Trang - Chương 10 - Phần 2
Bất đắc dĩ lão
phải mở cửa. Bà Era bước vào, lão thủ từ đi theo sau. Ban đầu, bà không nhận
thấy gì khác ngoại trừ bụi bặm và lá khô lá mục dưới các gốc cây. Nhưng khi bà
đi sâu vào sân trong, bước lên tầng cấp cao và đi vào giáo đường, bà nhận thấy
có nhiều đổi thay. Hai con sư tử bằng đá nằm hai bên cánh cửa đã biến mất, mấy
cái bình xưa bằng sắt cũng vậy và màn treo trên cửa cũng không còn. Bà Era
không thấy mấy chân nến và cái bình đựng
nước để rửa tay mỗi khi hành lễ để trên bàn. Người ta cũng khuân đi mất mấy cái
bàn dựng mười cuốn thập điều giáo luật.
Bà Era hết nhìn
thấy vật này mất đến vật khác mất. Bà lặng người đi, không nói một lời. Bà đứng
giữa giáo đường, đưa mắt kiếm tìm một vật quen thuộc. Bà hướng mắt nhìn lên bức
tường phía tây và nhận thấy một sự đánh cắp hèn hạ đốn mạt nhất. Trong hàng bia
đã khắc thập điều giáo luật, thập điều này do chính đức Dêhôva đã truyền cho
Maisen, tên trộm cạy mất những chữ bằng vàng y.
Bà Era quay lại
quát hỏi già Êly:
- Ai dám cả gan
làm thế?
Già Êly cúi đầu
lắp bắp:
- Thưa phu nhân,
con sợ không dám nói hết cho bà hay.
- Còn gì nữa?
Lão đưa tay trỏ
ra cửa và lẳng lặng hướng dẫn bà Era bước ra ngoài. Lúc bấy giờ bà nhận thấy
không những chỉ các vật dụng trong giáo đường đã bị ăn trộm mà gạch trên tường
cũng bị chúng cạy lấy đi. Thứ gạch này là một loại đặc biệt được nung cách đây
hơn hai trăm năm để tái thiết giáo đường sau một trận lụt lớn. Gạch này rất
mịn, hơn tất cả mọi loại gạch thời nay mà cổ nhân đã giữ được bí quyết chế tạo
lưu truyền từ thời dân tộc Do Thái còn làm nô lệ ở Ai Cập.
Già Êly buồn rầu
nói:
- Chẳng bao lâu,
ngôi giáo đường sẽ chỉ còn trơ lại bộ sườn mà thôi. Rồi một ngày nào đó, khi
gió nam thổi mạnh, nó sẽ sụp đổ.
Bà Era không
biết trả lời sao. Bà nhìn quanh và thấy
thím Hoàng đang cuống quít chạy kiếm và vì thím đợi bên ngoài quá lâu,
đâm lo:
- Xin mời phu
nhân về nghỉ. Đền chùa nào mà chẳng có kẻ cắp, kẻ trộm!
Bà Era quay sang
già Êly:
- Sao nhà ngươi
không đến trình cho ta biết?
- Thưa phu nhân,
con không biết gì ráo. Ngày cũng như đêm, có dám rời thầy con phút nào đâu. Mà
cũng không có ai trong dân ta đến báo tin cho con biết cả.
- Lũ trộm cướp
không bao giờ dám động đến cửa đền chùa, nhà thờ nhà thánh, nếu không có người
hướng dẫn.
Một ý nghĩ
thoáng qua trong óc bà, nhưng bà không muốn nói ra vì già Êly và thím Hoàng
không phải là hạng người ngang hàng với bà.
Bà nói:
- Bây giờ tôi
phải về. Hãy canh chừng nghe già Ly. Tôi phải đi trình nhà chức trách bắt lũ
trộm, đánh đòn và bêu ra trước dân chúng cho đến chết.
Bà mang một vết
thương lòng trở về nhà. Bà không thể chờ đợi chồng và con trở về. Bà sai lão Hoàng
đi tìm họ. Thím Hoàng còn dặn lão đừng có chần chờ vì thím sợ bà chủ bệnh.
Đavít đang ngồi
làm việc một mình trong phòng. Ông Era gọi chàng và hai người trở về nhà ngay.
Bà Era đang đợi họ. Bà vừa thấy bóng họ đã oà khóc khiến hai người khó có thể
biết chuyện gì đã xảy ra. Thím Hoàng mang tách trà nóng vào dâng tận miệng cho
bà chủ. Nếu không có thím giải thích chắc hai cha con ông Era vẫn còn bối rối.
Bà Era đột ngột
ngừng khóc khi thím Hoàng đã nói rõ nguyên do. Đã đến lúc bà nói ra sự ngờ vực
trong lòng:
- Tôi biết rõ
rằng các đồng bào nghèo của chúng ta, trong giờ phút này dẫu có khốn khổ đến
bao nhiêu chăng nữa cũng không ai dám đánh cắp của Chúa bao giờ.
Hai người vẫn
tiếp tục nghe bà nói:
- Tôi có thể nói
cho mình và con biết rằng chỉ có một người độc nhất có thể làm việc ấy, đó là
Arông. Phải kiếm nó mình ạ. Nó trốn lánh ở đâu đấy trong thành và chính nó dẫn
kẻ trộm và nhà Chúa. Chúa sẽ phạt nó.
Ông Era than
thở:
- Làm sao kiếm
ra nó được?
- Người Trung
Hoa biết cách tìm lũ trộm.
Đavít nói:
- Trong thành có
một tên chúa trùm lũ trộm cướp. Các quan toà đều biết tên của nó, tại toà án nó
thường nộp phạt hàng năm, nhờ nó, chúng ta có thể tìm ra Arông dễ dàng.
Bà Era hỏi:
- Con có thể đảm
trách việc này không?
Đavít cúi đầu,
vắn tắt đáp:
- Một công việc
đáng buồn, nhưng con xin cố gắng.
Đavít đã đi gặp
quan toà, đóng một số tiền để gặp tên chúa trùm lũ trộm. Một hôm nọ, tên chúa
trùm hẹn gặp trong một tiệm nước ở gần ngoại ô thành phố. Đavít nhận ra nhờ sợi
dây đỏ quấn ở nút áo gã. Gã ngồi ở góc phòng phía trong để khỏi quá lộ liễu. Gã
đã nhắn tin, Đavít chỉ đến một mình. Bà Era biết thế, đâm sợ, bà năn nỉ già Ly
đứng khuất ở phía ngoài cửa. Không một ai trong nhà ông Era biết được các việc
đang xảy ra, vì ông bà và Đavít rất hổ thẹn đã có một tên Do Thái hành động bỉ
ổi như vậy.
Tên chúa trùm là
một gã đàn ông cao ráo, gầy, bận áo quần lụa đen. Hắn đang ngồi chờ chàng, tay
cầm chén trà đang uống dở.
Chào hỏi xong,
Đavít ngồi xuống ghế. Hắn đưa tay vỗ vỗ vào tay Đavít, chàng nhìn thấy bàn tay
của hắn rất hẹp, gầy và dài, làm chàng liên tưởng đến một con chồn đen mà phát
tởm. Chàng vào đề ngay:
- Tôi thay mặt
cho cha tôi đến đây để nhờ anh một việc. Chúng tôi muốn biết ai đã lấy trộm
bình thánh, màn lụa, gạch trong giáo đường. Nếu người ta trả lại cho chúng tôi
những vật ấy, chúng tôi sẽ chịu một số tiền. Chúng tôi cũng xin biếu thêm một
số tiền nữa để biết hiện các vật ấy đang ở đâu và người nào đã dám ăn trộm các
vật ấy.
Gã chúa trùm
nhếch mép cười nham hiểm:
- Thì chính hắn
là đồng bào của các ông đấy.
Đavít nhận thấy
mẹ chàng đã đoán đúng.
- Tên nó là
Arông phải không?
- Tôi không biết
tên thật của nó. Người ta gọi nó là tên Li ngoại quốc.
- Nhưng nó đâu
có đủ sức để khuân những tảng gạch nặng nề và những con sư tử bằng đá to tướng
như thế.
Tên đầu sỏ nói
giữa hai hàm răng khít rịt:
- Không, hắn đâu
có khiêng. Hắn đốc thúc các người khác. Tụi này sợ rằng vị thần ngoại quốc bắt
tội nhưng tên Li cam đoan rằng không can gì hết, vì chính hắn là con trai vị
giáo trưởng hắn biết hết tất cả các kinh.
- Hắn ở đâu?
Gã ấy nói, vẻ
xảo quyệt:
- Nếu tôi bắt nó
giao cho ông, ông sẽ cho tôi bao nhiêu tiền, vì nếu làm như vậy thì tôi thiệt
thòi rất lớn.
Trong thâm tâm,
Đavít rất ghê tởm, nhưng ngoài mặt chàng cũng tỏ ra không kém gì gã về phương
diện tinh ranh:
- Chúng tôi đâu
có cần nhìn thấy cái mặt bỉ ổi của hắn làm gì. Nếu anh cần thì cứ giữ hắn lại.
Nhưng kể từ ngày hôm nay, giáo đường sẽ được canh giữ cẩn thận và các anh sẽ
hết đường làm ăn.
Mặc cả xong,
Đavít thuận trả cho tên phản bội ba chục lạng bạc.
- Tê Li hiện
đang trốn trong một túp lề tranh bên trong một cái cổng cách đây sáu nhà. Ông
theo tôi, tôi sẽ chỉ chỗ cho. Nhưng mà phải trao tiền trước mới được.
- Tôi không mang
theo. Anh biết nhà của ba tôi rồi chứ gì. Và anh cũng biết ba tôi hùn hạp với
ông Khương Sơn. Anh có thể tin ở tôi.
Sau một phút do
dự, gã đầu sỏ bằng lòng và bước ra đường. Hắn đưa tay chỉ.
- Người ta
thường gặp nó ở đấy và khoảng xế trưa.
- Tối nay anh
đến nhận tiền.
Rồi chàng băng
qua đường, mạnh dạn bước đến một túp lều tranh. Trong túp lều nhỏ hẹp tồi tàn,
Arông đang cuộn mình nằm ngủ trên một tấm phản gỗ.
Đavít đến bên
lay gã. Arông mở mắt, nhìn thấy Đavít, gã trở mình, càu nhàu:
- Anh muốn gì?
Đavít nhìn gã
khinh bỉ, tuy nhiên chàng không thể đánh đập hay nguyền rủa.
- Anh đáng nộp
cho quan tra tấn. Arông tại sao anh là người dân ta mà lại hành động như vậy?
- Tôi không biết
anh muốn nói gì?
- Anh biết rõ
lắm mà! - Đavít thở dài ngồi xuống ghế đẩu, gục đầu vào hai bàn tay. - Tôi lấy
làm mừng là cha anh không bao giờ biết được việc làm bỉ ổi của anh. Cũng may mà
cô Lịch đã chết, khỏi phải đau khổ vì hành động của anh.
Arông gãi sồn
sột, ngáp dài mà không nói gì.
Đavít đứng dậy:
- Tôi để cho anh
chọn. Một là đến giúp việc tại các kho hàng nhà tôi, ở đấy chúng tôi sẽ trông
chừng anh; hai là vào nằm trong nhà lao thành phố.
Sau vài phút suy
nghĩ, Arông đành đi theo Đavít.
Kể từ ngày hôm
ấy, trước đôi mắt khinh bỉ của mọi người, gã ăn cơm của ông Era, mặc áo cũ của
ông Era và mang giấy tờ liên lạc giữa ông Era và ông Khương Sơn. Mỗi khi gã ở
một mình, không ai dám tin gã, giao cho gã bạc tiền hay vật dụng gì hết. Gã là
con người hèn mọn nhất trong gia đình ông Era.
Bà Era tuyệt
vọng hoàn toàn vì bà biết sẽ không bao giờ người ta có thể trùng tu lại ngôi
giáo đường. Ông Era cũng không thể nào an ủi bà được.
Ông thường nói
với vợ:
- Naomy! Mình
hãy nhìn xem. Mình có đủ tất cả những gì để làm cho một người đàn bà sung
sướng. Con trai chúng ta là người được kính nể nhất trong đám thương gia trẻ
tuổi ngày nay ở thành phố này. Cách đây mấy hôm, bác Khương Sơn đã nói với tôi
rằng:
- Đại huynh ạ!
Con trai của đại huynh vừa giúp tôi thu hồi được một phần tư số lợi tức trong
một năm.
Tôi hỏi:
- Thế là thế
nào?
Bác ấy đáp:
- Từ mười năm
nay, hàng hoá của tôi bị mất mát khá nhiều. Chúng tôi đã cố sức tìm kiếm, các
con trai tôi và tôi, chúng tôi không thể nào khám phá ra được do bởi đâu mà ra.
Năm rồi, tôi sai thằng con trưởng đi Bắc Kinh, để sao chép lại tất cả sổ sách
hàng hoá xuất nhập. Khi nó trở về, chúng tôi xem xét lại từng khoản một mà
không thấy điểm nào sai, thế nhưng hàng năm vẫn mất mới lạ chứ! Thế rồi, tôi
giao số giấy tờ ấy cho con trai bác…
Bà Era sốt ruột,
cắt ngang:
- Mình hãy kể
lại vắn tắt cho tôi nghe. Đừng có xen vào con bác, con tôi gì hết. Vậy Đavít đã
làm gì?
Ông Era vẫn một
mực vui vẻ:
- Đó mới là vấn
đề, Naomy ạ, mình có biết không, chỉ bằng vào các con số thôi mà Đavít đã khám
phá ra ở chỗ nào người bán hàng đã thay
đổi giá hàng hoá.
Bà Era chỉ nhếch
mép cười, khiến ông đâm lo. Ông hỏi bà:
- Mình ơi! Mình
hãy nói đi, mình đau ở đâu?
Bà lắc đầu, rồi
nhìn ông bằng đôi mắt u sầu và buồn bã. Bà chỉ tay vào ngực:
- Tôi cảm thấy
nặng ở đây đêm ngày.
Ông Era im lặng
nhìn bà, rồi đề nghị với bà cái điều mà đối với ông đó là cả sự hy sinh lớn
lao:
- Mình có muốn
tôi đưa mình về xứ không Naomy? Về nơi mà mình thường ao ước ấy!
Ông không dám
dùng danh từ đất Hứa vì ông không muốn về đấy chút nào.
Bà biết ông đang
nghĩ gì nên bà lắc đầu. Bà không muốn nói gì thêm nữa hết mà chỉ nói:
- Đã quá muộn
rồi!
Cuối cùng, ông
từ giã bà, nhưng với tất cả lòng rộng lượng bao dung. Ông đến gặp một mình
Đavít hôm ấy và bảo chàng:
- Con ơi! Con
hãy giúp ba làm mẹ con vui lên chút.
Đavít buông bút,
ngẩng nhìn cha:
- Thưa ba, như
ba đã biết, thật khó lòng làm cho mẹ con vui được.
Chàng trầm ngâm
một lát, đoạn chậm rãi nói, nhưng mắt vẫn nhìn xuống cuốn sổ.
- Nếu ba muốn,
con sẽ đưa mẹ con về Palestine để mẹ con được nhìn thấy quê hương xứ sở. Như
vậy, có thể mẹ con sẽ bằng lòng rồi quyết định ở lại hay về với con.
Ông Era kêu lên:
- Để ta ở lại
một mình đây sao?
Đavít khẽ cười,
một nụ cười buồn bã:
- Cả ba đi nữa,
nếu ba muốn!
- Nhưng công
việc làm sao đây?
Đavít nhún vai
không đáp. Kể từ ngày lập gia đình, chàng càng cao lớn và khoẻ mạnh hơn, đồng
thời cũng cứng rắn hơn. Chàng để râu ngắn, trông ra vẻ trưởng thành và chững
chạc.
Ông Era nói,
giọng lo lắng:
- Nhưng nếu con
không trở lại thì ba biết làm sao đây!
Đavít vẫn cặm
cụi viết. Viết xong dòng chữ, chàng lau quản bút lông lạc đà và lấy cái tháp
đồng đậy lại. Chàng nhích ghế lui đằng sau, nhìn thẳng vào mắt cha, tươi cười:
- Ba và các con
trai của con ở đây, làm sao con không trở về được!?
Chàng đã không
đề cập đến vợ chàng. Ông Era nhận thấy điều đó nhưng không nói gì.
- Chiến tranh
còn dai dẳng mãi ở Hoa Nam. - Ông lẩm bẩm. - Người Anh bất bình về vấn đề Nha
phiến. Con và mẹ con đi xuyên qua Ấn Độ, nếu có điều gì rắc rối thì thật nguy
hiểm lắm.
- Con sẽ nói cho
họ biết rằng con và mẹ con không phải là người Trung Hoa.
- Nhưng nếu họ
hỏi các người là dân nước nào và ba chắc họ sẽ không thích gì hơn nếu họ biết
rằng con và mẹ con là dân Do Thái.
Đavít không nói
gì. Ông Era đứng dậy một cách nặng nhọc. Lần đầu tiên ông cảm thấy con trai ông
không còn là một thanh niên trẻ tuổi nữa thì chính ông đã hoá già rồi.
- Con hãy nói
chuyện với mẹ con đi, rồi cùng nhau quyết định. Con và mẹ con cả hai đều bướng
bỉnh như nhau.
Đavít đã đến gặp
mẹ chàng và trình bày cho bà biết về các điều mà chàng và cha chàng đã dự tính.
Trong mấy tuần tiếp đấy, bà Era có vẻ sống động trở lại như xưa. Bà không nói
rằng bà muốn đi, nhưng bà vạch các kế hoạch cho các ý hướng ấy. Đavít thì đã
chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ có một mình ông Cao Liên là phản đối.
Ông nói với ông
Era:
-Đ ại huynh ạ,
đại nương sẽ không bao giờ có thể thực hiện được cuộc hành trình này. Ngay cả
nếu đi bằng đường biển băng sang Ấn Độ, còn có các cơn bão tố không ngừng trên
đại dương và nếu như gặp lúc cơn bão tạm yên thì còn phải trải qua biết bao
ngày dài lênh đênh trên mặt biển cả. Dân Hồi giáo đa nghi và hung bạo, tôi
không dám chắc họ có bảo toàn được tính mạng hay không?
Ông Era buồn bã
nói:
- Nhà tôi muốn
đi thì cứ để cho bà đi.
- Nhưng nếu đại
nương chết dọc đường thì đại huynh tính sao?
- Con tôi sẽ
chôn cất cho mẹ nó.
Ông Era nói vậy
nhưng lòng ông đau như cắt.
Tuy nhiên, cuộc
hành trình không bao giờ thực hiện được. Một đêm nọ, bà Era thao thức không
ngủ, bà suy nghĩ rất lung và đột nhiên thay đổi ý kiến. Nếu Đavít đưa bà đi thì
khi đến Palestine rồi, chàng sẽ quay trở về. Bà biết rõ như vậy. Trang đã đến
báo cho bà biết rằng vợ của Đavít sắp sinh đứa con thứ ba, cô ta khóc quá chừng
vì biết Đavít sắp đi xa lâu ngày.
Trang đã nói với
bà:
- Thưa bà, mợ
con cũng sắp tới ngày sinh nở, sinh xong em bé này, mợ con cần được nghỉ ngơi.
Vì vậy, con đã nói với mợ con rằng, cậu chỉ đi xa khoảng chừng một năm mà thôi.
Khi cậu con trở về thì mợ sẽ khoẻ mạnh hơn. Thưa bà, mợ con hiện đang sầu khổ,
mợ gắt gỏng hết sức. Mợ không muốn được an ủi. Con không muốn làm phiền lòng
bà, nhưng thưa bà, con nói điều này chỉ vì hạnh phúc của các cháu bà.
Bà Era khoát tay
ra hiệu cho Trang lui ra mà không nói một tiếng nào. Nhưng suốt đêm trằn trọc,
bà nhận thấy bà không nên chia rẽ Đavít và các con của chàng. Bà cũng cảm thấy
bà không muốn chết ở đâu khác ngoài nhà bà. Bà bắt đầu cảm thấy cái chết không
còn xa. Một cái hạch cứng bắt đầu kết lại trong vú bên phải; dường như những
cái vòi của nó từ đó phóng ra bọc lấy hai hông, ăn sâu vào phổi và xuyên sang
phần dưới vai. Bà cảm thấy đau nhức từ lâu, bây giờ nó cắn xé da thịt và làm
cho bà mỗi ngày một gầy g̣ò mòn mỏi.
Đắm chìm trong
bóng tối dày đặc, bà Era thở dài và từ bỏ điều bà mộng ước bấy lâu. Vả lại, ăn
thua gì? Giáo đường không còn nữa! Tại sao một bà già phải nhọc lòng lê thân về
để chết ở cố quốc trong khi không thể đưa theo con cái về?
Năm ấy, bà không
còn chịu đựng nổi con bệnh đang gặm nhấm trong người bà và sau nhiều cơn đau
đớn, bà đã trút hơi thở cuối cùng.
Ông Era tan nát
cả cõi lòng. Ông cho tổ chức tang lễ hết sức long trọng, đến nỗi người ta chưa
từng thấy một đám tang long trọng như thế bao giờ. Trong đoàn người đông đảo
đưa tiễn bà đến nơi an nghĩ cuối cùng, người ta nhận thấy tất cả các đồng bào
Do Thái của bà bận sô gai và các nhà cự phú người Trung Hoa đi xe lừa phủ vải
trắng.
Ông Era và Đavít
đi chân đất, bận tang phục màu trắng. Sau lưng hai người là Quí Lan và các con
trai của Đavít kể cả đứa bé nhất do Trang bồng trên tay. Tiếp đến là các gia
nhân trong nhà do thím Hoàng hướng dẫn. Dọc theo các đường phố, người ta tụ tập
để xem và ai nấy đều đồng ý với nhau rằng trong đời họ chưa bao giờ được nhìn
thấy một đám tang long trọng và đông đảo như vậy; chỉ thiếu một điều là không
có các hình nộm, các đồ mã như nhà, ngựa, xe v.v… để đốt theo người đã chết.
Một vài người
nói:
- Những người
này họ không tin vào các hình tượng, ngay trong giáo đường của họ cũng không có
các hình tượng nữa là.
Mọi người đều
đồng ý như thế, bởi vì bức tường phía tây của ngôi giáo đường đã sụp đổ trong
một trận gió nam. Các kẻ hiếu kỳ đã đi vào xem bên trong ngôi đền ngoại quốc mà
xưa nay họ chưa từng được vào cửa chính. Thực vậy, bên trong không có thờ một
hình tượng nào.
Đám tang chậm
rãi tiến ra ngoài thành và dừng lại ở nghĩa địa Do Thái. Bên mộ phần bà Era,
chồng bà, Đavít con trai bà, Quí Lan con dâu bà, và ngay cả Trang với đứa trẻ
đang bồng trên tay, tất cả đều khóc sướt mướt mãi cho đến khi nấm mồ đã được
đắp kín.
Như vậy, bà Era
đã được chôn cất nhưng không còn có ai để cầu cho bà một bài kinh trên nấm mộ.
oOo

