Trang - Chương 12 - Phần 1
12
Trên đường trở
về Khai Phong, Đavít đăm chiêu ít nói. Phong cảnh mới lạ và đẹp đẽ mà khi đi,
Đavít thích thú bao nhiêu thì nay chàng dửng dưng với tất cả. Tuy nhiên cảnh
vật vẫn đẹp đẽ, có thể nói được rằng đẹp hơn trước nhiều, vì ruộng vườn cây cối
đang hồi xanh tươi nhất. Người ta đã gặt lúa mì và ở miền Bắc những cánh đồng
kê cao vút, bao la. Mùa này là mùa của trộm cướp vì cây kê mọc rất cao, kẻ cướp
dễ ẩn mình trong ruộng kê để chÆn đón khách qua đường. Đavít cảm thấy không yên
tâm khi gần đến bờ sông. Vận chàng rất hên, chàng được tin bọn cướp vừa ăn hàng
ở các làng phía trước, nhưng trên đường đi chàng chẳng gặp một mống nào xuất
hiện cả.
Số là lũ cướp bị
một vố nhầm lẫn lớn, quan Tổng Đốc trên đường lai Kinh nhưng chúng tưởng là một
vị phú thương, đã ùa ra chặn đường đòi tiền mãi lộ. Khi toán quân hộ tống tiến
lên chống cự, lũ cướp đâm ra bối rồi và sau một hồi xáp chiến ngắn ngủi chúng
bị đại bại phải rút về sào huyệt trên núi để ẩn trốn.
Đánh úp quan
Tổng đốc hoặc bất cứ một vị quan nào khác của triều đình đều bị xem như là phản
loạn. Viên đại đầu lĩnh cho người mang lễ vật đến dâng quan Tổng đốc để tạ tội.
Hắn ta vô cùng cay đắng vì đã nhầm lẫn để bộ hạ đánh cướp một nhân vật cao
trọng như thế; hắn hứa sẽ chặt đầu tên đầu mục đã chỉ huy vụ cướp để dâng lên
quan Tổng đốc khi nào ngài muốn.
Quan Tổng đốc
dạy tha cho những kẻ đã lầm lỡ, nhưng ngài truyền phạt chúng bằng cách cấm
trong một tháng không được chặn đường cướp bóc bất cứ ai trên quãng đường từ bờ
sông đến kinh đô. May thay Đavít và gia đình chàng lại đi nhằm vào lúc lũ cướp
bị phạt án binh bất động ấy.
Họ đã đến được
bờ sông, xuống một chiếc ghe mành để dong buồm trở về Khai Phong. Trên mặt sông
vẫn có thể bị lũ thủy khấu đánh cướp, nhưng nhờ cờ hiệu của Hoàng cung đã treo
trên cột buồm lúc ra đi nên lũ cướp không dám vọng động.
Cuộc hành trình
bằng thuyền mành rất chậm, vì đang độ giữa mùa hè, ít gió, mà thuyền chàng đi
về phía tây nên bị dòng nước ngược.
Đavít có thì giờ
thư thả để ngồi tư lự một mình trên boong thuyền và nhìn ngắm phong cảnh trên
bờ chầm chậm giàn trải trước mắt. Trên boong thuyền người ta đã căng một tấm
vải dày để che ánh nắng thiêu đốt của mùa hè, bên dưới, Đavít ngồi dựa trên một
đống gối, thân xác rất là êm ái nhưng tinh thần thì quá đỗi đau đớn, lo âu. Nỗi
khổ tâm trong lòng đã làm cho chàng hóa ra dịu dàng với vợ với con. Chàng chú ý
đến vợ con hơn trước, chàng kiên nhẫn nghe lũ trẻ tán chuyện và lịch sự chịu
đựng cái tính khí khá thất thường của Quí Lan. Trong mấy năm gần đây, Đavít đã
dần dà quen thói nổi nóng với vợ. Nhưng giờ đây chàng đã tự chủ được mình và đã
cố gắng ngọt ngào với vợ ngay cả khi nàng nói những điều phi lý, ngu ngốc nhất.
Chàng luôn miệng giải đáp các câu hỏi thắc mắc của lũ trẻ, chàng phải cầm sợi
dây buộc ngang thắt lưng thằng bé nhỏ nhất để nó khỏi ngã xuống sông. Chàng đã
thay đổi rất nhiều.
Không có gì qua
khỏi mắt Trang, nàng biết tất cả những đổi thay đó và đau đớn nhận thấy rằng
chàng đã không ban phát lòng nhân ái ấy cho mình. Đavít đã lẩn tránh nàng. Nàng
nhận thấy điều đó rõ ràng hơn nhờ những ngày chung sống trên chiếc thuyền chật
hẹp. Vào những lúc chiều tối, sau khi lo xong việc bổn phận, nàng lên trên
boong thuyền, nhưng không bao giờ gặp chàng. Ngay cả những đêm trăng sáng vằng
vặc cũng không thấy chàng lên boong thưởng ngoạn. Chàng tìm cách để khỏi phải
gặp nàng một mình, chàng không nói với nàng những gì khác hơn là những câu hỏi liên
quan đến vợ con chàng và luôn luôn trước mặt những người khác. Nàng rất lấy làm
khổ tâm, tự hỏi phải chăng vì nàng, chàng đã phải hấp tấp rời khỏi Bắc Kinh nơi
mà chàng dự tính ở lại lâu ngày. Nàng thở dài. Trang đau khổ nghĩ rằng, Đavít
cũng giống như mọi kẻ đàn ông khác, đã đâm ra ít yêu thương một cô gái chỉ vì
cô ta mà mình phải ép lòng hy sinh một vài thích thú cá nhân. Trang cảm thấy ân
hận. Lẽ ra, nàng không nên để chàng vì nàng mà phải hy sinh gì cả. Trang vừa
thất vọng vừa tự kiêu. Trang quyết nếu Đavít vẫn giữ một thái độ như vậy, nàng
sẽ thận trọng hơn, và có lẽ, nàng sẽ từ giã để ra đi. Nhưng đi đâu? Nàng biết
đi đâu bây giờ! Nàng thầm nghĩ: “Ta phải ẩn nấp trong nhà Đavít như những con
chuột nhắt, như những con dế mèn…”
Nếu Đavít nhận
thấy thái độ lẳng lặng của Trang, nếu chàng đoán biết lòng nàng bị tổn thương
nặng nề, chàng vẫn không để lộ ra.
Ngày này sang
ngày khác, đã quá nửa mùa hè, chiếc thuyền mành về gần đến phủ Khai Phong.
Đavít sai người chạy đi trước thông báo cho cha chàng hay, nếu thuận buồm xu«i
gió, họ sẽ về đến nhà trong vòng một tuần lễ nữa; nhưng nếu trời trở gió hoặc
gặp giông bão, phải hai tuần nữa mới tới nơi. Đavít ước mong về đến nhà trước
cuối hè, mùa của các cơn giông bão, thuyền bè đều phải cập bến để ẩn nấp.
Trong mấy ngày
đầu, thuyền thuận gió, mấy ngày sau người ta phải dùng dây để kéo và vào khoảng
mười ngày ai nấy đều thấy rõ các bức tường thành thị trấn hiện ra giữa cánh
đồng xa xa. Mọi người đều sung sướng được nhìn lại bờ sông quê cũ. Trên bờ
sông, ông Era, ông Khương Sơn và các con trai của ông đang chờ đón gia đình
Đavít. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng các xe lừa, các chiếc kiệu, và phu khuân vác.
- Kìa, con! -
Ông Era reo lên vui vẻ. Ông ôm lấy Đavít trong tay và áp má vào vai con. - Ba
không ngờ con về sớm thế. Ba nghĩ, con ở lại ít nhất sáu tháng là ít. Nhưng
được gặp lại con, ba mừng lắm.
Ông Khương Sơn
khẽ gật gật cái đầu ra chiều thương mến, ông siết chặt tay Đavít, đón con gái
ông, vuốt ve các cháu ngoại của ông và chào Trang rồi mọi người tất cả đều lên
xe lên kiệu trở về nhà. Nhà chức trách đã cho lệnh đốt pháo tại cửa thành thị
trấn và trước nhà ông Era. Hai vợ chồng lão Hoàng cũng treo pháo đốt giữa buổi
tiệc mừng vui sum họp của gia đình.
Trang cảm thấy
sung sướng được thoát khỏi bao hiểm nguy để trở về sống một cuộc đời bình lặng
sau những cánh cửa khép kín này.
Khi bước vào
nhà, Trang hỏi thím Hoàng:
- Không có gì
thay đổi cả chứ thím?
- Không có gì.
Chỉ có điều là con chó…
- Con chó chết
rồi sao?
Thím Hoàng gật
đầu xác nhận:
- Sau khi chị
đi, con chó buồn ủ rũ. Nó không ăn không uống gì cả. Tôi đã mua thịt băm cho
nó, tôi đã mua gan heo cho nó ăn, nhưng nó chỉ liếm một chút rồi bỏ đi.
Trang nói:
- Đáng lẽ tôi
phải mang nó đi theo.
Thím Hoàng đáp:
- Nếu chị mang
nó đi theo thì nó lại nhớ nhà. Rốt cuộc rồi nó cũng chết.
Trang không nói
gì thêm. Con chó nhỏ chết đi nàng cảm thấy thiếu thốn rất nhiều. Sau khi đã săn
sóc mợ chủ và lũ trẻ, Trang trở về phòng riêng nhưng nàng cảm thấy không thể
chịu nổi sự thanh vắng ở nơi đây. Nàng cảm thấy lẻ loi xa cách mọi người tất
cả. Nàng ngồi xuống thút thít khóc và chốc chốc lại thở dài. Cái ổ rơm của con
chó vẫn còn nằm dưới gầm bàn. Trang nhìn nó vẻ thương cảm; nàng tự hỏi có nên
mua một con chó khác không? Chó thì nhiều, dễ kiếm và không có ai quan tâm gì
đến việc chúng chết hay sống. Nhưng Trang chỉ muốn con chó nhỏ của nàng, con
chó mà nàng đã nuôi nấng bấy lâu và nay đã mất, mất hẳn. Nàng ân hận vô cùng,
nàng chỉ muốn độc chiếm.
- Ta ngốc thật.
- Nàng lẩm bẩm. - Ta yêu một cách quá hẹp hòi.
Trang nghĩ đến
con chó nhỏ nhưng tư tưởng của nàng hướng về Đavít. Rồi nàng lại trách mình tại
sao cứ yêu Đavít mãi không thôi, trong lúc đó nếu là một người đàn bà khác thì
người ta đã rút lui, chọn một tấm chồng và sung sướng với đàn con, sống một
cuộc đời bình lặng vui vẻ mặc dầu đã không được cùng người yêu kết tóc xe tơ.
Nhưng dầu nghĩ sao thì nghĩ, Trang vẫn không có thể thay đổi được sự trì chí
của con tim. “Ta phải bằng lòng với hoàn cảnh của ta hiện tại”. Trang buồn rầu
tự nhủ trong khi hai hạt lệ lăn tròn trên khuôn mặt yêu kiều. Nàng đứng dậy tắm
rửa, chải đầu, thay áo quần và đi lo công việc bổn phận đối với vợ và con của
chàng.
Tôi hôm ấy Đavít
thức khuya để nói chuyện với cha chàng. Ngày đầu, chàng ăn tối với ông Era và
hẹn sẽ dùng bữa với ông Khương Sơn vào hôm sau. Chàng và cha chàng có nhiều
chuyện cần bàn bạc. Đavít nhận thấy cha mình gầy sút mặc dầu ông cứ khăng khăng
bảo rằng ông vẫn khỏe mạnh. Càng nhìn kỹ, Đavít càng nhận thấy cha chàng đã là
một ông già. Hai má đã xếp nếp nhăn, mi mắt xệ xuống. Ông phàn nàn rằng bên
hông trái của ông như cứng đờ, ông phải kéo lê một chân khi đi. Tuy nhiên đôi
mắt ông vẫn còn tinh anh và giọng nói vẫn trầm hùng như bao giờ.
Đavít hỏi:
- Bất thình
lình, ba cảm thấy cứng bên hông trái hay là mỗi ngày một ít?
- Cách đây hai
tháng, một hôm ba ngủ dậy bỗng thấy cứng ở bên hông. Vài hôm sau, lưỡi ba đóng
vớn, ba nói một cách khó khăn vì cái lưỡi như bị cứng lại. Thím Hoàng liền đi
mời thầy lang đến bắt mạch cân thuốc. Sau khi uống vài thang, ba thấy đỡ hơn.
- Từ nay con
phải đỡ đần công việc cho ba nhiều hơn ba ạ!
- Điều đó đã
được quyết định xong xuôi rồi con ạ. Trong lúc con vắng nhà, ba đã đặt con thay
ba điều khiển tất cả mọi công việc thương m¹i, và kể từ bây giờ chính con là
người có quyền chấp thuận hay bác bỏ, con định đoạt tất cả. Bác Khương Sơn cũng
thế, bác đã giao quyền cho anh hai bên ấy. Hai con sẽ đứng đầu công ty, hai ta
sẽ nghỉ dưỡng già, nếu cần chỉ cho ý kiến đôi chút thôi.
Đavít xúc động
và hãnh diện. Tuy nhiên, chàng không sao khỏi cảm thấy buồn, vì đây là ngày bắt
đầu vào hồi kết thúc cuộc đời của cha chàng. Trong khi chàng đạt đến sự trưởng
thành toàn diện về thể xác thì cha chàng suy yếu dần. Đó là bước đi không thể
tránh được của các thế hệ, không có gì có thể ngăn cản nổi. Đavít tự nhủ, từ
nay cho đến ngày cha chàng nhắm mắt lìa đời, chàng sẽ tỏ ra rất ngọt ngào, rất
mềm mỏng đối với người và sẽ chiều theo mọi sở thích của người.
Bất giác, ông
Era nói:
- Mẹ con mất đi
ba thấy hiu quạnh lẻ loi quá!
Ông nhìn Đavít,
mắt rưng rưng; ông đưa tay lên chùi ngấn lệ. Đêm đã khuya, bốn bề yên tĩnh, một
cơn gió nhẹ khẽ thổi qua các sân thanh vắng, tăm tối, dịu dàng lọt vào các
khung cửa mở làm những ngọn nến run rẩy.
Đavít bình tĩnh
nói:
- Mẹ con chết
đi, mọi người đều cảm thấy thiếu thốn, tiếc thương. Đối với mỗi một chúng ta,
ai ai cũng đều biết rõ trong nhà không còn như cũ kể từ khi mẹ con nhắm mắt.
Ông Era dường
như nghe một cách khó khăn. Ông ngồi dựa ngửa ra chiếc ghế bành, hai tay bấu
chặt vào thành ghế.
Ông buồn rầu
nói:
- Ba nghĩ đến
cuộc chung sống của mẹ con và ba không phải là một cuộc sống chung dễ dàng đâu
con ạ. Mẹ con không phải là một người dễ uốn nắn; bà sắt đá vô cùng, cho đến
khi ba quen được cách hiểu bà. Ba không bao giờ có những hành động, những cảm
nghĩ như mẹ con. Mẹ con tính khí thất thường. Đôi khi bà dùng sự giận dữ để đối
lại với giận dữ, cũng có đôi khi bà dùng tình yêu hoặc nụ cười để đáp lại sự
giận dữ của ba.
Ba phải chọn lấy
khí giới của ba. Ba phải luôn luôn thay đổi để đáp lại sự đổi thay của mẹ con.
Tuy nhiên, trong cái tính khí thất thường của mẹ con, có một sự thuần khiết
không thể bì được. Nghĩ lại, trong thâm tâm mẹ con rất tốt và ba có thể tin cậy
mẹ con. Mẹ con không bao giờ có thể phản bội Chúa và lừa dối ba. Mẹ con là một
người đàn bà chân chính.
Đavít không nói
gì. Trước đây chàng chỉ nhìn thấy ông bà Era qua hình ảnh của một người cha và
một người mẹ, bây giờ chàng đã bắt đầu nhìn thấy nơi họ một người đàn ông và
một người đàn bà. Chàng chưng hửng nghĩ đến hai người đã sinh ra chàng, như
tách biệt khỏi chàng, nghĩ đến cuộc đời thân mật thầm kín của một người đàn ông
và một người đàn bà…
Ông Era lại
tiếp:
- Mẹ con là một
người thông minh. Bà quá đỗi thông minh vì ba nhận thấy ba thua bà nhiều điểm.
Hồi ba còn trẻ, điều đó đôi khi đã làm cho ba buồn, một nỗi buồn vô cớ. Nhưng
càng về già, ba càng hiểu đó là ơn phúc Thượng đế đã ban cho ba. Con hãy xem
bác Khương Sơn! Một con người cô độc, phải không con? Bác ấy ít khi nói đến vợ,
họa hoàn lắm ba mới thấy bác gái… một con người đần độn, phải thế không Đavít?
Nhưng bác Khương Sơn lại là một người tế nhị, trí thức, - bác ấy không có thể
đi lăng nhăng bên ngoài. Ba cũng thế. Khi một người đàn ông đã biết một người
đàn bà như mẹ con, - cả thể xác lẫn linh hồn…
Ông Era ngừng
lại thở dài và nói tiếp:
- Con ạ, trong
thời gian con đi vắng và sau khi chú Cao Liên bỏ ba để theo đoàn thương hồ đi
về phía tây, ba có đủ thì giờ để suy nghĩ lại suốt cuộc đời ba đã sống với mẹ
con. Khi mẹ con mất đi, nguồn an ủi của ba cũng mất theo, nhưng đây là một điều
kỳ lạ: ba không ngoan đạo, như con đã biết, nhưng bao lâu mẹ con còn sống, ba
cảm thấy nơi ba mọi sự đều tốt đẹp trước mặt Chúa. Mẹ con là lương tâm của ba
nhắc ba hối cải những gì mà ba thường chống đối, những hối cải ấy đối với ba
rất có giá trị. Bây giờ, ba cảm thấy bơ vơ lạc hướng. Thiên Chúa đã xa ba… Nếu
quả có Thiên Chúa?
Đó chính là một
câu hỏi, nhưng Đavít không biết trả lời ra sao. Chàng im lặng.
Thấy Đavít không
nói gì, ông Era tiếp:
- Ba và con,
chúng ta không ai có thể trả lời được có Thiên Chúa hay không. Vì thế, chúng ta
không còn là Do Thái nữa con ạ. Ba đã chọn và con cũng đã chọn. Ba có muốn quay
trở về con đường chính không?... Nhưng ba vẫn là ba không thay đổi, trong
trường hợp này, sự chọn lựa của ba vẫn như cũ, và con cũng thế.
- Con không chắc
như ba, ba ạ. Con có thể là một người như thế này… hoặc là một người như thế
khác. Nếu Lịch còn sống…
Chàng ngừng lại
không nói gì thêm.
- Nếu Lịch còn
sống… - ông Era nghĩ ngợi - nếu Lịch còn sống, có thể mẹ con cũng còn sống. Tất
cả sẽ khác hẳn, nhưng trước hết chúng ta phải khác.
- Chúng ta sẽ không
còn ở đây nữa.
Ông Era nhìn
người con ngồi đối diện ông, phía bên kia bàn.
- Con muốn nói
rằng…
- Con muốn nói
rằng chúng ta không thể ở lại đây, sống giữa những người này một cách riêng rẽ.
Tại các nước khác ở Âu châu, chúng ta có thể sống riêng rẽ ba ạ, bởi vì chúng
ta bị ngược đãi, chúng ta bắt buộc phải sống như thế. Tại các nước ấy chúng ta
liên kết lại với nhau bởi vì không có một dân tộc nào khác muốn chấp nhận dân
tộc chúng ta; người ta sát hại chúng ta và chúng ta hãnh diện vì sự sát hại ấy.
Chúng ta không có tổ quốc nào khác ngoài sự khốn khổ. Nhưng tại đây chúng ta
được mọi người chung quanh đối xử như bạn hữu, chúng ta được tiếp đón niềm nở,
được trộn lẫn máu họ cùng máu chúng ta, như thế chúng ta không có thể đền đáp
lại bằng cách sống cách biệt họ được.
- Đúng… đúng.
Tất cả những gì đã xảy ra đều không thể tránh được.
- Không thể
tránh được.
- Và rồi đây các
con của con, lũ cháu nội của ba cũng sẽ trộn lẫn nhiều hơn nữa với những người
chung quanh chúng ta.
- Vâng, rồi sẽ
đúng như vậy.
Ông Era nghĩ
ngợi:
- Như thế rồi
đây dân tộc chúng ta sẽ biến mất sao?
Đavít không nói
gì. Thật không thể nào tránh được, như chàng đã nói; khi một dân tộc tỏ vẻ niềm
nở và công bằng đối với một dân tộc khác, bức tường ngăn cách giữa đôi bên sẽ
sụp đổ, và họ sẽ trở thành một thành phần của nhân loại. Nhưng đàn cháu chắt
sau này sẽ không còn biết gì hơn nữa, chúng quên ngay cả cái tên Era; chúng sẽ
bị biến mất như một nắm cát vãi vào sa mạc hoặc như một cốc nước đổ xuống biển
cả mênh mông.
Đavít trầm ngâm
nghĩ đến đàn cháu chắt dài lê thê do dòng máu của chàng sinh ra… con của con
chàng, con của cháu chàng… Chàng tưởng chừng như nhìn thấy chúng quay mặt lại
phía chàng và hỡi ôi tất cả đều là những khuôn mặt Tàu chính cống.
Đột nhiên ông
Era nói:
- Ờ, tự nhiên chúng
ta hóa buồn. Những gì đã lỡ không thể sửa đổi lại được. Bây giờ con hãy kể cho
ba nghe chuyến đi của con.
Đavít chợt tỉnh;
chàng vắn tắt kể lại hết cho cha chàng nghe về vẻ huy hoàng tráng lệ của Bắc
Kinh, cái phong thái trang nhã, vẻ sang trọng quí phái của những người sinh
sống tại chốn đế đô. Chàng kể cho cha chàng nghe chàng đã ăn ở đâu, uống ở đâu,
tiêu khiển ở đâu, và cuộc triều yết Tây Thái Hậu đã diễn ra như thế nào; những
tin đồn ra sao về chàng, và cuối cùng chàng nói đến cái lý do đã buộc chàng
phải lập tức rời khỏi đế kinh trong đêm khuya tăm tối.

