Tình sử Võ Tắc Thiên - Chương 06 - 07
Hồi 6
Võ Tắc Thiên
Võ
Hậu được tấn phong vào tháng 11 năm 655, khi bà được ba mươi tuổi.
Tên
bà được đổi là Võ Tắc Thiên. Bà mong mỏi và đã đạt được địa vị tôn quý nhất của
một người đàn bà. Nhưng tham vọng của bà không phải chỉ có vậy.
Không
ai hiểu được đàn bà trừ phi đã cưới họ làm vợ.
Cao
Tôn đã nhận ra điều đó rất sớm.
Chỉ
một tháng sau khi chính thức cưới Mị Nương, Cao Tôn đã nhìn ra bản chất của bà.
Tuy vậy, ông vẫn có cảm giác khoan khoái vì có một người giúp ông đắc lực từng
chuyện nhỏ cũng như chuyện bên ngoài. Ông nhận thấy Võ Hậu không phải chỉ là
một món đồ chơi xinh đẹp như Triệu phi. Ông bắt đầu suy nghĩ về bà Quý phi này,
cũng như về bà Hoàng hậu mà ông đã kết tội. Bỗng dưng ông cảm thấy tràn trề hối
hận. Dù sao, ông cũng không để cho Võ Hậu thấy những ý nghĩ của ông.
Một
ngày kia, Võ Hậu rời cung đi thăm vài người họ hàng. Cao Tôn bèn quyết định đi
thăm hai người đàn bà đáng thương kia. Ông đi thơ thẩn về phía lãnh cung, trong
lòng nóng nãy và có cảm giác như kẻ phạm tội.
Khi
đến nơi ông thấy lãnh cung khóa kĩ, chỉ chừa một lỗ hổng ở bên cạnh để đứa cơm
nước vào bên trong.
Thường
thường các Hoàng hậu hay Cung phi có tội đều bị giữ tại lãnh cung, nhưng đâu
đến nỗi bị nhốt giống tù như vậy.
Cao
Tôn ghé miệng gần lỗ hổng và gọi:
-
Ái hậu, ái phi! Hai khanh đâu?
Một
lát sau, giọng nói yếu ớt và buồn rầu của Triệu phi vọng ra:
-
Sao Bệ Hạ lại gọi bọn thiếp như vậy. Bọn thiếp đâu còn là Hoàng hậu hay Quý phi
nữa.
Ngừng
một chút, Triệu phi lại tiếp, giọng có vẻ cầu khẩn:
-
Xin Bệ hạ hãy vì nghĩa cũ mà tha bọn thiếp ra. Chỉ cần ra khỏi chốn này là bọn
thiếp sẽ đội ơn Bệ Hạ muôn đời.
Cao
Tôn cảm thấy bồi hồi xúc động. Ông an ủi:
-
Hai khanh đừng lo. Trẫm sẽ liệu cách.
Cao
Tôn quay về cung, tâm tư nặng trĩu. Ông cảm thấy vừa xót xa vừa hổ thẹn. Ông có
biết đâu mấy đứa tâm phúc của Võ Hậu đã theo dõi ông và báo cáo cho bà biết
ngay.
Võ
Hậu thừa rõ ông là người yếu đuối về mặt tình cảm, nên bà đã tổ chức một hệ
thống gián điệp hoạt động rất đắc lực. Tai mắt bà đặt khắp nơi để đề phòng
những chuyện bất ngờ, ví dụ như chuyện vua đến thăm Hoàng hậu ngày hôm nay, hoặc
chuyện vua lẻn đem ni cô nào đó vào cung để lật đổ bà, như bà đã từng lật đổ
Vương hậu.
Khi
Võ Hậu về tới cung, bà được báo cáo đầy đủ về cuộc viếng thăm lén lút của Vua.
Hiển
nhiên Vua hãy còn nhớ tới người cũ. Bà sẽ cho họ biết tay.
Cao
Tôn chưa kịp hỏi han gì, Võ Hậu đã chặn trước. Bà vặn hỏi vua về vụ xuống lãnh
cung thăm Hoàng hậu và Triệu phi, nhưng Vua một mực chối. Cuối cùng Võ Hậu nói:
-
Nếu Bệ Hạ không đi thăm họ thì hay lắm.
Võ
Hậu không phải người có thể chấp nhận được việc vua đoái thương đến hai người
đàn bà kia. Bà sẽ chấm dứt hành động này, không những để trả thù hai người đàn
bà xấu số đó, mà còn cảnh cáo các cung phi, mỹ nữ khác. Bà sẽ cho tất cả một
bài học. Là đàn bà, bà biết đàn bà nguy hiểm như thế nào.
Võ
Hậu ra lệnh cho thuộc hạ đánh hai người đàn bà khốn khổ mỗi người một trăm roi.
Sau đó bà cho chặt hết chân tay họ rồi ngâm trong hầm rượu.
Bà
nói:
-
Hãy cho chúng hưởng những cảm giác mê li tận xương tủy cho đến khi chúng biến
thành nước...
Vài
ngày sau, hai người đều chết vì không chịu nổi sự hành hạ.
Được
tin này, Võ Hậu chỉ mỉm cười. Nghe lời Hứa Kỉnh Tôn, Võ Hậu biếm tất cả họ hàng,
thân thích của Vương hậu và Triệu phi ra Quảng Đông, một miền đất xa xôi ở phía
Nam. Võ Hậu còn đòi Cao Tôn phải cho người đào mộ thân phụ Vương hậu (một vị
quốc công) để bằm thây.
Vua
thấy làm như vậy là quá bất nhân nhưng cũng nghe theo.
Từ
đó Võ Hậu càng ngày càng độc ác.
Thêm
vào đó, bà lại có một lối chơi chữ cay độc: Bà lấy làm thú vị khi nghĩ ra chữ
Vương vần với "hổ mang" và chữ Triệu đồng âm với "kên kên",
thế là bà xuống chỉ bắt mọi người kêu những người còn lại trong hai họ này là
bọn "hổ mang" và bọn "kên kên".
Giai
đoạn đầu của đời bà chấm dứt, đánh dấu một thành công rực rỡ trên xác chết của
hai người đàn bà khác.
Võ
Hậu có thân hình đẹp đẽ da thịt thơm tho... nhưng tất cả chỉ là nọc độc giết
người.
Cao
Tôn không khác gì con cá đớp miếng mồi ngon, đến khi cảm thấy lưỡi câu đã mắc
vào ruột mình thì có muốn nhả ra cùng không được nữa.
Cao
Tôn đau đớn và rùng mình vì những cảnh chém giết không cần thiết.
Tại
sao không để cho họ một cái chết nhẹ nhàng hơn, như tự treo cổ để khỏi đau đớn.
Ông
cảm thấy tai họa chụp xuống hai người đàn bà đó như chụp xuống cả chính ông. Trước
đó, ông không hề hay biết các hành động dã man đó. Ông tự hỏi ông là vua hay
chỉ là một đứa ăn mày? Lương tâm ông bắt đầu nổi dậy chống lại người đàn bà độc
ác, nhưng ông không nói gì. Chiến tranh lạnh bắt đầu.
Dần
dần mọi người hiểu mục đích của Võ Hậu khi bà hành động tàn bạo như vậy. Bà
muốn trong nhà phải được quét sạch sẽ, hay nói cách khác chế độ đa thê phải
chấm dứt, dù là Vua cũng vậy. Nhiều thê thiếp quá, Vua chỉ đuối sức thêm! Vậy
không cần cung phi, mỹ nữ gì nữa. Tuy nhiên, để Vua khỏi mất mặt với các Vương
hầu, bà sẽ giữ lại một số cung nữ để phụ tá Vua trong việc giữ gìn đạo đức.
Với
mục đích bảo vệ luân lí, bà đặt ra hai chức phụ tá đạo đức thay thế bốn cung
phi, và bốn chức giám sát tinh thần thay thế chín cung tần, để giúp Vua và nhắc
nhở Vua khỏi lạc bước vào cảnh mê sa tội lỗi.
Đàn
ông sinh ra có người tự nhiên đạo đức, có người bị bắt phải đạo đức. Cao Tôn ở
trong đám người thứ hai. Hành động của Võ Hậu khiến ông xa lánh mọi người, ông
sống trong cắn rứt và đau buồn. Tình yêu của ông đối với Võ Hậu đã biến thành
sự sợ hãi. Ông có cảm tưởng như mình đã lấy phải một con báo gấm. Hình ảnh con
báo này luôn luôn theo ông vào giấc ngủ và tạo nên những giác mơ hãi hùng.
Người
ta không thể yêu đương một người đàn bà mà người ta sợ hãi và chán ghét cùng
cực. Tuy chưa già (mới hai mươi tám tuổi), ông đã cảm thấy bà vợ không còn kích
thích được ông nữa. Điều này càng làm ông xấu hổ và hối hận. Ngọn lửa ham muốn
của ông đã bị Võ Hậu dập tắt. Đây là lí do mà mãi sáu năm sau Võ Hậu mới sinh
được người con thứ tư tên là Đán (ba người con trước là: Hoằng, Hiền và Triết)
và là nguyên nhân đưa đẩy Võ Hậu vào những cuộc ngoại tình liên miên.
Ngoài
ba mươi tuổi, Cao Tôn mắc bệnh thần kinh, thường nhức đầu, choáng váng và bị
một số chứng bệnh khác mà các quan Thái y không tìm ra. Tóc ông bắt đầu bạc. Tính
ông càng ngày càng nhút nhát, ông ghét việc triều chính, thường để mặc Võ Hậu
thao túng.
Điều
mong ước duy nhất của ông là hãy để ông yên.
Hồi 7
Thanh trừng những kẻ
chống đối
Võ
Tắc Thiên không phải là người chỉ thích được quần chúng coi như thần tượng, triều
thần coi như một bà Hoàng hậu lộng lẫy xinh đẹp, hay được mọi người tung hô, bái
phục như trong dịp lễ tấn phong. Thâm tâm bà mơ tới một hình ảnh cao xa hơn: Bà
muốn mình phải là một bà Hoàng thực sự. Một bà Hoàng vĩ đại. Bà say mê với ý
tưởng bà sẽ làm những việc kinh thiên động địa để cái tên Võ Tắc Thiên phải
được in đậm trong sử sách. Bà sẽ là một Võ Tắc Thiên Đại đế, vô song, xuất
chúng.
Công
việc đầu tiên và quan trọng bà phải làm là thống nhất chính quyền. Theo bà, guồng
máy chính quyền chỉ hoạt động đắc lực khi tất cả triều thần tuyệt đối nghe lời
một người duy nhất. Bà không khi nào quên được bốn kẻ đã phá rối và cản bước
tiến của bà.
Hai
tháng sau ngày lễ tấn phong Hoàng hậu, Thái tử Lý Trung (con của Vương hậu) bị
phế để Hoằng (con cả của Võ Hậu) lên thay. Hứa Kỉnh Tôn được phong làm Cấp Sự
Trung, tối tối đến Tây môn để chờ lệnh Võ Hậu. Bà tin dùng hắn vì hắn rất rành
luật lệ.
Bà
coi hắn như chiếc roi dùng để đập lên đầu các triều thần bắt họ làm việc. Đối
với bà, công việc là công việc, không thể xen tình cảm vào được.
Để
thực hiện việc thống nhất chính quyền, bà thanh trừng những kẻ chống đối.
Toại
Lương đã bị đổi đi xa, nhưng Vô Kỵ, Hàn và Lai vẫn còn trước mắt bà. Tuy Vô Kỵ
chỉ đứng bên lề cuộc chống đối và giữ yên lặng, nhưng ông là người biết quá
nhiều chuyện. Ông đã trải qua ba đời Vua: Cao Tổ, Thái Tôn và Cao Tôn. Hàn và
Lai cũng không thực sự chống đối, họ chỉ là những lão thần quá thẳng thắn và
cương nghị, không chịu theo bà ngay, nhưng bà cũng không chấp nhận được. Bà
không thích một triều đình lộn xộn, mỗi người một ý. Đã đến lúc bà củng cố thế
lực, mọi người phải ngoan ngoãn tuân theo bà.
Trong
ba người đó, Võ Hậu cảm thấy chỉ có Vô Kỵ là tay khó chơi nhất, vì ông là chỗ
nương tựa của Cao Tôn, lại là một người thế lực rất lớn. Bà quyết định sẽ không
triệt hạ ngay mà chỉ chặt hết các vây cánh của ông trước, cho đến khi ông cô
thế bà mới ra tay. Quyết định này chứng tỏ tài năng chính trị của Võ Hậu rất
dồi dào.
Hàn
là người đầu tiên gây nên cớ để Võ Hậu triệt hạ: Ông đã dám xin tội cho Toại
Lương. Việc Toại Lương bị biếm đi xa làm cho lương tâm ông không lúc nào được
yên. Sau một năm chờ đợi, ông cảm thấy đã đến lúc phải làm bổn phận của một
người bạn và nhiệm vụ của một quan đầu trào: xóa bỏ sự bất công đối với Toại
Lương.
Là
người thừa hưởng truyền thống bất khuất của đời vua trước, ông luôn luôn giữ
vững lập trường, sẵn sàng chỉ trích Vua và mất chức nếu cần.
Trong
khi tranh đấu cho Toại Lương được trở về, ông đã vào chầu và đọc một bài sớ rất
dài, nhắc nhở Vua về nguyên tắc căn bản trong việc trị vì là phải trọng dụng
các triều thần thẳng thắn, cương nghị ông nêu trong lịch sử những trường hợp
nước mất nhà tan chỉ vì sự ra đi của các bậc trung thần.
Rồi
ông kết luận: Dù Toại Lương có xúc phạm đến Bệ Hạ, y đã phải chịu hình phạt
trong suốt một năm. Cúi xin Bệ Hạ hãy tha tội cho y.
Khi
đọc sớ, có thể ông không biết là Võ Hậu đang ngồi phía sau bức màn. Hoặc ông
biết mà không cần.
Nghe
sớ xong, Cao Tôn nói:
-
Trẫm rất tôn trọng những lời của khanh vừa nêu ra. Nhưng trẫm nghĩ khanh chỉ
làm cho nội vụ thêm rắc rối. Trẫm biết Toại Lương thẳng thắn, nhung y lỗ mãng
quá sức. Trẫm trừng phạt y không phải hay sao?
Hàn
trả lời:
-
Tâu Bệ Hạ, thần lại nghĩ khác. Xây dựng một triều đại vững mạnh, công việc tiên
quyết là phải chọn lựa và trọng dụng các hiền thần. Vấn đề là Bệ Hạ muốn dùng
nhân tài hay các kẻ nô lệ. Người ta thường nói: một hạt cát có thể làm ngừng
chạy cả bộ máy. Thần e rằng có vài cá nhân đang lợi dụng sơ hở để bôi nhọ và
khai trừ các công thần, phương hại đến toàn thể triều đình.
Những
lời này công nhiên phỉ báng Võ Hậu. Bà không nói gì trong suốt buổi chầu, nhưng
sự yên lặng của bà càng đáng sợ hơn.
Số
phận của Hàn đã được quyết định.
Hẳn
chúng ta còn nhớ, vị Thái tử trước là Lý Trung bị truất vào năm mười ba tuổi vì
không có ai đỡ đầu. Trung chỉ là con một cung tần tầm thường được Vương hậu đem
về nuôi. Nay Vương hậu đã chết, Trung hết chỗ nương tựa. Võ Hậu nghĩ ra một kế.
Bà phao tin Trung muốn cướp ngôi và bịa ra một âm mưu soán nghịch. Sau đó bà
ghép những người chống đối hoặc làm vướng chân bà vào âm mưu tưởng tượng đó.
Thế
là mấy năm tiếp theo, mũi dùi chính trị tập trung vào cậu bé đáng thương mới
mười mấy tuổi đầu này. Cậu luôn luôn bị theo dõi và sống lòng phập phòng lo sợ.
Đầu
tiên Hàn và Lai bị ghép vào tội phản nghịch vì đã kết đảng với Lý Trung và mưu
đồ nổi dậy. Hàn bị đầy ra đảo Hải Nam còn Lai ra miệt Chiết Giang, tận bờ biển
phía Đông để hai người có dịp suy ngẫm về những lỗi lầm của mình.
Vì
Cao Tôn cũng đang muốn tránh mặt mấy vị đại thần đó, nên Vua rất hài lòng về
việc này.
Hứa
Kỉnh Tôn ngang nhiên làm thủ tục cho họ đi đầy không hề chứng minh tội trạng mà
Vua cũng chẳng truy vấn. Giả thử âm mưu có thật thì Lý Trung đã không thoát
khỏi Hoàng cung và hai ông đã bị đem ra xử trảm.
Hứa
Kỉnh Tôn không cần để ý đến chi tiết đó vì Võ Hậu là chỗ dựa vững chắc của hắn.
Vô hình chung, hắn được ngồi vào chiếc ghế Thị Trung của họ Hàn.
Hứa
Kỉnh Tôn chưa lấy thế làm hài lòng. Hắn điều nghiên tình hình rồi quả quyết
rằng cuộc âm mưu phản loạn đã bắt đầu phát động tại Quý Châu và do Toại Lương
cầm đầu.
Hắn
còn bảo Hàn đã cố ý đưa Toại Lương ra Quý Châu để mưu đồ hoạt động.
Lần
này Toại Lương bị đầy đi xa hơn nữa, tận Hà Nội - thuộc bán đảo Đông Dương - tách
khỏi vùng đất văn minh.
Toại
Lương bèn viết một bức thư cho Cao Tôn, kể lại chuyện Cao Tôn đã khóc ngất
trong tay ông sau khi được phong làm vua trước linh cửu của Thái Tôn. Ông tỏ ý
xin lỗi Vua về những lời xúc phạm và khẩn cầu Vua cho phép ông được trở về
Trung Hoa, nhưng không thấy trả lời. Năm sau ông mất và được chôn tại Hà Nội. Hai
người con trai của ông cũng lần lượt chết trong khoảng thời gian này.
Toại
Lương, Hàn và Lai đã bị quật ngã.
Giờ
đây chỉ còn lại mình Vô Kỵ. Ông cảm thấy điều bất thường sắp xảy ra nên ông
dành hết thì giờ để viết nên một bộ sử về hai triều đại trước. Khi hoàn tất bộ
sử gom làm mươi tập này, ông được vua ban thưởng hai ngàn cây lụa.
Rồi
việc gì phải tới đã tới...
Mùa
xuân năm 659, Hứa Kỉnh Tôn thấy đã đến lúc phải dùng mọi phương pháp để buộc
tội Vô Kỵ. Hắn lại dùng chiêu bài "Cuộc phản loạn của Lý Trung" để
hại ông.
Cơ
hội đã đến...
Vô
Kỵ có một người bạn họ Vi. Một hôm Vi bị bắt vì tội ăn hối lộ.
Hứa
Kỉnh Tôn - hiện đã là Trung Thư Lệnh kiêm Trưởng quan Đại Lý Viện - bèn bảo Vi
là nếu chịu vu cáo cho Vô Kỵ thì sẽ được tha, nhưng Vi không chịu. Sau nhiều
cuộc tra tấn dã man, Vi vẫn một mực không chịu bán bạn cầu an. Sau Vi chịu
không nổi, bèn tìm cách tự sát. Thấy Vi sắp chết. Hứa Kỉnh Tôn tâu láo là Vi đã
cung khai Vô Kỵ mới là đầu não của cuộc mưu phản, chứ không phải Toại Lương.
Được
tin này, Cao Tôn rất xúc động.
Vua
ra lệnh cho một vị quan khác là Viên Công Hữu điều tra lại. Nhưng Hữu lại chính
là vây cánh của Hứa Kỉnh Tôn nên kết quả cuộc điều tra giống hệt như lời báo
cáo của họ Hứa.
Cao
Tôn vẫn không tin:
-
Báo cáo láo! Cậu ta không bao giờ lại làm việc đó. Làm như vậy ông có lợi gì?
Hứa
Kỉnh Tôn đã sắp sẵn câu trả lời:
-
Tâu Bệ Hạ, ngày trước chính Vô Kỵ là người đề nghị lập Trung làm Thái Tử. Nay
Trung lại truất, ông cảm thấy địa vị của mình bấp bênh nên phải tính kế. Vả lại
ông là người luôn luôn chống đối Hoàng hậu, dĩ nhiên ông phải sợ mất chức, ông
mưu đồ đưa Trung lên ngôi là để bảo tồn quyền lực hiện có.
Cao
Tôn rất buồn vì bãi chức Vô Kỵ là tự chặt cánh tay phải. Vua lại do dự, không
muốn kí giấy bắt giữ Vô Kỵ.
Vua
thở dài:
-
Ta rất xấu hổ về việc này. Người trong gia đình mà phải bắt bớ nhau.
Kỉnh
Tôn nhấn mạnh thêm là phải bắt Vô Kỵ ngay vì ông có thế lực rất lớn. Biết sắp
bị bắt, ông có thể hành động liều lĩnh.
Cao
Tôn cũng cảm thấy không thể vì tình cảm riêng mà để gây họa lớn.
Tối
hôm đó, trước mặt Võ Hậu, Cao Tôn đã kí lệnh bắt Vô Kỵ và biếm ông ra đất Quý
Châu. Vô Kỵ là người góp phần vào việc tạo lập ra nhà Đường. Tên ông gắn liền
với Thái Tôn. Vì vậy Cao Tôn cho phép ông giữ nguyên phẩm tước và ra lệnh cho
các quan địa phương phải tiếp đón ông như bậc đại thần của triều đình.
Năm
sau, Hứa Kỉnh Tôn sai Viên Công Hữu ra Quý Châu buộc Vô Kỵ phải khai những đồng
lõa, nhưng Vô Kỵ không chịu. Thấy đã hết chỗ dung thân, ông tự treo cổ.
Thế
là bản cung khai của ông được gởi về triều. Dĩ nhiên đây chỉ là một bản cung
khai giả mạo đã được viết ra lúc Hữu chưa đi Quý Châu.
Hữu
còn có nhiệm vụ ra đảo Hải Nam để kiếm họ Hàn và ép ông tự sát. Nhưng khi y tới
nơi, Hàn đã chết. Y bắt phải mở áo quan để y kiểm soát.
Gia
đình Vô Kỵ và Hàn bị đuổi ra Quảng Đông để làm nô lệ.
Lúc
đó Hoàng tử Lý Trung được mười tám tuổi. Chàng rất buồn khi thấy tên mình luôn
luôn gắn liền với một âm mưu tưởng tượng, đã làm hại không biết bao nhiêu người.
Chàng bị bắt và giáng xuống làm thứ dân, rồi bị đầy đi Quý Châu, nơi Vô Kỵ đã
thở hơi cuối.
Sau
khi chứng kiến những sự thật thê thảm, chàng luôn luôn sống trong lo âu. Chàng
thường ăn mặc giả gái và thay đổi chỗ ngủ để tránh các cuộc ám sát có thể xảy
ra. Nỗi lo âu càng ngày càng đè nặng tâm thần chàng khiến nhiều đêm chàng vùng
dậy và bỏ chạy vì những giấc mơ hãi hùng.
Chàng
thường nhờ thầy bói giải thích những điềm mộng mị để biết mà đề phòng. Chàng
càng ngày càng tiều tụy, cô độc...
Tuy
nhiên, Võ Hậu vẫn không đả động đến chàng vì thấy chàng còn có thể dùng được
việc.
Trong
vòng năm năm, kể từ khi Võ Mị Nương lên ngôi Hoàng hậu, bốn đối thủ của bà đều
đã bi triệt hạ: Toại Lương, Vô Kỵ, Hàn và Lai. Riêng ông Lai không phải do Võ
Hậu giết, nhưng vì thất vọng và phẫn uất, ông đã liều lĩnh xông pha ngoài mặt
trận và bị giết. Giờ đây Võ Hậu tự do thao túng triều đình. Mọi việc đều theo
đúng ý bà.