Bản chúc thư - Chương 06

Chương sáu

Cuộc hành trình về miền Tây sẽ là một khoảng thời
gian giải lao thoải mái sau biến động căng thẳng mà ông Phelan tạo ra
với cú nhảy định mệnh nối đôi bờ sinh tử. Trang trại nhà Phelan ở
gần Jackson Hole, vùng Tetons, nơi tuyết
đã ngập hơn một bộ trên mặt đất và còn hứa hẹn sẽ dày lên. Cô
Manners sẽ nói gì về việc rải tro tàn lên mặt đất phủ đầy tuyết?
Có nên chờ đến lúc băng tan? Hay dầu sao cũng cứ rải đi? Josh không câu
nệ lắm chuyện đó. Anh ta ném chúng vào mặt mọi thứ thiên tai.

Anh đang bị săn đuổi bởi đám luật sư tư vấn cho những
người thừa kế trong gia đình Phelan. Những lời bình luận thận trọng
mà anh trao đổi với Hark Gettys về năng lực làm chúc thư của ông cụ
đã lùa những con sóng chấn động đổ ập vào mấy gia đình con cái cụ
và bọn họ phản ứng lại với cơn mê sảng có thể thấy trước được.
Cùng với những lời dọa dẫm. Cuộc hành trình đã là một lúc xả hơi
ngắn. Anh và Durban có điều kiện để nghiên cứu tiền-khả-thi và vạch
ra những kế hoạch tác chiến.

Họ rời phi trường Quốc gia trên chiếc Gulfstream số IV
của cụ Phelan, một chiếc chuyên cơ mà trước đây Josh mới chỉ được đặc
ân ngồi vào một lần. Đó là chiếc mới nhất của đội bay, với giá ba
mươi lăm triệu đô, và là món đồ chơi ưa thích nhất của Phelan bố. Mùa
hè năm trước, họ đã đáp chiếc chuyên cơ đó bay đến Nice và bố già
đã trần truồng tản bộ trên bãi biển ở đó, vừa trố mắt nhìn chằm
chằm mấy em đầm non tỉnh bơ phô bày các tòa thiên nhiên. Còn vợ chồng
Josh và đám tùy tòng vẫn giữ nếp quê mùa cổ hủ, áo quần đầy đủ,
tắm nắng trong hồ bơi. Giữa chốn thiên hạ đua nhau phô bày phồn hoa,
anh vẫn cứ điềm nhiên như vậy.

Một cô tiếp viên hàng không phục vụ buổi điểm tâm cho
họ, rồi tế nhị lui về khoang sau khi họ trải giấy tờ tài liệu lên
một chiếc bàn tròn. Chuyến bay sẽ kéo dài trong bốn giờ.

Các chứng từ hữu thệ với chữ kí của mấy bác sĩ
Flowe, Zadel và Theishen dày cộm và rất dông dài, đầy những ý kiến
và những nhận định rườm rà, kéo ra trên nhiều đoạn văn lê thê và
không hề để lộ một tia nghi ngờ nào về chuyện Troy Phelan có đầu óc
và trí nhớ hoàn toàn minh mẫn khi kí vào chúc thư. Chẳng những thế
cụ còn tỏ ra sáng suốt một cách xuất sắc và biết rõ những gì cụ
làm trong khoảng thời gian trước khi cụ “từ biệt” cuộc đời.

Stafford và Durban
đọc các chứng từ hữu thệ đó và khoái chí thưởng thức tính hài
hước của tình huống. Khi bản chúc thư sau cùng được đọc lên, thì ba
anh thầy lang tâm thần này sẽ tá hỏa tam tinh và sẽ bị đuổi việc là
cái chắc, và rồi cỡ nửa tá chuyên gia tâm thần khác sẽ được triệu
thỉnh để giám định mò – vì bệnh nhân đã thành tro mất rồi – để suy
diễn, thuyết minh, phản biện, cùng bao nhiêu những viện dẫn, tham chiếu
linh tinh khác… về căn bệnh tâm thần phân liệt của Troy… Một vở bi hài
kịch khá sôi động đấy, không đến nỗi buồn tẻ lắm đâu… Và hai chàng
sẽ được mời với tư cách thượng khách đồng thời là giám khảo tối
danh tự! Chà, chà, đã thiệt!

Còn về đề tài cô nàng Rachel Lane bí ẩn, chưa ai
biết gì nhiều về nhà truyền giáo giàu nhất thế giới này. Các điều
tra viên do công ty mướn vẫn đang đào xới điên cuồng để tìm dấu vết
của nàng.

Theo một nghiên cứu mới đây, rút ra từ mạng Internet,
thì Tổ chức Truyền giáo World Tribes Missions đặt tổng hành dinh tại
Houston, Texas. Được thành lập vào năm 1920, tổ chức này quy tụ bốn
ngàn nhà truyền giáo phát nguyện hùng tâm đi hoằng pháp khắp thế
giới, đặc biệt là các cư dân bản địa. Mục tiêu và hạnh nguyện của
họ là truyền bá Phúc Âm của Chúa Kitô cho những tộc người hoang sơ
nhất, sống cách biệt nhất, trên hành tinh này. Rõ ràng là những niềm
tin tôn giáo của Rachel không phải được kế thừa từ ông bố.

Hiện nay, có không dưới hai mươi tám bộ lạc da đỏ ở Brazil và ít nhất là mười bộ lạc ở Bolivia đang
được chăm sóc phần hồn bởi các nhà truyền giáo World Tribes. Và
khoảng ba trăm bộ lạc khác nơi phần còn lại của thế giới. Vì những
bộ lạc họ nhắm tới đều sống hoàn toàn cách biệt với nền văn minh
hiện nay, nên các nhà truyền giáo này phải được huấn luyện rất gắt
gao về những môn mưu sinh thoát hiểm, làm sao sống còn ở giữa chốn
hoang vu với thú dữ, với những con người man dã thù địch, phải học
hỏi tiếng nói, phong tục tập quán của họ, phải có kiến thức y học
và kĩ năng chữa bệnh rất khá.

Josh đọc một cách say mê câu chuyện do một nhà truyền
giáo của tổ chức này viết. Ông đã sống bảy năm trong một chòi lá
giữa rừng rậm, cố gắng học ngôn ngữ của một bộ lạc nguyên thủy sao
cho đủ để giao tiếp. Những thổ dân da đỏ này cũng chẳng có gì hứng
thú để liên hệ với ông. Ông chỉ là một người da trắng ở bang Missouri bên nước Mỹ,
vác ba lô đến buôn làng của họ với vốn từ giới hạn trong mấy tiếng:
“Chào bạn” và “Cám ơn”. Nếu ông cần cái bàn ông tự đóng lấy để
dùng. Nếu cần lương thực, ông đi săn thú để nướng ăn. Cứ thế, năm năm
trôi qua trước khi những người da đỏ bắt đầu tin cậy và yêu mến ông.
Qua giữa năm thứ sáu, ông mới kể cho họ nghe câu chuyện trong Thánh Kinh
lần đầu tiên. Ông đã được huấn luyện đức kiên nhẫn, cách xây dựng
mối quan hệ, tự học ngôn ngữ và văn hóa của cư dân bản địa qua tiếp
xúc trực tiếp với họ, và rồi từ từ, với sự bền lòng kiên trì vô
hạn, ông bắt đầu rao giảng Phúc Âm của Chúa Kitô cho họ.

Bộ lạc này rất ít tiếp xúc với thế giới bên
ngoài. Đời sống của họ chẳng thay đổi gì mấy từ bao ngàn năm qua.

Ai là hạng người có đủ niềm tin và hạnh nguyện xả
kỉ vị tha đến mức quay lưng lại với xã hội văn minh đầy đủ tiện nghi
để đi vào sống trong một thế giới hoang dã, tiền sử như thế? Nhà
truyền giáo viết rằng những người da đỏ đã không chấp nhận ông ta cho
đến khi họ nhận thấy ông ta không bỏ đi. Ông đã dứt khoát chọn sống
với họ, mãi mãi. Ông yêu mến họ và thực sự muốn sống hòa nhập
giữa lòng cộng đồng đó.

Cũng thế, Rachel sống trong một cái lều hay chòi lá,
và ngủ trên chiếc giường tự tay mình làm ra, nấu nướng trên bếp lửa
tạo thành bởi ba cục đá, ăn những lương thực do mình tự trồng tỉa,
hoặc đánh bẫy hay săn bắn, và kể những câu chuyện trong Kinh Thánh cho
trẻ em nghe và rao giảng Tin Lành cho người lớn, không biết gì và
cũng chẳng quan tâm gì đến những biến cố, những lo toan và những sức
ép của thế giới văn minh. Cô rất mãn nguyện. Đức tin đã nâng đỡ cô
vững chắc trước mọi thử thách cam go, vượt qua bao trở lực khách quan
và cả những yếu đuối của lòng mình, nếu có.

Có vẻ như làm phiền cô thì thật là ác tâm.

Durban cùng đọc những tài liệu đó và nói, “Có thể
chúng ta chẳng bao giờ tìm được cô ấy. Không điện thoại, không thư từ,
phải liều lĩnh băng rừng lội suối, qua bao hiểm nguy gian khổ mới may
ra gặp được đám người đó.”

“Chúng ta không có chọn lựa nào khác”, Josh nói.

“Đã tiếp xúc được với tổ chức World Tribes chưa?”

“Trong ngày nay thôi.”

“Anh sẽ nói gì với họ?”

“Tôi cũng chưa biết nữa. Nhưng chắc chắn sẽ không nói
với họ là bọn mình đang tìm kiếm một trong các nhà truyền giáo của
họ bởi vì cô ấy vừa mới được thừa hưởng mười một tỉ đô la.”

“Mười một tỉ đô la chưa tính thuế.”

“Trừ thuế rồi thì vẫn còn thơm quá ấy chứ.”

“Vậy thì sẽ nói gì với họ đây?”

“Chúng ta sẽ nói với họ là đang có một vấn đề
pháp lí phải gấp rút giải quyết. Tối khẩn. Và chúng ta cần nói
chuyện trực diện với Rachel.”

Một trong sáu máy fax bắt đầu hoạt động và các memo
được xuất ra. Bản đầu tiên từ cô thư kí của Josh với danh sách các
cuộc gọi trong buổi sáng – hầu hết từ các luật sư riêng của những
kẻ thừa kế trong gia đình Phelan. Có hai cuộc gọi từ các phóng viên.

Những người cộng sự đang báo cáo, với nghiên cứu sơ
bộ về những khía cạnh của luật hiện hành của bang Virginia. Với mỗi trang mà Josh và Durban đọc, thì bản chúc thư thảo vội của cụ Troy lại càng nặng kí hơn.

Bữa ăn trưa gồm sandwich nhẹ và trái cây, cũng do cô
tiếp viên phục vụ, cô vẫn luôn ý tứ ngồi ở khoang sau và chỉ xuất
hiện khi các tách cà phê của hai người cạn.

Họ đáp xuống Jackson Hole
trong thời tiết trong sáng, với tuyết được cào ra hai bên đường băng.
Họ bước ra khỏi máy bay, đi bộ khoảng tám mươi bộ và leo lên chiếc
Sikorsky S-76C, chiếc trực thăng được Troy
ưa chuộng nhất. Mười phút sau họ lượn trên trang trại yêu quý của ông.
Một cơn gió giật làm chiếc trực thăng đảo nghiêng và khiến anh chàng
Durban tái mặt. Josh đẩy một cánh cửa qua bên, chầm chậm nhưng khá
căng thẳng, và một luồng gió quất như tát vào mặt anh.

Viên phi công lượn vòng máy bay ở độ cao hai ngàn bộ
trong khi Josh đổ tro cốt từ một bình màu đen ra. Lập tức gió thổi
bay tro cốt ra khắp bốn phương khiến di hài của Troy tan biến trước khi
chạm vào mặt tuyết. Khi cái bình trống rỗng, Josh rút cánh tay và
bàn tay tê cóng của anh vào trong khoang máy bay và đóng cửa lại.

Căn nhà đúng là một cabin bằng gỗ súc, với những
thanh gỗ tròn đủ lớn để tạo ấn tượng chốn sơn trang. Nhưng với mười
một ngàn bộ vuông nó cũng chỉ là một cái hộp lớn. Troy
đã mua chỗ này từ một diễn viên mà sự nghiệp đã tàn tạ.

Một viên quản gia mặc quần áo bằng nhung kẻ đến mang
các va li, túi xách của họ và một cô hầu mang cà phê đến cho họ. Durban ngắm nghía những
con thú nhồi bông treo trên tường khi Josh gọi điện thoại về văn phòng.
Một ngọn lửa bùng lên trong lò sưởi, và người đầu bếp hỏi họ muốn
ăn những món gì trong bữa tối.

*

* *

Tên người cộng tác là Montgomery, được đích thân luật
sư trưởng Stafford chọn. Anh ta đã bị lạc đến ba lần trong khu mở rộng
lộn xộn của vùng ngoại ô Houston trước khi tìm được văn phòng của
Hội truyền giáo World Tribes ẩn khuất trong tầng trệt của một chung cư
năm tầng. Anh tìm chỗ đậu chiếc xe thuê và nắn lại cà vạt.

Anh đã nói chuyện với ông Trill hai lần qua điện
thoại, và đã nghĩ rằng có trễ hẹn mất một giờ hình như cũng không
thành vấn đề gì lắm. Ông Trill tỏ ra lịch sự và nói năng mềm mỏng
nhưng không sốt sắng giúp đỡ. Họ trao đổi những nghi thức xã giao ước
lệ. “Bây giờ, tôi có thể giúp anh chuyện gì?” Trill hỏi.

“Tôi cần vài thông tin về một trong số những nhà
truyền giáo của các ông”, Montgomery
nói.

Trill gật đầu nhưng không nói gì.

“Một nữ tu có tên Rachel Lane.”

Đôi mắt lướt nhìn qua như thể ông ta đang cố gắng
định vị nàng. “Cái tên không nói lên nhiều lắm đâu. Vả chăng chúng tôi
có đến bốn ngàn người phân tán khắp nơi…”

“Vị nữ tu này đang hành giáo nơi biên giới Brazil và Bolivia.”

“Quý ông có biết gì nhiều về bà ấy?”

“Không nhiều. Nhưng chúng tôi cần gặp bà ấy.”

“Vì mục đích gì?”

“Một vấn đề pháp lí”, Montgomery nói với một chút ngập ngừng
đủ khiến gây nghi ngờ.

Trill nhíu mày và khép đôi tay sát ngực. Nụ cười
nhỏ nhẹ của ông đã biến đi. “Có chuyện lộn xộn hả?” ông ta hỏi.

“Không. Nhưng chuyện gấp lắm. Chúng tôi phải gặp bà
ấy.”

“Quý ông không thể gởi thư hay bưu kiện gì sao?”

“Tôi e rằng không. Cần có sự hợp tác, cùng với chữ kí
của bà ấy.”

“Tôi giả thiết là chuyện mật?”

“Tối mật.”

Có cái gì đó leng keng và đôi mày của Trill giãn ra.
“Cảm phiền cho tôi vắng mặt một phút.” Ông ta rút lui khỏi văn phòng,
bỏ Montgomery
ngồi một mình quan sát những đồ đạc đơn sơ trong phòng. Vật trang trí
duy nhất là một collection những tấm hình phóng lớn các em bé da đỏ
treo trên mấy bức tường.

Khi quay trở lại, Trill trở thành một người khác,
sắc gọn, không cười, không hợp tác. “Thưa quý ông Montgomery, tôi rất tiếc”, ông ta nói mà
không ngồi xuống. “Chúng tôi sẽ không thể giúp được gì cho ông.”

“Bà ấy ở Brazil
phải không?”

“Tôi rất tiếc.”

“Bolivia?”

“Tôi rất tiếc.”

“Bà ta thực sự có mặt trên đời hay không?”

“Tôi không thể trả lời câu hỏi của quý ông.”

“Không có gì hết?”

“Không có gì.”

“Tôi có thể nói chuyện với ông chủ của ông?”

“Được thôi.”

“Ông ấy ở đâu?”

“Trên ấy,” ông ta ngước mắt, chỉ thẳng ngón trỏ lên
trời.

Sau bữa ăn tối với bít-tết dày sốt nấm, Josh
Stafford và Tip Durban rút lui về phòng riêng nơi lò sưởi đang cháy lửa
cao ngọn. Một quản gia khác, người Mêhicô mặc áo jacket trắng và quần
jeans hồ cứng phục vụ họ loại rượu Scotch rất xưa, đặc biệt, từ hầm
rượu của Phelan, cùng xì gà Cuba. Pavarotti hát những bài ca Giáng sinh
nơi một stereo để ở xa xa.

“Mình có ý này,” Josh nói trong khi ngắm ngọn lửa.
“Chúng ta phải biệt phái một người nào đó đi tìm Rachel Lane, đúng không nào?”

Tip đang rít một ngao thật dài từ điếu xì gà Cuba
thượng hảo hạng, nên anh ta chỉ gục gặc đầu.

“Và chúng ta không thể chọn bừa bất cứ ai. Phải là
một luật sư nắm vững và có khả năng giải thích tường tận những vấn
đề pháp lí. Và nhất thiết phải là một ai đó trong hãng của bọn
mình, có độ tin cậy tuyệt đối, vì tính tối mật của vụ này.”

Hai hàm còn đầy khói, Tip tiếp tục gật đầu.

“Vậy chúng ta biệt phái ai đây?”

Tip nhả khói ra chầm chậm, qua cả mồm, cả mũi và
khói thuốc như đang sôi cuộn lên trên mặt anh ta rồi trôi dạt lên cao.
“Sẽ mất bao lâu?” cuối cùng anh ta hỏi.

“Tôi cũng chưa biết được, nhưng chắc chắn không thể
là một cuộc du hành ngắn ngày. Brazil là một xứ sở rộng mênh
mông, gần chín triệu cây số vuông. Và người chúng ta cần tìm kiếm,
lại đang ở một nơi nào đó nơi vùng rừng nguyên sinh Amazone bao la ngút
ngàn. Cư dân ở đó sống cách biệt đến nỗi hầu như họ chưa hề thấy
bóng dáng chiếc xe hơi.”

“Tôi sẽ không đi đâu.”

“Chúng ta có thể thuê những người hướng dẫn ở địa
phương, nhưng thời gian thì chưa biết bao lâu.”

“Ở đó có bọn ăn thịt người không?”

“Không đâu.”

“Có trăn khổng lồ, có mãng xà vương không?”

“Yên tâm đi Tip. Cậu không phải đi đến đó đâu.”

“Cám ơn nhiều.”

“Nhưng cậu thấy ra vấn đề chứ? Chúng ta có sáu mươi
luật sư, ai nấy cũng bận túi bụi, bù đầu với công việc, làm không
kịp thở. Không có ai có thể bỏ ngay mọi chuyện để đi tìm bà ấy
được.”

“Vậy thì kiếm một trợ tá tư pháp.”

Josh không thích ý tưởng đó. Anh nhâm nhi li Scotch và
phì phèo điếu xì gà, lắng nghe tiếng lửa reo trong lò. “Cần có một
luật sư”, anh nói, hầu như với chính mình.

Tay quản gia quay lại
với mấy thứ giải khát. Anh ta hỏi về món tráng miệng và cà phê,
nhưng khách đã có đủ.

“Cậu thấy Nate thế nào?” Josh hỏi khi họ còn một
mình.

Rõ ràng Josh trước giờ vẫn nghĩ về Nate và chuyện
đó làm Tip hơi khó chịu. “Anh không đùa đấy chứ?” Tip hỏi.

“Không đâu.”

Họ cân nhắc hồi lâu ý tưởng phái Nate đi, mỗi người
nhìn lại những phản đối và nỗi sợ của mình. Nate O’Riley là một
đối tác, từ khi anh mới hai mươi ba tuổi, còn hiện nay anh ta đang ở
một trung tâm cai nghiện ở vùng núi Blue Ridge,
phía tây thủ đô. Trong mười năm vừa qua anh ta là khách mời thường
xuyên của trung tâm cai nghiện, mỗi lần dứt được thói quen nghiện
ngập, thấy tráng kiện và minh mẫn ra, đi chơi tennis, thề vĩnh viễn
dứt tình với ả phù dung. Thế rồi, lời thề cá trê chui ống, bao nhiêu
lần thề sống thề chết rằng đây là lần cuối cùng, rồi lại tiếp theo
bởi cú ngã còn nặng hơn. Giờ đây, ở tuổi bốn mươi tám, anh ta tan
nát hết, hai lần li dị, và vừa mới bị truy về tội trốn thuế. Tương
lai anh ta chẳng có dấu hiệu gì sáng sủa.

“Anh ta là mẫu người quen hoạt động bay nhảy, phải
không?” Tip hỏi.

“Đúng vậy. Lặn sâu dưới biển, leo núi, tất cả những
trò mạo hiểm. Thế rồi, sự trượt ngã bắt đầu và anh ta loay hoay mãi
trong đó.”

Sự sa ngã đã bắt đầu vào giữa những năm ba mươi
tuổi, khoảng thời gian anh vận động đưa ra hàng loạt những phán quyết
chống lại những bác sĩ cẩu thả trong khi hành nghề. Nate O’Riley trở
thành một ngôi sao đi đầu trong phong trào phản đối những khinh suất
trong điều trị y học, và đồng thời cũng bắt đầu uống rượu nhiều và
sử dụng ma túy. Anh bỏ bê gia đình và bị ám ảnh về những trò
nghiện ngập của mình – những phán quyết lớn, rượu nặng và ma túy.
Một cách nào đó, anh ta đã giữ được quân bình trong trò đu dây, nhưng
luôn luôn trên bờ vực của thảm họa. Thế rồi anh thua một vụ kiện và
rơi xuống từ bờ vực cheo leo lần thứ nhất. Công ty gởi anh vào trung
tâm cai nghiện và hồi phục cho đến khi dứt cơn hẳn và anh làm cuộc
trở về ngoạn mục. Cuộc trở về lần đầu của nhiều cuộc trở về sau
đó nữa.

“Khi nào anh ta xuất viện?” Tip hỏi, không còn ngạc
nhiên với ý tưởng đó và càng lúc càng tỏ ra thích thú hơn.

“Sớm thôi.”

Nhưng Nate đã trở nên một con nghiện nghiêm trọng. Anh
ta có thể đứng vững trong nhiều tháng, có khi hàng năm, nhưng rồi lại
sụp đổ. Các chất hóa học tàn phá cơ thể và tâm hồn anh. Hành vi
của anh ta trở nên kì dị và tiếng đồn về tình trạng điên rồ của anh
lan khắp công ty, trở thành đề tài phiếm luận của đám luật sư.

Gần bốn tháng trước đây anh ta đã tự khóa mình trong
một phòng của motel với một chai rum và một túi thuốc viên. Phần lớn
các đồng nghiệp nhìn chuyện đó như một toan tính tư vấn.

Josh lại bảo lãnh có thể anh lần thứ tư trong vòng
mười năm.

“Có lẽ chuyện này có tác dụng tốt cho anh ta,” Tip
nói.

“Đi xa một thời gian, cách li với ảnh hưởng ma quái.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3