Đức Phật và Nàng - Hoa sen xanh (Tập 2) - Chương 39 - Phần 02

Bát Tư Ba đột nhiên đứng dậy, khoát tay ngăn họ lại rồi chậm rãi bước đến giữa đại điện, mỉm cười, cất giọng ôn hòa:

- Đại sư Chomden Rigdrel, ta cũng đang lúc cao hứng, muốn họa lại bài thơ của đại sư, mời các vị cùng thưởng thức, được không?

Cảđại điện lập tức chìm trong yên lặng, mọi ánh mắt đều đổ dồn về vị quốc sư phong thái đĩnh đạc, dáng vẻ an nhiên, điềm tĩnh kia. Chàng cất giọng ngâm thư thái:

- “Phật dạy rằng giáo pháp của người có lúc thịnh lúc suy Hạnh phúc của chúng sinh được định bởi duyên nghiệp

Muốn giáo hóa phải tùy cơ ứng biến

Không hiểu hết ba điều này, sao xứng là bậc hiền nhân.”

Những tiếng bàn tán râm ran khắp đại điện, nhiều người tấm tắc khen ngợi. Chỉ trong thời gian ngắn như vậy, Bát Tư Ba đã ứng đối rất nhịp nhàng, chuẩn mực và sâu sắc, thậm chí đã khéo léo gắn tên của Chomden Rigdrel vào bài thơ. Trong tiếng Tạng, “Chomden Rigdrel” có nghĩa là nhà hiền triết một lòng hướng Phật. Trí tuệ mẫn tiệp, thông tuệ, nhạy bén của Bát Tư Ba thật khiến người ta phải khâm phục, ngưỡng mộ. Chomden Rigdrel hoàn toàn bất ngờtrước “đòn phản công” của Bát Tư Ba, vì chàng không dùng quyền lực để trấn áp mà đáp trả bằng thơ ca. Ông ta cứđứng ngây ra đó, trơ như gỗđá, không biết phải tiếp lời ra sao.

Bát Tư Ba đưa mắt khắp lượt tăng chúng, gương mặt cương nghị, ánh mắt kiên định.

- Tuy mang danh “bậc thánh giả” nhưng ta tự thẹn với lòng mình vì mấy năm qua đã dành nhiều tâm sức vào công việc chính sự mà sao nhãng việc tu tập và nghiên cứu kinh văn của các giáo phái. Ta cảm thấy vô cùng may mắn vì nhân dịp này được học hỏi từ các vị cao tăng phái Kadampa nhiều kiến thức Phật giáo uyên thâm, quý báu. Ta cũng vô cùng cảm phục công đức bao la của đại sư Chomden Rigdrel vì đại sưđã dày công biên soạn cuốn Đại Tạng kinh mục lục luận điển quảng thuyết, giúp truyền bá ngày càng rộng rãi hơn các giáo lý Phật pháp. Có điều, ta e rằng đại sư bế quan tu tập nhiều năm nên chưa nắm bắt được tình hình trước mắt của đất Tạng. Những suy nghĩ và đường lối của đại sư sẽ khiến đất Tạng bị cô lập với thế giới bên ngoài. Cách nghĩđó tuy hay nhưng không thể áp dụng. - Giọng chàng trầm vang, mạnh mẽ, có sức lay động. - Trước kia, người Mông Cổ không tin theo Phật pháp, họ có tín ngưỡng riêng của họ, đó là tín ngưỡng Saman. Nhưng kể từ thời đại của bác ta, với những nỗ lực phi thường, ngài Ban Trí Đạt đã thuyết phục được người Mông Cổ quy y Phật pháp, chấm dứt chiến tranh với đất Tạng. Dù chúng ta và họ khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, nhưng Phật dạy rằng mọi chúng sinh đều bình đẳng. Trang phục, lễ nghi không phải thứ quan trọng, quan trọng hơn cả là làm thế nào để chấm dứt tình trạng chia năm xẻ bảy đã diễn ra bao năm qua trên quê hương chúng ta!

Mọi người đều như vừa bừng tỉnh sau giấc mộng dài, ngay cả Chomden Rigdrel cũng cúi đầu xấu hổ. Duirang nháy mắt ra hiệu cho các nô bộc lập tức rút lui. Sau đó, ông ấy bước tới, cung kính vái lạy Bát Tư Ba, thưa rằng:

- Thưa quốc sư, chúng tôi đây tầm nhìn hạn hẹp, kiến thức nông cạn, không có cái nhìn toàn vẹn về thế cục. Nay được quốc sư ban lời vàng ngọc, mới chợt tỉnh ngộ, hiểu ra tất thảy. Vạn hộ hầu Chumig nguyện tuân theo pháp chỉ của phái Sakya, bằng lòng cắt ba nghìn cư dân Mid.

Đến lúc này, gương mặt Bát Tư Ba mới rạng rỡ trở lại sau bao ngày tháng. Gió mát xua tan mây đen trên bầu trời, ánh nắng rực rỡ chiếu qua khung cửa sổđại điện, dát vàng cả không gian, phủ lên mình Bát Tư Ba vầng hào quang chói lọi. Chàng nổi bật giữa vầng hào quang lấp lánh ấy, thần sắc trang nghiêm, phong thái bất phàm. Tất cả những người có mặt trong đại điện lúc đó đều quỳ sụp xuống, dập đầu vái lạy trước cảnh tượng kỳảo, thần thánh ấy.

Hoàn thành nhiệm vụở Chumig, Bát Tư Ba lên xe ngựa, ra về trong tiếng hoan hô dậy sóng của Duirang và các tăng nhân phái Kadampa. Chàng dựđịnh đi tiếp về hướng nam, ghé thăm Vạn hộ hầu Gyangtso ở Nyadong, vùng cực nam của Hậu Tạng. Tôi thầm thở dài, cứ ngỡ sẽđược về Sakya gặp Kháp Na, nào ngờ Bát Tư Ba lại muốn nhân tiện viếng thăm và thuyết phục hầu hết các vạn hộ hầu ở vùng Hậu Tạng, chỉ trừ Vạn hộ hầu Shalu. Nếu cứđà này, có lẽ phải đến mùa đông mới vềđược Sakya. Nhưng tôi nhớ Kháp Na da diết nên dựđịnh sẽ trốn về Sakya vài ngày sau khi đoàn chúng tôi tới Nyadong.

Nhưng khi chúng tôi chưa kịp đặt chân đến Nyadong thì một đội xe ngựa của Sakya đã đuổi theo và bắt kịp chúng tôi. Dẫn đầu là Dampa, đệ tử mà Bát Tư Ba mới thu nhận ở Chindu.

- Có chuyện gì? - Bát Tư Ba vừa đỡ lấy Dampa vừa gạn hỏi, vẻ mặt đầy lo lắng.

Dampa hổn hển:

- Thưa thầy, không cần phải đi thuyết phục từng vạn hộ hầu nữa, mời thầy về Sakya ngay. Bạch Lan Vương… Bạch Lan Vương…

Tôi thốt lên kinh hãi rồi vội che miệng, cũng may tiếng kêu của loài hồ ly rất nhỏ nên không gây chú ý.

- Kháp Na làm sao?

Dù đã hết sức giữ bình tĩnh, giọng nói của Bát Tư Ba vẫn run lên vì xúc động.

Dampa vội vàng xua tay để xóa đi sự hiểu lầm của Bát Tư Ba, hớn hở báo tin:

- Xin thầy đừng lo lắng, là chuyện vui. Bạch Lan Vương sắp kết hôn, vợ ngài là con gái của Vạn hộ hầu Shalu.

Cậu ta thở dốc rồi thông báo tin quan trọng nhất:

- Vạn hộ hầu Shalu đã đồng ý quy thuận phái Sakya, cùng bốn vạn hộ hầu khác.

Trái tim tôi như vừa bị vật nhọn đâm trúng, đầu óc hoàn toàn trống rỗng. Bát Tư Ba túm chặt lấy cánh tay Dampa, sắc mặt nhợt nhạt:

- Sao lại có đám cưới này? Jichoi nhân lúc ta đi vắng đã đến Sakya ư?

Dampa không khỏi kinh ngạc trước thái độ nghiêm trọng của Bát Tư Ba.

- Dạ thưa, không phải, Bạch Lan Vương đích thân đến trang viên Shalu cầu hôn.

- Nó đi Shalu ư? Nó đang ốm kia mà! - Bát Tư Ba nghiêm mặt, quát. - Nói mau, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Dampa rất mực bối rối:

- Sau khi thầy rời khỏi Sakya, Bạch Lan Vương cũng lập tức lên đường. Ngài chỉđem theo người hầu cận thân thiết là Kunga Zangpo, nói rằng sẽđến suối nước nóng trên ngọn đồi phía bắc của dãy núi Benbo để chữa bệnh, nên không ai băn khoăn gì cả. Nhưng năm, sáu ngày sau không thấy Bạch Lan Vương quay về, bản khâm sốt ruột, sai người đến suối nước nóng tìm kiếm thì không thấy Vương gia đâu.

Sắc mặt của Bát Tư Ba càng lúc càng xấu đi, giọng nói chất chứa cơn phẫn nộ:

- Nó đã lén đến Shalu?

Dampa cúi đầu, tiếp tục bẩm báo:

- Bản khâm biết thầy bận việc lớn ở Chumig nên không dám cho người đến báo tin, chỉ sai gia nhân đi khắp nơi tìm kiếm. Năm ngày sau, Kunga Zangpo đột nhiên trở về Sakya và mang theo tin vui này. Vạn hộ hầu Shalu đã chọn ngày Hai mươi tám tháng này là ngày lành tháng tốt để tổ chức hôn lễ. Được kết làm thông gia với Shalu nên tất cả những người trong giáo phái đều vui mừng khôn xiết. Bản khâm đã sai người sắp xếp, bố trí mọi thứđể tổ chức một hôn lễ thật long trọng, nghênh đón Vương phi của Bạch Lan Vương về Sakya vào ngày Hai mươi tám tới, đồng thời lệnh cho đệ tử lập tức lên đường, đi đón thầy về Sakya.

Bát Tư Ba chao đảo:

- Kháp Na đang ởđâu?

- Bạch Lan Vương đang cùng đoàn rước dâu trên đường về Sakya, khoảng Hai mươi lăm là về tới nơi.

- Ngày Hai mươi tám ư? Vậy là chỉ còn tám ngày nữa.

Gương mặt Bát Tư Ba lạnh băng, chàng quay lại hỏi người đánh xe:

- Nếu lập tức lên đường thì bao lâu mới về tới?

Phu xe thưa:

- Bẩm, nếu theo tuyến đường bình thường thì mất khoảng nửa tháng.

Bát Tư Ba xem xét lại đoàn người ngựa cồng kềnh của mình, lập tức hạ lệnh:

- Chia thành hai đoàn nhỏ, xếp tất cả những vật dụng cồng kềnh lên mấy cỗ xe ngựa, cho đi sau cùng đoàn tùy tùng. Giảm tối đa trọng lượng cỗ xe của ta, ta chỉ cần Dampa đi theo là đủ. Lập tức xuất phát, trong vòng tám ngày phải vềđến Sakya!

Cỗ xe tăng tốc hết mức có thể, đường núi gập ghềnh, hiểm trở, xe xóc, người mệt, tôi nằm bò trên chiếc đệm lông cừu, lòng buồn se sắt.

- Lam Kha, sao thế? Có phải xe ngựa xóc quá không?

Chàng nhấc tôi lên, đặt vào lòng mình, nhìn tôi lo lắng.

Tôi mỏi mệt, lờđờ, giọng nói yếu ớt:

- Em đau đầu, chóng mặt, khó chịu vô cùng.

Chàng hốt hoảng, siết chặt tôi hơn nữa:

- Ta sẽ ôm em thật chặt, như vậy em sẽ không thấy khó chịu nữa.

Tôi nhắm mắt lại, để mặc chàng săn sóc, mặc chàng tỉ tê vỗ về, an ủi. Chừng hơn một canh giờ sau, tôi bắt đầu khóc lóc:

- Em vẫn thấy khó chịu vô cùng. Hình như có một cái dằm trong tim em, xe ngựa cứ nảy lên một cái, dằm lại cắm sâu vào tim em, cứ thế, nó đâm nát tim em rồi.

Nước mắt tôi lăn dài trên má, thấm vào lớp áo tăng ni của chàng. Tôi cào cào móng vuốt vào ngực mình, run rẩy:

- Em muốn nhổ cái dằm đó ra, nhưng em không tìm được nó, không tìm được nó!

Bát Tư Ba bối rối lau nước mắt cho tôi, lo lắng dỗ dành:

- Lam Kha, cho ta hay, em làm sao vậy?

- Em không biết nữa, em chưa bao giờđau đớn, khó chịu thế này.

Rồi tôi hạ quyết tâm, ngẩng lên nói với chàng trong làn nước mắt:

- Em phải về trước đây, em phải đi tìm Kháp Na.

Bàn tay chàng đột nhiên siết chặt hơn, hai mắt khép hờ, lặng yên không nói. Một lúc lâu sau, chàng mới hé mở cặp mắt mỏi mệt, gật đầu với tôi.

*

Nhắc lại cuộc chạm trán và đối đáp với Chomden Rigdrel, tuy Bát Tư Ba đã giành chiến thắng bằng trí tuệ sắc sảo của mình nhưng tôi vẫn than vắn thở dài:

- Tuy Bát Tư Ba có công lớn đối với việc thống nhất đất Tạng nhưng không thể tránh khỏi những lời gièm pha, chỉ trích của những nhà tu hành tuân thủ tuyệt đối giới luật của nhà Phật. Chàng theo người Mông Cổđã lâu nên cách ăn mặc, cách hành xử cũng giống hệt người Mông Cổ. Trong con mắt của một số người Tạng bảo thủ thì chàng chẳng khác nào một người Mông Cổ mặc áo của người Tạng.

Chàng trai trẻ lên tiếng:

- Phái Sakya trở lên lớn mạnh, tất cảđều dựa vào thế lực của người Mông Cổ. Bởi vậy, sự hưng thịnh hay suy yếu của giáo phái này gắn chặt với sự hưng thịnh và suy yếu của triều Nguyên. Thật đúng với câu: thành cũng nhờ Mông Cổ, bại cũng do Mông Cổ.

Tôi cười buồn:

- Bát Tư Ba xuất hành quả thật không giống một nhà sư. Đoàn tùy tùng theo hầu chàng chính là tổ chức Labrang mà chàng lập ra cho riêng mình, phỏng theo cơ cấu cai quản thị vệ của các vương gia Mông Cổ. Chàng có khoảng mười ba quan thị vệ lo liệu công việc cho mình, trong sốđó có cả nhà sư và người thường. Senge là một trong số họ. Trong suốt những năm tháng mà uy danh của Bát Tư Ba lừng lẫy khắp nơi, những viên quan thị vệ này đi tới đâu cũng được kẻ khác vì nể.

Chàng trai trẻ bật cười:

- Thế mới nói, ngài chính là một chính khách mặc áo nhà sư.

- Nhưng chếđộ Labrang mà Bát Tư Ba sáng lập ra cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với các thế hệ tiếp theo. Vì các thủ lĩnh tôn giáo sau này đều học theo chàng, Labrang trở thành một tổ chức thị vệ mà bất cứ lãnh tụ tôn giáo nào trên đất Tạng cũng cần có. Tổ chức này không chỉ kéo dài cho đến khi triều Nguyên bị diệt vong mà ngay cả trong thời nhà Minh, nhà Thanh, người ta vẫn có thể thấy bóng dáng của chính quyền Sakya trong cấu trúc tổ chức chính quyền của vùng Tây Tạng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3