lập.

Mấy tay luật sư chẳng giúp gì vào việc hòa giải. Bây giờ, họ
làm việc thành từng nhóm vì họ đại diện cho điều mà họ gọi là những quyền lợi
tối đa của mỗi người thừa kế. Và họ cũng tốn nhiều thời gian để bàn mưu tính kế
nhằm giành được phần lớn hơn trong miếng bánh. Bốn đạo quân luật sư riêng, nếu
kể thêm hai đám của Geena và Ramble nữa, là sáu tất cả đều đang làm việc như
lên cơn sốt. Những người thừa kế mà Phelan càng tốn nhiều thời gian với luật sư
của họ, thì lại càng nghi kị lẫn nhau.

Sau một giờ hòa bình tạm bợ, Lillian ló ra khỏi phòng và
kiểm sát cuộc ngừng bắn. Không một lời nào, bà đi vào phòng ăn và sắp bày bữa
ăn tối theo kiểu tiệc buffet. Mỗi nhóm có thể vào phòng ăn lấy đầy thức ăn vào
đĩa riêng rồi rút về góc riêng của nhóm đó.

Và thế là, cuối cùng, gia đình dòng thứ nhất của Phelan cũng
ăn được một (bữa ăn tối đêm Noel) bình yên. Troy Junior ngồi ăn hamburger và
khoai chiên một mình ở quầy bar gần cầu thang phía sau. Biff ngồi ăn với mẹ
chồng trong phòng ăn. Rex và cô vợ Amber thưởng thức món gà tây đút lò trong
phòng ngủ, vừa xem đá bóng trên ti vi. Libbigail, Mary Ross và chồng của họ
cùng ăn trong một phòng riêng.

Còn đám cháu và lũ nhóc bạn chúng ăn bánh pizza ở tầng hầm,
với bia bọt tràn lan.

Gia đình thứ nhì của cụ Phelan không quây quần bên nhau để
cùng ăn mừng Giáng sinh. Janie không hề mê thích các ngày lễ, nên bà ta chuồn
về cố hương, vùng Klosters ở Thụy Sĩ, nơi những con người thanh lịch khắp châu
Âu gặp gỡ nhau và chơi trượt tuyết. Bà ta mang theo tay vận động viên thể hình
tên là Lance, hai mươi tám tuổi – nửa tuổi của bà – nhưng rất sung sướng được
tháp tùng vị cựu phu nhân của nhà cố tỉ phú.

Cô con gái Geena của bà bắt buộc phải ăn lễ Giáng sinh ở nhà
chồng tại Connecticut
– điều ấy bình thường vẫn là một viễn tượng khá ảm đạm – thế nhưng mọi việc đã
đổi thay... kịch liệt. Đối với Cody, chồng của Geena, đây là một cuộc “áo gấm
về làng”, ở vùng Waterbury.

Gia đình Strong (bên chồng của Geena) đã từng có thời sở hữu
một cơ ngơi đồ sộ nhờ nghề vận tải đường thủy, nhưng sau hàng thế kỉ quản lí
kém, cùng với những cuộc hôn phối đồng tộc, tiền của trong thực tế, đã cạn. Tên
tuổi và hậu duệ vẫn còn được đón nhận vào những trường học danh giá và những
câu lạc bộ thượng lưu và đám cưới của một thành viên nào trong dòng họ Strong
cũng còn nhận được thông báo long trọng. Nhưng cái máng ăn thì cũng chỉ rộng và
dài có thế thôi trong khi quá nhiều thế hệ đến chen nhau ăn ở cùng một máng đó.

Họ là một đám người ngạo mạn, kiêu hãnh về gia tộc, về huyết
thống, về giọng nói và ngoài mặt vẫn tỏ ra vô tư đối với số tiền của cứ teo dần
lại của gia đình. Họ đều có sự nghiệp ở New York
và Boston và
tiêu hết những số tiền kiếm được vì tài sản của gia đình vẫn luôn luôn là cái lưới
an toàn cho họ.

Những đứa trẻ của dòng họ Strong vẫn còn được bảo đảm một nền
giáo dục tốt. Cody học trung học ở Taft, đại học ở Dartmouth
rồi tốt nghiệp MBA ở Columbia.

Cuộc hôn nhân của chàng với Geena Phela không được gia đình
đón nhận nồng nhiệt cho lắm, trước tiên bởi vì đây là lần hôn nhân thứ nhì của
cô ta. Nhưng vào thời kì hai người sắp làm đám cưới thì tài sản của ông bố kì
dị của cô đã đáng giá sáu tỉ đô la, điều này đã giúp cô bước vào thị tộc đó dễ
dàng hơn. Nhưng cô vẫn luôn luôn bị coi thường vì cô là một phụ nữ đã li dị
chồng và học hành cũng làng nhàng, tại những trường không danh tiếng, và cũng
bởi vì anh chàng Cody hơi kì khôi đối với gia đình.

Nhưng tất cả họ đều có mặt ở đó để chúc mừng Geena nhân lễ Giáng
sinh. Chưa bao giờ cô được thấy nhiều nụ cười đến thế từ những người mà cô vốn
rất ghét. Lại còn những cái vuốt má âu yếm, những cái vỗ vai thân mật nữa chứ!
Cô càng ghét họ hơn vì thói rởm đó.

Sau vài li, Cody bắt đầu mở đài. Nhiều người quây quần quanh
anh ta trong phòng riêng, và khá lâu trước khi có người đánh bạo hỏi: “Bao
nhiêu?”

Chàng ta nhíu mày làm như tiền bạc đã là... một gánh nặng!
“Có lẽ sơ sơ chừng... nửa tỉ đô thôi!” chàng thốt ra với dáng vẻ mà chàng đã
tổng dợt kĩ trước tấm gương trong nhà tắm nhiều lần.

Vài người nắm tay lại. Những người khác nhăn mặt bởi vì họ
biết rõ Cody – họ đều mang dòng máu Strong cả mà và họ biết họ sẽ chẳng bao giờ
thấy một xu trong đó. Họ đều sục sôi vì ganh tị nhưng dĩ nhiên vẫn lặng lẽ cố
nén vì để lộ ra thì... quá kì. Lời tuyên bố “khiêm tốn” của Cody đã nhanh chóng
rò rỉ và chẳng bao lâu đám đàn bà quanh nhà đều xầm xì về con số nửa tỉ đô la.
Mẹ của Cody, một bà già nghiêm nghị với bộ mặt nhăn nheo, tỏ vẻ khinh thị thứ
tiền của ấy, tiền của bọn nhà giàu mới nổi, con cái không có đứa nào được học ở
những ngôi trường danh giá.

Mới hay cũ, thì số tiền to tát đó cũng làm cho cánh phụ nữ
trẻ rất ư thèm thuồng. Họ hình dung ra những chiếc máy bay riêng, những căn nhà
trên bãi biển, những cuộc nghỉ dưỡng cho cả gia đình trên những hòn đảo thơ mộng,
những cổ phần cho con cháu và có lẽ cả những khoản tặng lớn bằng tiền mặt.

Đồng tiền đã làm tan băng nơi những người nhà Strong làm ấm
lên nhiệt tình mà họ chưa bao giờ biểu lộ với người ngoài, làm ấm đến độ...
nóng chảy! Nó dạy cho họ tính cởi mở và tình yêu và làm cho lễ Giáng sinh năm
nay ở nhà họ thật vô cùng ấm cúng!

Đến khi gia đình quây quần bên cái bàn cho bữa ăn truyền
thống, trời bắt đầu đổ tuyết. Một đêm Noel thật tuyệt, cả nhà đồng thanh lên
tiếng. Geena càng thấy ghét họ thậm tệ.

Ramble qua ngày lễ cùng với luật sư của mình, với giá... sau
trăm đô la mỗi giờ, dầu việc tính hóa đơn có lẽ bị giấu, nhưng chỉ các vị luật
sư mới có khả năng giấu những điều như thế.

Tira, mẹ của Ramble, cũng rời xứ đi du lịch với một chàng
kép trẻ, đến một bãi biển nào đó, vui chơi không cần biết gì hết, và hoàn toàn
không bận tâm làm chi cho mệt về chuyện cậu con mười bốn tuổi của mình đang làm
gì.

Luật sư của Rable, Yancy, đang sống độc thân, hai lần li dị,
có hai đứa con sinh đôi, mười một tuổi, từ cuộc hôn nhân thứ nhì. Hai đứa con ông
thông minh đặc biệt so với tuổi của chúng. Nên dưới mắt ông, cậu ấm Rable là
một loại chậm lụt đến đau đớn. Ông để cho cậu chơi video game với hai đứa con
mình trong phòng ngủ còn ông ngồi trước ti vi xem bóng đá một mình.

Thân chủ của ông sẽ được nhận năm triệu đô la vào sinh nhật
lần thứ hai mươi mốt, mà xét theo mức độ trưởng thành của thân chủ và sự giáo
dục gia đình của cậu ta, thì chắc tiền bạc ở với cậu sẽ chẳng bao lâu, chắc
chắn sẽ đội nón ra đi còn nhanh hơn so với những đứa con khác của Phelan. Nhưng
Yancy không quan tâm tới con số năm triệu đô lẻ tẻ đó. Ông sẽ vớ được một khoản
đáng kể hơn nhiều khi giúp Ramble giành được phần đúng mức trong di chúc.

Yancy có những ưu tư khác. Tira đã thuê một hãng luật mới,
một hãng năng nổ gần tòa nhà Quốc hội, có những mối quan hệ sáng giá. Tira chỉ
là một người vợ cũ đã li dị, không phải là con cháu, nên phần của cô ta chắc
chắn phải nhỏ hơn phần của Ramble nhiều. Những luật sư mới tất nhiên cũng biết
điều đó. Họ đang gây sức ép với Tira để đẩy Yancy đi và hướng cậu Ramble về
phía họ. Cũng may là bà mẹ chẳng mấy quan tâm đến cậu con và Yancy đang thi thố
phù phép để tách rời cậu con khỏi bà mẹ.

Tiếng cười của lũ trẻ quả là một loại nhạc nhẹ nhàng làm vui
tai và gây hưng phấn tinh thần cho tay luật sự đang tràn trề... tham vọng.

Chương mười sáu

Vào lúc chiều tối, anh dừng chân ở một tiệm ăn đặc sản nhỏ,
cách khách sạn vài dãy nhà. Anh đang tản bộ trên vỉa hè, nhìn thấy quán vẫn mở
và bước vào trong định tìm một chai bia. Một hay hai chai bia thôi. Anh đang cô
độc, xa quê hương, nơi một thị trấn nhỏ của miền đất lạ. Hôm nay là lễ Giáng
sinh nhưng anh chẳng có ai để cùng chung vui. Nate đang cảm nhận tất cả sức
nặng của hư vô và con đê ý chí của anh đã vỡ một mảng lớn và anh bắt đầu trôi
tuột. Cảm thức thương thân tủi phận một cách sướt mướt ập tới vây bủa và tóm
chặt tâm hồn anh.

Anh thấy hàng dãy chai rượu, đầy ắp còn nguyên, nào whiskey,
nào gin, nào vodka, sắp theo đội hình ngăn nắp như những chú lính chì nhỏ xinh
xắn trong những bộ đồng phục vừa vặn, mới tinh. Bỗng dưng anh thấy miệng khô,
cổ khát. Quai hàm làm anh xệ xuống, đôi mắt nhắm lại. Anh bấu tay vào quầy để
khỏi đổ gục xuống, và cả khuôn mặt anh có thể giật đau đớn khi anh nghĩ đến
Sergio gặp anh quay lại Walnut Hill và Josh và những người vợ cũ và tất cả
những ai anh từng làm khổ khi anh sa ngã. Bao ý tưởng quay cuồng loạn xạ và anh
sắp ngất đi thì một anh chàng nhỏ nhắn xuất hiện, nói cái gì đó. Nate lờ đờ
nhìn anh ta, liếm môi và chỉ vào chai vodka. Hai chai, tám real.

Mỗi một lần ngã ngựa lại khác nhau. Có lần diễn ra chậm
chạp, một li nơi này, vài cốc nơi kia, rồi hàng chai, hàng két đến làm thủng
đê. Có một lần anh thực sự tìm đến trung tâm cai nghiện. Lần khác, anh tỉnh dậy
thấy mình bị trói vào giường. Còn lần ngã cuối cùng, một cô hầu phòng thấy anh
trong một phòng motel rẻ tiền, trong tình trạng hôn mê.

Anh ôm cái bao giấy đựng hai chai vodka và thả bộ về lại
khách sạn, đi vòng tránh một đám nhóc mồ hôi mồ kê nhễ nhại đang tranh nhau quả
bóng trên hè phố. Tuổi thơ thật sung sướng, anh nghĩ. Chẳng có gánh nặng nào
chất thành hành trang trên vai. Ngày mai lại là một cuộc vui chơi khác.

Chỉ khoảng một giờ nữa là trời tối và thành phố nhỏ Corumbá
lại nhộn nhịp hẳn lên. Các quán cà phê và quán rượu vỉa hè mở cửa, vài chiếc xe
hơi qua lại. Tại khách sạn, nhạc sống gần hồ bơi ùa đến qua phòng khách lớn, và
trong một giây, Nate bị cám dỗ bởi ý tưởng ngồi vào một bàn tại đó để nghe một
bài ca cuối.

Nhưng anh không ngồi lại đó mà đi thẳng vào phòng mình, khóa
cửa phòng rồi bỏ đá vào một li nhựa cao rót chầm chậm vodka đầy li và làm một
hơi nghe cái “ót” thật đã, rồi cứ thế li này tiếp li kia, cạn chai thứ nhất dứt
thêm chai thứ nhì cho đến khi hết sạch.

Jevy đang đợi người bán đồ phụ tùng khi cậu ta đến vào lúc
tám giờ. Mặt trời đã lên cao nhưng không xuyên qua được các lớp mây dày. Các
vỉa hè, nếu chạm chân trần vào sẽ nóng đến rộp da.

Không có chiếc bơm dầu nào, ít nhất là không có cho động cơ
diesel. Người bán đồ lạc-xoong gọi đến hai lần, và Jevy phóng như bay bằng
chiếc pick-up, đến ngay chỗ hẹn. Anh lái đến vùng ven Corumbá nơi có người buôn
bán ghe thuyền đang điều hành là một xưởng cứu hộ, ngổn ngang những tàn dư của
hàng chục chiếu tàn phế thải. Trong cửa hàng máy một cậu bé đã tái chế được một
cái bơm dầu, xài tốt, gói trong miếng giẻ đầy dầu, nhớt. Jevy khoái chí trả
ngay 20 real, lấy cái bơm.

Anh lái xe quay trở lại bờ sông và đậu sát mép nước. Chiếc
Santa Loura vẫn nằm yên đó. Anh hài lòng thấy Welly đã đến từ trước. Welly là
một thủy thủ tập sự chưa đến mười tám tuổi, tự giới thiệu là có thể nấu nướng,
lái tàu, hướng dẫn, lau chùi quét dọn và làm đủ mọi dịch vụ khác theo yêu cầu.
Jevy biết rằng chàng nhóc nói dối nhưng cái trò khoác lác đó vẫn thường thấy
nơi các cậu trai đang tìm việc trên sông.

“Này, chú mày có thấy “ông O’Riley không?”” Jevy hỏi.

“Ông Mỹ hả?” Welly hỏi lại

“Ừ, ông Mỹ đó”

“Không. Chẳng thấy bóng ông ta đâu”

Một người đi câu trong chiếc thuyền gỗ, gọi Jevy ơi ới nhưng
anh ta đang mải bận tâm với các vấn đề khác. Anh ta vượt qua miếng ván ép bắc
bậc, đi xuống thuyền, nơi đó sự va đập lại khởi đầu ở đằng sau. Anh chàng thợ
cơ khí ưa càu nhàu vẫn đang đánh vật với dàn máy móc. Anh ta loay hoay kiểu như
bay lượn trên dàn máy, ở trần, mình mẩy đẫm mồ hôi. Phòng máy ngột ngạt khó
thở, Jevy chuyền cho anh ta cái bơm dầu và anh ta kiểm tra nó bằng những ngón
tay ngắn, to bè.

Jevy phụ lực với người thợ máy hì hục lấy cái bơm hỏng ra,
gắn cái bơm thay thế vào với biết bao gay go khó nhọc. Chỉ trong mấy phút quần
áo của cậu ta cũng đẫm mồ hôi.

Welly hỏi vọng vào có cần cậu ta không. “Khỏi, chú mày cứ
đứng ngoài trông chừng ông Mỹ đến chưa”, Jevy nói, vừa lấy tay gạt ngang bớt mồ
hôi trên trán.

Anh thợ máy chửi thề và loay hoay vặn tới vặn lui gần nửa
giờ rồi tuyên bố cái bơm sử dụng được rồi. Anh thử nổ máy và mất ít phút để
điều chỉnh lực hút dầu. Cuối cùng anh ta cười thỏa mãn, rồi gom các đồ nghề
lại.

Jevy lái xe trở lại trung tâm thành phố, đến khách sạn tìm
Nate.

Cô gái cả thẹn ở quầy tiếp tiên không thấy ông O’Riley. Cô
điện lên phòng ông ta nhưng không có ai trả lời. Một cô hầu phòng đi ngang qua
quầy tiếp tân và bị chặn hỏi. “Không, theo như em biết, thì ông ấy không hề ra
khỏi phòng.” Cô tiếp tân miễn cưỡng đưa chìa khóa phòng cho Jevy.

Cửa phòng bị khóa nhưng không chốt ngang và Jevy chầm chậm
đi vào. Điều bất thường đầu tiên anh nhận thấy là chiếc giường trống với chăn
gối xô lệch. Rồi anh thấy hai chai rượu. Một chai cạn nằm lăn lóc trên sàn;
chai kia còn một nửa. Căn phòng rất lạnh, máy điều hòa chạy hết tốc lực. Anh
thấy một cái chân trần rồi bước lại gần hơn để nhìn Nate đang nằm trần truồng,
chân giữa chiếc giường và bức tường với tấm ra tụt xuống quấn xung quanh đầu
gối. Jevy đá nhẹ chân Nate và cái cẳng anh ta giật lại.

Như vậy, chí ít anh ta cũng… chưa chết.

Jevy vừa nói vừa lay vai Nate, và sau vài giây, nghe có
tiếng ậm ừ. Một âm thanh chậm chạp, đau đớn. Jevy thận trọng luồn hai tay dưới
cánh tay của Nate, ì ạch kéo chàng ta lên giường và lẹ làng dùng tấm chăn đắp
lại.

Lại một tiếng ậm ừ đau đớn. Nate nằm còn thõng một chân ra
khỏi giường, đôi mắt sưng húp, vẫn còn nhắm tít, tóc bù xù, hơi thở chậm, nặng
nhọc. Jevy đứng ở chân giường, nhìn trừng trừng vào chàng ta.

Cô hầu phòng và cô tiếp tân hiện ra ở khung cửa còn để hé,
và không thể ngoắc tay xua họ đi. Anh khóa cửa phòng và dẹp cái chai không.

“Đến giờ lên đường rồi”, anh nói và chẳng nhận được câu trả
lời nào. Có lẽ anh nên gọi Valdir, để ông này tường trình lại cho đám Mỹ đã gởi
anh chàng say rượu đến Brazil.
Có lẽ sau đó.

“Nate!” Anh hét lớn lên. “Nói gì với tôi đi!”

Không trở lời. Nếu anh ta không tỉnh lại, phải gọi bác sĩ
thôi.

Một chai rưỡi vodka trong một đêm đủ sức giết chết một
người. Có thể hệ thần kinh của anh ta đã bị ngộ độc và cần đưa anh ta vào nhà
thương.

Anh đi vào phòng tắm, nhúng một cái khăn mặt vào nước lạnh
rồi đem quấn nó quanh cổ Nate – Nate bắt đầu cựa mình và mở miệng, cố gắng trả
lời. “Tôi đang ở đâu đây?” anh ta làu bàu, giọng nhừa nhựa, lưỡi dính lại.

“Ở Brazil.
Trong phòng khách sạn”

“Tôi còn sống à”

“Ít nhiều”

Jevy cầm một góc chiếc khăn mặt, lau mắt và mặt của Nate.
“Anh thấy sao?” chàng ta hỏi.

“Mình muốn chết quá”, Nate nói, vừa đưa tay ra giành lấy cái
khăn đưa vào mồm và mút cái khăn.

“Tôi đi lấy nước đây” Jevy nói. Anh mở tủ lạnh lấy ra một
chai nước. “Ông ngóc đầu dậy được không?” anh hỏi.

“Không”, Nate làu bàu.

Jevy dốc nước vào môi và lưỡi Nate. Vài giọt chảy tràn ra má
anh ta, ra khăn. Kệ chẳng sao. Đầu anh ta nhức như búa bổ, nặng như chì và ý
tưởng đầu tiên hiện đến là làm thế nào mà mình lại thức dậy được nhỉ?

Một con mắt mở ra, mắt phải. Hai mí mắt trái vẫn còn dính
vào nhau. Ánh sáng làm bỏng óc não anh và cơn buồn nôn lăn tròn từ đầu gối lên
cổ họng. Bất thình lình, anh nhào qua một bên, rồi chồng cả bốn chi xuống chịu
thân mình khi luồng ói mửa bắn vọt ra.

Jevy nhảy vọt ra sau, rồi đi tìm chiếc khăn lau khác. Anh ta
tuồn nhanh vào phòng tắm, vẫn còn nghe tiếng ói, tiếng khạc, tiếng ho. Cảnh
tượng một người đàn ông trần truồng chống tay, quỳ gối giữa giường, nôn thốc
tháo như lôi cả ruột gan ra ngoài, thật ghê khiếp không chịu nổi. Anh vặn vòi
sen và chỉnh độ nước.

Theo giao kèo với Valdir, anh được hưởng một ngàn reals để
đưa ông O’Riley đến vùng Pantanal, tìm một người mà ông ta được giao sứ mạng đi
tìm, rồi đưa ông ta trở về Corumbá. Món tiền hậu hĩ đấy, nhưng anh đâu phải là
một cô điều dưỡng kiêm cô giữ trẻ. Chiếc thuyền đã sẵn sàng. Nếu anh chàng Nate
vẫn cứ trong tình trạng bết bát như thế này, thì Jevy chắc phải hủy giao kèo,
đi tìm việc khác.

Cơn ói mửa tạm ngưng và Jevy dìu Nate vào phòng tắm, đến
dưới vòi sen, anh ta ngồi bệt xuống sàn. “Xin lỗi, xin lỗi”, anh ta lặp đi lặp
lại. Jevy để mặc anh ta tùy khả năng xoay xở được đến đâu hay đến đó. Anh cuốn
mấy cái chăn mền lại, nín thở, nhăn mặt, bặm môi, cố gắng lau chùi đống ói cho
gọn bớt rồi đi xuống lại phòng khách lớn, kiếm một li cà phê đậm, nóng.

Đã gần hai giờ chiều, khi Welly nghe bước chân họ đến. Jevy
đỗ xe sát bờ sông, chiếc xe trâu nước của anh bắn sỏi đá văng lung tung và làm
giật mình mấy người câu cá với tiếng rống dữ dội trước khi tắt máy hẳn. Không
thấy bóng dáng ông Mỹ đâu.

Thế rồi một cái đầu từ từ nhô lên trong chiếc taxi. Đôi mắt
bị phủ quầng thâm dày, mũ kéo sụp xuống thấp. Jevy mở cửa và giúp ông O’Riley
đi trên con đường sỏi đá lổn nhổn. Welly đi đến chiếc xe tải và lôi mấy túi
xách của Nate ra. Ông O’Riley trông… bệnh quá, da tái nhợt, mồ hôi đầm đìa, yếu
đến độ đi bộ một mình không nổi. Welly đi theo họ đến mép nước, giúp họ đi qua
cái cầu ván ép lắc lư để vào trong thuyền. Jevy gần như phải cõng ông O’Riley
đến chỗ chiếc võng trên tàu và đặt anh ta nằm vào đấy.

Khi họ trở lại boong tàu, Jevy nổ máy và Welly rút dây neo.
“Ông ta sao vậy?” Welly hỏi.

“Xỉn hết biết trời đất chớ còn sao nữa.”

“Nhưng mới hai giờ chiều mà.”

“Ông ta xỉn từ lâu rồi.”

Con tàu Santa Loura băng ra khỏi bến đậu và hướng về thượng
nguồn, từ từ rời xa Corumbá.

Nate nhìn thành phố xa dần. Mái che bên trên là một mảnh vải
bạt lớn màu xanh, đã mòn rách, trùm lên một khung kim loại neo dính vào boong
tàu bằng bốn trụ đỡ. Chiếc võng anh ta nằm treo giữa hai trụ, hơi lắc mỗi khi
đưa võng. Cơn buồn nôn như muốn trở lại. Anh cố gắng nằm yên. Anh muốn mọi việc
đều yên tĩnh. Chiếc thuyền di chuyển êm ái về hướng thượng nguồn. Dòng sông
nước chảy hiền hòa. Lúc này không có gió nên Nate có thể nằm sâu trong võng và
nhìn vào tấm vải bạt xanh sậm bên trên và thử cân nhắc mọi chuyện. Tuy thế,
việc cân nhắc có phần khó khăn bởi vì đầu anh vẫn còn đau nhức và mụ mẫm. Tập
trung tư tưởng lúc này quả là một thách thức.

Ngay trước lúc rời khách sạn, từ phòng mình anh đã gọi cho
Josh. Với mấy túi nước đá quanh cổ và cái giỏ đựng rác giữa chân, anh đã quay
số và cố gắng hết sức để giọng nói tỏ ra bình thường. Jevy đã không báo cho
Valdir. Valdir không báo cho Josh. Không ai biết ngoài Nate và Jevy và họ đã
thỏa thuận hãy cứ như thế, như thế… trên thuyền không có giọt rượu nào và Nate
đã hứa giữ điều độ cho đến lúc quay về. Làm sao anh tìm được rượu ở vùng
Pantanal?

Nếu Josh có lo lắng, thì giọng nói của ông ta cũng không
truyền đi biểu hiện nào. Hãng luật vẫn còn đóng cửa nghỉ lễ Giáng sinh, nhưng
ông thì vẫn bù đầu v.v… vẫn như thường lệ.

Nate nói rằng anh vẫn… khỏe. Đã tìm được một chiếc thuyền
thích hợp, đang kiểm tra lại máy móc, mua sắm xăng dầu, lương thực đầy đủ để
lên đường. Khi gác máy lên, anh lại mửa. Và rồi lại đi đứng dưới vòi sen. Rồi
Jevy dìu anh đi vào cầu thang, đi qua đại sảnh khách sạn.

Con sông hơi uốn cong rồi bẻ qua trở lại và thành phố
Corumbá đã khuất tầm nhìn. Càng xa thành phố, thuyền chạy càng nhanh hơn. Nhờ ở
điểm lại thế của mình, Nate có thể thấy đường rẽ nước và nước màu nâu đầy bùn
cuộn lên sau đó. Sông Paraguay bề ngang chưa đến một trăm yard và thắt hẹp lại
ở những khúc cong. Họ chạy qua một chiếc ghe ọp ẹp chở đầy chuối xanh, và hai
chú nhóc vẫy tay chào họ rồi rít.

Tiếng máy nổ rầm rì lan truyền khắp thuyền, làm cho đầu anh
cứ nghe tiếng u u liên tục và vì thế cơn nhức đầu không bao giờ dứt. Nhưng
không có lựa chọn nào khác đành phải chấp nhận thôi. Anh cố đong đưa võng, nhẹ
nhàng, và một làn gió mát thổi hiu hiu. Cơn buồn nôn qua đi.

Đừng nghĩ về Giáng sinh, về vợ con nhà cửa, về những hoài
niệm đã vỡ vụn nữa và đừng nghĩ về những cơn nghiện của anh nữa. Sự sa ngã đã
qua, anh tự nhủ thầm. Chiếc thuyền là trung tâm cai nghiện. Jevy là nhà tư vấn.
Welly là điều dưỡng viên. Anh sẽ đi vào Pantanal không một giọt rượu, rồi không
bao giờ uống lại.

Đã bao lần rồi anh nói dối mình?

Viên thuốc aspirin Jevy cho anh uống đã hết tác dụng và giờ
đây đầu anh nặng trở lại. anh rơi vào giấc ngủ lơ mơ và thức dậy khi Welly xuất
hiện với một chai nước và một bát cơm. Anh dùng muỗng xúc cơm ăn nhưng đôi tay
anh run đến nỗi làm vung vãi cơm ra trên áo và trên võng. Trời nóng, hơi nước
trong không khí như có vị mặn, và anh chậm rãi nhai từng hạt cơm.

“Mais?” Welly hỏi.

Nate lắc đầu, rồi chiêu từng ngụm nước. Anh buông mình vào
chiếc võng và cố dỗ giấc ngủ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3