19. Chỉ có bạch tú cầu mới hiểu rằng mình sẽ trở về
Chỉ có bạch tú cầu mới hiểu rằng
mình sẽ trở về.
1. Cách mà Nguyên nhìn tôi luôn làm tôi bối rối. Đó cũng là
thứ đầu tiên khiến tôi biết rằng có sự tồn tại của một chàng trai như vậy trên
đời. Khi đó tôi đang đứng ở cửa hàng hoa, một cửa hàng hoa nhỏ nhắn, sạch sẽ và
được xếp đặt hài hòa. Cậu đứng ở quầy thu ngân và nhìn tôi rất lâu. Khi tôi
đang chăm chú ngắm một chậu hoa nhỏ với những cánh hoa màu vàng có đốm đỏ, thì
tiếng nói cất lên từ bên cạnh:
- Trông nó rất đẹp phải không? - Nguyên đã đứng cạnh tôi từ
lúc nào.
- Đây là hoa gì vậy? - Tôi rụt rè.
- Tên của nó là xạ can.
- Mình chưa từng nghe tên loài hoa nào như thế. - Tôi thú thật.
- Ừ, không nhiều người biết loài hoa này, nó thuộc họ lay
ơn. Mình nghĩ ở đây có rất nhiều loại hoa có lẽ bạn không biết, điều đó hoàn
toàn bình thường.
- Hãy chỉ cho mình. - Tôi mỉm cười.
Nguyên dẫn tôi đi quanh cửa hàng, cậu nói về vài loại hoa.
Nào là bạch yến, còng xeng, bạch đồng nam, rồi cả lạc di hay bướm bạc… Thực ra
tôi có biết một vài cái tên trong số đó, nhưng tôi chỉ im lặng và gật gù. Không
nên cắt nguồn cảm hứng của những chàng trai khi họ đang muốn chứng tỏ sự hiểu
biết, suy cho cùng nó cũng chẳng có gì xấu.
- Mình muốn mua chậu hoa kia. - Tôi chỉ vào chậu xạ can.
- Bạn không nên mua nó. - Nguyên cười.
- Vì sao?
- Bởi thường thì người ta chỉ coi xạ can như một vị thuốc.
Đây chỉ là một phần của nó, còn xạ can là một cây khá to, rất khó di chuyển!
Thêm nữa, có lẽ bạn sẽ rất khó chăm sóc nó, bởi xạ can ưa sáng một cách cực
đoan. Nếu không có đủ không gian và ánh sáng tự nhiên, nó sẽ rất tủi thân.
Tôi thích cách cậu
nói về một cây hoa như vậy. Chúng tôi trò chuyện thêm một lúc trước khi tạm biệt.
Tôi nói tôi đã khá mỏi chân sau khi đi bộ lâu, và muốn về khách sạn nghỉ ngơi.
- Ngày mai bạn sẽ ở đây chứ? - Tôi hỏi, dè dặt.
- Ừ, mình làm ở đây cả ngày.
- Mình là Như. - Tôi nói nhanh như vừa trút được gánh nặng.
- Mình tên Khánh Nguyên. - Cậu định bắt tay tôi nhưng rồi rụt
lại, phủi phủi nó vào ống quần, mỉm cười.
Ngay khi đó, tôi biết
tôi sẽ không bao giờ quên cái tên ấy, bằng một trực giác chỉ có con gái mới hiểu.
Rảo bước về khách sạn, trong lòng tôi mơ hồ một cảm giác dịu dàng, khác với sự
xáo trộn mà tôi cảm thấy trên chuyến xe đến thành phố này. Hoàng hôn Đà Lạt thật
yên bình.
2. Sáng sớm hôm sau,
khi Nguyên đang loay hoay dọn dẹp cửa hàng, tôi xuất hiện với quần jean ngố màu
đen và chiếc áo len mỏng, cười. Cậu nhìn tôi bằng ánh mắt vui vẻ:
- Bạn dậy sớm vậy sao?
- Mình quen rồi. - Tôi gật đầu. - Bạn muốn uống trà không? -
Tôi nói và giơ bình trà màu xanh vẫn giấu sau lưng lên.
Chúng tôi ngồi trước cửa hàng hoa, uống trà từ chiếc nắp được
tách ra thành hai chiếc cốc nhỏ và bình thản ngắm những du khách qua lại.
- Mình không nghĩ ở đây lại có loại trà này.
- Nó là trà Sencha, mình mua ở một cửa hàng nhỏ ngoài Hà Nội.
Mình mang theo nó, vì thích uống thứ này dù ở đâu.
- Cái bình này cũng thật tiện! - Nguyên lắc lắc chiếc bình
là vật bất ly thân của tôi.
- Món quà của bố.
- Bố bạn tâm lý vậy!
- Ừ, bố luôn rất hiểu mình. Bố mình mất rồi. - Tôi nhấp một
ngụm trà.
- Mình… xin lỗi! - Nguyên nhìn tôi bối rối.
- Không sao! Bố mất khi mình còn nhỏ. - Tôi nhoẻn miệng. -
Chiếc bình này bố mang về sau thời gian ở Nga. Mình còn nhớ khi đó mình đã khóc
vì cứ chờ đợi bố sẽ tặng búp bê. Rồi bố nói bố muốn tặng mình thứ gì có thể ở cạnh
mình lâu hơn. Sau đó, mình luôn mang theo.
- Như thể bố luôn ở bên Như?
- Có lẽ thế… - Thật sự, tôi hơi giật mình vì sự nhạy cảm của
Nguyên. - Tại sao bạn lại chọn công việc này?
- Mình không chọn, mình sinh ra như thế này. - Nguyên cười
to. - Ông bà mình trồng hoa, bố mẹ mình cũng thế. Từ nhỏ mình đã sống với những
cây hoa xung quanh.
- Nghe thật tuyệt! Bạn thích công việc này chứ?
- Tất nhiên. Nhất là sau khi bố mẹ giao cho mình cửa hàng.
Mình cảm thấy có trách nhiệm với thứ gì đó.
Hai người khách nước
ngoài bước vào cửa hàng. Nguyên ra hiệu cho tôi chờ cậu một chút trước khi đứng
lên, tôi nháy mắt. Khi Nguyên nói chuyện với cặp vợ chồng già, tôi ngắm nhìn đường
phố, và chìm vào những suy nghĩ của riêng mình. Tôi chỉ còn một tuần nữa ở Việt
Nam. Cách đây nửa năm, mẹ muốn tôi đi du học. Ban đầu tôi chẳng muốn chút nào.
Một mình nơi đất khách quê người, không có điểm tựa và cũng chẳng có niềm tin,
điều đó khiến tôi sợ hãi. Ý nghĩ tệ hại hơn là mẹ đã có người khác và muốn đẩy
tôi đi càng khiến tôi muốn ở lại. Nhưng càng về sau, tôi càng cảm thấy mình chẳng
có gì ở đây để tiếc. Tôi đồng ý đi. Khi tất cả mọi thủ tục đã xong xuôi, tôi
lên máy bay đến thành phố cách nơi mình đang sống một nghìn tám trăm kilomét, bắt
một chuyến xe lên Đà Lạt, như tự cho mình một kỳ nghỉ cuối cùng trước khi bước
vào chặng đường chông gai không còn xa.
Dứt mình khỏi dòng suy nghĩ, tôi uống nốt ngụm trà, quay lại
và thấy Nguyên đang bối rối trước cả chục người khách đang ngắm nghía và hỏi
liên tục về các loại hoa trong cửa hàng. Tôi bước vào trong, giúp cậu trả lời một
số vị khách nước ngoài đang háo hức trước những loài hoa lạ. Không hiểu sao,
tôi lại có cảm giác nhẹ nhàng đến thế. Dường như những suy tư khi nãy chợt tan
biến hết. Tôi vui vẻ cười với vài cô gái người Hà Lan khi nghe câu đùa rằng họ
sẽ gọi một chiếc chuyên cơ đến để mang hết cửa hàng hoa và cả chàng trai dễ
thương kia đi.
Một lúc sau, những vị khách đáng yêu lần lượt rời khỏi cửa
hàng với khuôn mặt hạnh phúc và những chậu hoa nhỏ trên tay. Một trong những cô
gái người Hà Lan đó quay lại, nháy mắt và thì thầm với tôi:
- You guys should be a couple you know! (Các bạn nên là một
cặp đó bạn biết không!)
Tôi đỏ bừng mặt, lí nhí nói lời cảm ơn, trong lòng dâng lên
cảm giác bối rối. Khi những vị khách đã đi khuất. Nguyên quay sang tôi định nói
gì đó, nhưng tôi vơ vội bình trà và túi xách:
- Mình đi đây. Nguyên làm việc vui nhé!
Rồi tôi chạy thật nhanh, cố gắng không để cậu thấy sự thảm hại
trên khuôn mặt mình. Trời ơi! Tôi đã cần một lý do như thế này, tôi đã cần một
nơi như cửa hàng hoa này, cần cả một chàng trai như thế nữa… Dù chỉ một điều
trong số đó cũng đã có thể giữ tôi ở lại. Thế nhưng ngày tôi xin visa và nộp
khoản tiền học phí đắt đỏ của ngôi trường xa lạ, chẳng có gì níu chân tôi như
thế, chẳng có lý do gì khiến tôi muốn ở lại Việt Nam. Đà Lạt buông nắng nhẹ,
tôi chạy với chiếc bóng của mình tới cuối con đường, dù biết phía sau Nguyên vẫn
ngơ ngác nhìn tôi.
Đêm đó, có lẽ những vì sao trên trời cũng không thể hiểu tại
sao tôi lại đứng ở lan can của khách sạn ngắm chúng lâu đến thế. Có lẽ có một
ngôi sao muốn nói với tôi rằng, nó sẽ vẫn thế, dù tôi có ở vùng trời nào đi nữa.
3. Tôi nói với Nguyên lúc cậu đang xếp những thùng hoa lên
giá cao:
- Mình xin lỗi!
Cậu hơi giật mình, rồi mỉm cười:
- Như mang thứ trà đặc biệt đó chứ?
Tôi gật đầu.
- Vậy đi cùng mình, hôm nay mình đóng cửa hàng.
- Bạn không cần làm thế mà.
- Đâu có, thứ Hai nào mình cũng nghỉ mà. - Khi Nguyên nói
câu đó, tôi không biết cậu có nói thật không nữa.
- Chúng ta đi đâu?
- Đến một nơi với mình là khá thú vị, hy vọng bạn cũng cảm
thấy thế.
Nói rồi cậu kéo chiếc cửa nhôm xuống, và dắt tay tôi đi.
Cách Nguyên cầm tay tôi tự nhiên tới mức tôi không thể phản ứng gì. Cậu đưa tôi
một chiếc mũ bảo hiểm và cười:
- Bám chắc nhé, chắc sẽ xóc đấy vì cái yên xe của mình rất tệ.
Mình có nghĩ sẽ đèo ai bao giờ đâu!
Tôi mở to mắt lúc ngồi sau xe Nguyên. Chiếc xe lên xuống các
ngọn đồi của Đà Lạt rất lâu trước khi dừng lại tại một hẻm núi. Tôi tháo mũ, bước
xuống, quang cảnh thật đáng kinh ngạc. Sương mù lúc bình minh ngập trên những
ngọn núi và ruộng bậc thang. Những tán thông chót vót yên ả. Một dòng suối uốn
lượn dịu dàng bên sườn núi. Ngay cạnh nơi chúng tôi đứng là một hàng bạch tú cầu
rất đẹp được ai đó trồng như vô tình. Chúng tôi im lặng một lúc rất lâu. Rồi
tôi quay sang Nguyên, khẽ khàng:
- Nguyên, vì sao hôm đầu tiên gặp mình, bạn lại nhìn mình
lâu thế?
- Bởi ở bạn có một điều gì đó rất đặc biệt. Mình cũng không
thể diễn tả điều đó, nhưng nó đã rất thu hút mình. Giống như mình đã gặp bạn từ
khi còn rất nhỏ vậy. Một cảm giác rất quen thuộc.
Chưa từng có chàng trai nào nói với tôi như thế. Tôi muốn
nói với Nguyên rằng tôi cũng đã nhìn thấy điều đó trong mắt cậu khi cậu nói với
tôi về xạ can. Nhưng điều gì đó giữ môi tôi mím chặt. Nguyên nói tiếp:
- Mình có cảm giác bạn luôn có một sự tư lự phảng phất. Giống
như bạn đang suy nghĩ điều gì đó rất quan trọng vậy.
Tôi nhìn Nguyên một thoáng, rồi nói:
- Mình kể cho bạn tất cả những thứ về mình mà bạn chưa biết,
bạn không phiền nếu sau đó mình sẽ khóc chứ?
- Và biết đâu sau khi khóc Như sẽ thấy nhẹ lòng hơn?
Chúng tôi ngồi xuống, bình trà ấm nóng trên tay. Tôi kể hết
với Nguyên những cảm xúc hỗn độn và sâu kín trong lòng. Cậu ở đó, thi thoảng nhấp
ngụm trà, và luôn nhìn vào mắt tôi. Tôi đã khóc. Và đúng là thấy nhẹ lòng hơn.
Khi tôi lau khô nước mắt bằng vạt áo của Nguyên, cậu nói với tôi:
- Bạn biết điều mình thích nhất khi chăm sóc những cây hoa
là gì không? Chúng biết cách nói chuyện với mình, một cách nói chuyện rất dịu
dàng. Chúng nở hoa, điều đó làm mình thấy những cố gắng của mình không vô ích.
Cậu im lặng một lát, rồi nói:
- Như biết không, có những việc chưa chắc đã tệ đến vậy. Chỉ
là chúng ta có mở lòng được không thôi. Mình tin mẹ Như không như vậy đâu, và nếu
có một người khác trong trái tim mẹ bạn thật, thì điều đó không phải cũng đẹp lắm
sao? Vì sau những khổ đau bởi mất mát, con người vẫn có thể lau khô nước mắt,
gượng dậy và đi tiếp, để tiếp tục cảm nhận hạnh phúc.
- Nguyên…
- Có lẽ đó cũng là điều Như nên làm bây giờ. Đừng sợ hãi. Mọi
thứ vẫn luôn như vậy mà.
- Mình không muốn rời xa nơi này. Biết đâu mình sẽ chẳng muốn
về nữa.
- Như sẽ về chứ! Mình vẫn ở đây mà. Mình sẽ chăm sóc những
cây hoa và chờ Như.
Câu nói bình thản quá, tôi đã chờ một câu nói như thế, có lẽ
từ rất lâu rồi. Sương mù đã lặng lẽ tan từ lúc nào, chỉ còn đọng lại trên những
đỉnh núi như một chiếc mũ trong suốt. Một cơn mưa nhẹ bất chợt đổ xuống, nhẹ tới
mức tôi không cảm thấy ướt, nhưng rất dịu dàng, Nguyên đã cởi chiếc áo khoác nhẹ
của cậu che cho tôi. Tôi nhìn về phía những hàng bạch tú cầu đang khẽ rung lên
trong mưa. Trong một khoảnh khắc, tôi muốn nói điều gì đó thật quan trọng với
Nguyên như một lời hứa. Tôi nói rất nhỏ, chắc chỉ có bạch tú cầu nghe thấy mà
thôi…