Tâm Lý Học Xã Hội - Chương 06 - Phần 1
PHẦN SÁU: SỰ TUÂN
THỦ
SỰ TUÂN THỦ PHÒNG VỆ[1]
[1] Defensive Conformity
Tuân thủ thực sự là một khái niệm khá phức
tạp, có nhiều loại tuân thủ khác nhau:
1. Tuân thủ với
các chuẩn mực[2] chúng ta đã thảo luận trước đây thường là hoàn toàn vô thức.
Nó có thể được tiếp nhận (được học tốt) khi còn thơ ấu. Chúng ta hiếm khi nghi
ngờ những chuẩn mực xã hội[3]; đúng hơn chúng ta coi đó là những chuẩn mực được định sẵn,
giống như "mọi thứ vốn là như vậy." Nhận thức này được ủng hộ trong
suốt cuộc đời bởi "tính hiệu lực" của chuẩn mực - nó là chuẩn mực có
nghĩa là nó hoạt động bởi vì tính hiệu lực.
[2] the norms
[3] social norms
2. Nhưng đôi khi chúng ta lựa chọn tuân
theo một cách có ý thức, đó là khi chúng ta tự nguyện tham gia một nhóm. Chúng
ta chấp nhận những chuẩn mực nhất định bởi vì nhóm này hấp dẫn chúng ta, chúng
ta hòa mình trong nhóm và trong các giá trị hay mục tiêu của nhóm. Ở những hình
thức mang tính cường điệu hơn, thì điều này được gọi là sự chuyển đổi[4].
[4] conversion
3. Trong các trường hợp khác, chúng ta tuân
theo bởi chúng ta bị bắt buộc, tức là chúng ta có ý thức về sự tuân theo của
mình nhưng dường như có rất ít sự tự nguyện trong đó. Điều này thường được gọi
là sự phục tùng[5], và nó có thể do bất cứ thứ gì gây ra từ một khẩu súng dí
vào đầu đến một lời hứa sẽ nhận được viên kẹo. Nói cách khác, nó là sự tuân
theo do chế tài của xã hội hay của nhóm.
[5] compliance
4. Nhưng hầu hết những gì chúng ta gọi là
sự tuân thủ trong tài liệu nghiên cứu liên quan tới "điều gì đó có ý
thức" và "không hoàn toàn tự nguyện." Lo lắng xã hội thường dẫn
tới điều này - lo sợ ngượng ngùng, không thoải mái với sự xáo trộn, ý thức về
sự yếu kém hơn, ước mơ được yêu mến... Tôi nghĩ điều này nên được gọi là sự
tuân thủ phòng vệ.
Solomon Asch và sinh viên của ông thực hiện
nghiên cứu cơ bản về dạng tuân thủ này:
Thử tưởng tượng rằng bạn tự nguyện tham gia
một thử nghiệm tâm lý, và bạn có mặt trong phòng thí nghiệm vào thời gian đã
hứa. Trong phòng có một cái bàn và bốn cái ghế xung quanh, có ba sinh viên khác
đã ngồi vào ba chiếc ghế. Vì vậy bạn ngồi vào chiếc ghế cuối cùng và tự chuẩn
bị cho một dạng thử nghiệm tâm lý kỳ lạ. Cuối cùng, người thử nghiệm bước vào
đem theo hai chồng bài cát tông lớn. Anh ta tự giới thiệu, cám ơn bạn về sự tự
nguyện và bắt đầu giải thích: Một bộ bài, được thể hiện bởi quân bài trên cùng,
có ba vạch riêng biệt, mỗi vạch có chiều dài khác nhau. Một bộ bài khác có một
vạch riêng biệt. Công việc này được gọi là "đánh giá chiều dài vạch"
và trông có vẻ rất dễ: Thậm chí từ một khoảng cách xa, vạch nằm giữa ba vạch
này kết hợp với một vạch đơn rất rõ ràng.
Nào chúng ta hãy bắt đầu. Người thử nghiệm
chỉ vào sinh viên thứ nhất. Anh ta nhìn vào các vạch này, một chút ấp úng... và
lựa chọn cách kết hợp sai! Ồ mới chỉ là một người trong số đông. Người thử
nghiệm gật đầu có vẻ tin tưởng vào bản thân! Anh ta chỉ vào người tình nguyện
thứ hai, anh này cũng ấp úng... và lựa chọn vạch không đúng! Bây giờ bạn bắt
đầu cảm thấy không được thoải mái. Người thử nghiệm chỉ vào người thứ ba - đây
là cơ hội cuối cùng của cậu - và anh ta cũng lựa chọn câu trả lời hoàn toàn
sai. Bây giờ đến lượt bạn. Là một người chính trực, bạn đưa ra câu trả lời đúng
- lúc này, toàn bộ ba người tình nguyện và người thử nghiệm nhìn bạn như thể
bạn là người ngoài hành tinh.
Người thử nghiệm đưa xem quân bài thứ hai
của mỗi nhóm, và bắt đầu lại. Những sinh viên lại bắt đầu đưa ra những câu trả
lời bạn thấy rõ ràng là sai. Nhưng lúc này, khi đến lượt bạn, bạn sẽ làm gì?
Thậm chí trong hoàn cảnh xã hội không bị đe dọa chút nào, 35% thời gian những
đối tượng trong thử nghiệm này đưa ra những phản ứng hoàn toàn sai. Đúng là 10%
đối tượng không bao giờ thích ứng; thật không may 10% khác thích ứng ở mọi thời
điểm hay ở toàn bộ những lần thử nghiệm đầu tiên. Và, mặc dù mỗi người trong số
chúng ta hoàn toàn tin rằng ta là một phần trong số 10% đầu tiên - người cùng
trong nhóm người theo chủ nghĩa cá nhân thiếu tế nhị - nhưng thực tế đó chỉ là
những gì mọi người nghĩ. Bạn không biết bạn sẽ cư xử thế nào cho đến khi bạn ở
đó!
(Chú ý: ba đối tượng đầu thường là những
người đồng mưu với người thí nghiệm - thường là sinh viên cao học.)
Asch và sinh viên của ông đã thực hiện
nhiều thay đổi trong nghiên cứu này để tìm ra những biến đổi có ảnh hưởng quan
trọng tới lượng phù hợp:
1. Sự khó khăn hay không rõ ràng của công
việc[6]. Ví dụ, chúng ta có thể làm cho sự khác biệt giữa chiều
dài các vạch ngắn hơn nhiều và do vậy câu trả lời đúng chắc chắn sẽ ít hơn. Bạn
có thể đoán, sự phù hợp tăng theo các trường hợp đó. Một thử nghiệm tương tự được
Shaw sử dụng để tính những tiếng lách cách trong máy đếm nhịp. Ông nhận thấy rằng
máy nhịp càng nhanh thì sự phù hợp càng tăng.
[6] The difficulty or ambiguity of the task
Điều đang diễn ra là chúng ta cần ngày càng
nhiều sự cống hiến của nhóm khi công việc trở nên khó khăn hơn. Nếu trong tình
huống ban đầu, chúng ta tuân theo bởi vì chúng ta không muốn rắc rối, thì trong
tình huống không rõ ràng chúng ta cũng "tuân theo" bởi chúng ta ít
chắc chắn về bản thân và những người khác chính là nguồn thông tin. Một vài
người gọi điều này là sự thay đổi từ những áp lực mang tính quy chuẩn để tuân
thủ sang những áp lực thông tin để tuân thủ.
Mặc dù, có thể sẽ là tốt hơn nếu coi nó
giống như sự chồng chéo giữa hai quá trình khác nhau: Một mặt, chúng ta cho
biết nhu cầu của mình để người khác chấp nhận (và những nhu cầu xã hội khác);
mặt khác, chúng ta nói nhu cầu của mình để nhận thức đúng về những gì đang tiếp
diễn xung quanh chúng ta.
2. Khả năng nhận thức tương đối của đối tượng
và của nhóm[7]. Trong một nghiên cứu, họ để các đối tượng thực hiện nhiệm
vụ đánh giá vạch, đầu tiên tiến hành một mình, và họ nhận được phản hồi về việc
họ làm tốt ở mức độ nào: "Bạn làm thực sự tốt" hay "Ở thử nghiệm
này bạn làm không tốt lắm!". Tuy nhiên, phản hồi là ngẫu nhiên, tức là
không có liên quan với kết quả thí nghiệm. Nói cách khác, người thí nghiệm tác
động vào lòng tự trọng của mọi người.
[7] The relative perceived competence of the subject and the
group
Sau đó, đối tượng được đặt vào thí nghiệm
của Asch. Nếu người ta cho họ biết họ làm tốt - nghĩa là cảm thấy có năng lực -
họ ít tuân thủ hơn. Nếu người ta cho họ biết họ làm không tốt - tức là cảm thấy
không có năng lực - họ tuân theo nhiều hơn. Chú ý rằng điều này cũng liên quan
tới mức độ đánh giá nhu cầu thông tin: Nếu bạn không thành thạo ở một việc nào
đấy, bạn sẽ quay sang nhờ người khác hướng dẫn.
Bạn cũng có thể kích thích khả năng nhận
thức của nhóm: Tưởng tượng rằng bạn đang trải qua tình huống của Asch với ba
anh chàng đeo kính rất dày, ngồi thẳng, liếc mắt hung hăng... Nếu bạn tin họ
thiếu khả năng (ở nhiệm vụ này) bạn sẽ ít tuân theo họ hơn. Hay chúng ta có thể
làm ngược lại: Tưởng tượng ở đó với ba sinh viên kiến trúc, tất nhiên những
người này khá giỏi về các đường kẻ...
3. Vị thế nhận thức tương đối của nhóm và của
đối tượng[8]. Nếu ảnh hưởng của nhận thức liên quan tới nhu cầu thông
tin hợp lý, thì ảnh hưởng của tác động của vị thế sẽ ít hợp lý hơn nhiều, và nó
đưa ra một ví dụ rõ ràng hơn về sự tuân thủ "phòng vệ". Nếu chúng ta
bị thuyết phục rằng nhóm này có một vị thế nhận thức cao hơn (trong mắt chúng
ta), chúng ta tuân theo nhiều hơn. Nếu chúng ta bị thuyết phục rằng họ đang ở vị
thế thấp hơn thì chúng ta tuân theo ít hơn.
[8] Relative perceived status of the group and the subject
Điều này cũng đúng
đối với sự tuân thủ nhóm của các cá nhân: nếu chúng ta nhận thấy một người có vị
thế cao băng qua đường không tuân theo tín hiệu dừng đi, chúng ta có khả năng
theo anh ta nhiều hơn là khi chúng ta nhìn thấy một người có vị thế thấp làm điều
đó. Thậm chí điều này còn đúng hơn khi vị thế được kết hợp với năng lực: Ai là
người tốt hơn để đi theo trong hệ thống giao thông ở New York, một uỷ viên trẻ
nhanh nhẹn hay một kẻ vô công rồi nghề bốc mùi rượu?[9]
[9] TQ hiệu đính: điều này liên quan tới câu "thượng bất
chính, hạ tất lọan". Khi chúng ta thấy một người có địa vị làm sai điều
gì, chúng ta có khuynh hướng làm sai theo. Và ngược lại, nếu chúng ta thấy
người vô công rỗi nghề làm sai điều gì, thì chưa chắc chúng ta làm theo.
4. Đoàn kết nhóm[10]. Nếu nhóm này gồm những người bạn thì chúng ta tuân theo
nhiều hơn. Mặc dù theo cách của mình, trong một nhóm toàn bạn bè, tự do
"làm chúng ta", mong muốn để làm 1 nhóm đoàn kết là một phần khiến chúng ta là bạn bè!
[10] Group cohesiveness
Nhưng chúng ta không cần chỉ nhìn vào xu
hướng tuân theo của chúng ta về nhóm mình mà chúng ta cũng tuân theo những nhóm
chúng ta mong muốn được là thành viên - nhóm liên quan đến mình. Đối tượng bị
hấp dẫn bởi nhóm càng nhiều, sự tuân thủ càng tăng. Ví dụ, hãy hình dung một
nam sinh cam kết với một nhóm anh em trai trong hội.
Có lẽ yếu tố quan
trọng nhất của nhóm đoàn kết là chia sẽ các mục tiêu. Khi nhóm có một mục tiêu
chung, sự tuân thủ sẽ nhiều hơn. Trong một thử nghiệm, người ta nói với các đối
tượng rằng nhóm có câu trả lời chính xác nhất sẽ nhận được những tấm vé xem kịch
họ đang mong ước. Bạn nghĩ rằng tất cả mọi người sẽ cố gắng cao nhất để đưa ra
những dự đoán chính xác của mình, thậm chí nếu phần còn lại của nhóm có vẻ
không đồng ý. Nhưng thay vào đó chúng ta lại nhận ra sự tuân theo hơn bất kỳ
lúc nào. Không ai muốn "đứng ngoài" khi những điều có giá trị đang bị
đe dọa. Giống như người Nhật nói, cái đinh ló ra dễ bị búa đóng vào![11]
[11] TQ hiệu đính: hiểu biết điều này rất là quan trọng trong
việc thiết lập 1 cơ quan hay chính thể. Người cùng nhóm không thích làm kẻ
"ngoại cuộc". Nghĩa là, họ không thích chỉ trích nhau.
5. Thành phần nhóm[12]. Nếu đối tượng nghĩ rằng nhóm gồm nhiều loại người khác
nhau, anh ta hay cô ta cũng sẽ tuân thủ hơn. Nếu tất cả họ giống nhau, và tất cả
họ đều mắc phải cùng một lỗi ngớ ngẩn tất nhiên bạn sẽ cho rằng phải có điều gì
đó đối với nhóm. (Bạn có nhớ sự quy kết?)
[12] Group composition
Nhưng nếu bạn là một sinh viên, bên cạnh
bạn là chủ ngân hàng, ở phía bên kia là người nội trợ, và phía cuối là anh thợ
nề - vậy thì cái gì là điểm chung của họ khiến họ cư xử một cách hòa đồng. Bạn
chính là người có nhận định sai lầm và bởi vậy bạn tuân theo và hòa đồng với
họ.
6. Số lượng thành
viên trong nhóm[13]. Sự biến đổi dễ dàng nghiên cứu nhất là số thành viên
trong nhóm, nhưng kết quả lại đơn giản một cách đáng thất vọng. Sự tuân thủ sẽ
cao với 3 hay 4 người; tuân thủ cao hơn với 6 hay 7 người; sự tuân thủ dừng lại
ở mức 15 hay 16 người. Rõ ràng, áp lực xã hội trong tình huống của Asch không
tăng theo tuyến tính với số lượng thành viên trong nhóm.
[13] Group size
Tuy nhiên, so sánh với những ảnh hưởng về
hành vi của nhóm lớn (hành vi của quần chúng.) thì nếu bạn xem phim về những
cuộc mít-tinh khổng lồ của Hítle, sự mộ đạo tôn giáo quy mô, hay một trận bóng
đá, bạn biết rằng hành vi xúc cảm rất dễ lây truyền trong đám đông lớn. Có một
điều gì đó trong đám đông khiến người ta không còn ý thức hay thậm chí mất nhân
cách: Bạn không còn ý thức về cá nhân và để quần chúng mang bạn đi.
7. Sự nhất trí
trong nhóm[14]. Có lẽ sự nhất trí trong nhóm là thứ có khả năng thay đổi
mạnh nhất trong nghiên cứu của Asch. Trong những nghiên cứu đầu tiên, các đối
tượng luôn luôn nhất trí đồng lòng. Tất cả điều bạn muốn là một người không
tuân thủ theo những người khác và câu bùa chú bị phá bỏ. Bạn có thể cảm thấy tự
do đi lệch hướng. Thậm chí điều này đúng khi một đối tượng ngỗ nghịch vẫn đưa
ra câu trả lời sai để hòa đồng với nhóm!
[14] Group unanimity
Đây là một điểm rất quan trọng. Hầu hết mọi
xã hội đều hà khắc với những người bất tuân thủ bởi vì sự bất tuân thủ đe dọa sự
ổn định của cấu trúc xã hội. Nếu người bất tuân thủ biểu lộ sự bất tuân thủ của
anh ta mà chịu các hình phạt thì những người khác sẽ làm theo. Do đó
"trách nhiệm" của xã hội là phải đảm bảo có hình phạt! Nhớ rằng, đây
có thể là một điều tốt hay điều xấu, nó phụ thuộc vào xã hội và bản chất của sự
bất tuân thủ.
Đa dạng văn hóa
1. Dân tộc. Khi chúng ta so sánh giữa người
Na-uy và người Pháp về khuynh hướng tuân thủ, chúng ta nhận thấy rằng người
Na-uy tuân thủ hơn người Pháp. Điều này không có gì ngạc nhiên đối với những
người đã quen thuộc với hai nền văn hóa này: Người Na-uy nhấn mạnh vào trách
nhiệm xã hội truyền (kể từ thời Viking!); Người Pháp có truyền thống xa xưa về
chủ nghĩa cá nhân mang màu sắc đặc biệt. (Thật buồn cười nếu bạn muốn chọn gây
chiến với một người Pháp, hãy chọn đề tài!)
2. Sự ghét bỏ. Văn hóa Nhật Bản, giống với
văn hóa Na-uy, nó có xu hứng nhấn mạnh vào truyền thống, sự hợp tác, trách
nhiệm, và giống người Na Uy, người Nhật có xu hướng tuân thủ nhiều hơn người
Mỹ. Nhưng khi so sánh sinh viên đại học Nhật Bản với sinh viên đại học ở Mỹ,
người ta nhận thấy rằng họ tuân thủ ít hơn! Thực tế, họ có xu hướng chống lại
sự tuân thủ, tức là có xu hướng đưa ra câu trả lời sai khi nhóm đưa ra các câu
trả lời đúng (chúng ta có thể nói, thật là chảnh).
Đây là ảnh hưởng của sự ghét bỏ. Sinh viên
Nhật dường như cảm thấy mất mát chút ít, không còn là một phần trong văn hóa truyền
thống Nhật Bản, nhưng cũng không phải là phần đích thực của văn hóa phương Tây,
mà nền văn hóa này chi phối cuộc sống đại học và các nghiên cứu. Chúng ta thấy
ảnh hưởng tương tự này gần hơn trong gia đình vào thập kỷ 60 thế kỷ 20 với
phong trào híp-pi: phần lớn các sinh viên ở tầng lớp trung lưu cảm thấy không
còn là một phần văn hóa vượt trội, hướng tới thành công ở xung quanh họ, và
thường xác định bản thân, không phải trên khía cạnh "điều đó chính là
tôi" mà là ở khía cạnh "Tôi không phải là bạn," tức là chống lại
sự tuân thủ.
3. Vị thế được chỉ định. Vị thế được chỉ
định là vị thế gắn với bạn khi sinh ra, vị thế xã hội chỉ định cho bạn, không
liên quan gì tới mong muốn và khả năng của bạn. Vị thế thấp được chỉ định cho
người da đen, phụ nữ và những nhóm sắc tộc khác nhau, là những ví dụ rõ ràng
cho vấn đề này.
Trong những năm 50, người ta nhận thấy
rằng, mặc dù không có sự khác biệt nào giữa người da trắng và người da đen về
xu hướng tuân thủ nói chung, nhưng cả trẻ em da trắng và da đen đều tuân thủ
hơn khi đa số trong nhóm của của chúng là da trắng chứ không phải là da đen.
Trở lại những điều chúng ta đã xem xét: vị thế nhận thức tương đối và khả năng
nhận thức tương đối, ý thức về lòng tự trọng thấp hơn thường đi kèm với vị thế
chỉ định thấp.
4. Sự khác biệt về giới. Trong những năm 50
và 60, nghiên cứu chỉ ra rằng hầu hết phụ nữ tuân thủ hơn đàn ông. Các nhà tâm
lý học xã hội - nhất là những người đàn ông - say xưa với điều này. Nhưng
Sistrunk và McDavid (1971) đã xem lại nghiên cứu này và chú ý tới một điều đặc
biệt: Tất cả các nhà nghiên cứu viên đều là đàn ông!
Sistrunk và McDavid bắt đầu với 100 lời
phát biểu về quan điểm và thực tế, ví dụ "Xe Fords tốt hơn xe
Chevies," "bánh ngọt dễ làm hơn bánh nướng," và "trái đất
chuyển động quanh mặt trời." Sau đó họ yêu cầu 53 người đánh giá câu nói
nào "có nam tính" (thí dụ "xe Fords..."), hay "nữ
tính" (thí dụ "bánh ngọt.."), hay "trung lập"
("trái đất..."). Sau đó, với bất kỳ câu nói nào 80% số người đồng ý
được đưa vào trong một bảng hỏi. Và với mỗi câu, họ kèm theo một "câu trả
lời của đa số" giả tạo (ngẫu nhiên) thí dụ "Hầu hết người Mỹ đồng
ý."
Sau đó, họ đưa bảng hỏi cho 270 đối tượng
nam và nữ. Dưới đây là kết quả: (Những người đại diện cho "xu hướng tuân
thủ;" không lo lắng về con số tuyệt đối - họ nhìn vào sự khác biệt và
tương đồng.)
Mục Nam tính Mục
Nữ tính Mục Trung lập Trung bình cộng
Nam giới 34.15 43.05 39.65
38.95
Nữ giới 42.75 34.55 39.10
38.80
Điều mà các con số này thể hiện là trong
văn hóa của chúng ta, phụ nữ là người khá tuân thủ khi vấn đề có liên quan đến
thể thao, xe hơi hay những lĩnh vực mà họ không biết nhiều hoặc không quan tâm
nhiều; và đàn ông là người tuân thủ trong những lĩnh vực liên quan đến nấu
nướng, thời trang hay lĩnh vực họ hoặc không biết hoặc không quan tâm. Nói cách
khác, sự tuân thủ của hai giới là như nhau. Kết quả đưa ra lúc ban đầu do một thực
tế là đàn ông xây dựng nghiên cứu sử dụng những câu nói họ cho là hấp dẫn - tức
là những câu hỏi cho đàn ông!
SỰ PHỤC TÙNG[15]
[15] Obedience
Sự phục tùng là một hiện tượng rất giống
với sự tuân thủ. Phục tùng có thể được phân biệt với tuân thủ ở chỗ phục tùng
nhấn mạnh vào tác động của tính hợp pháp (ngược lại các áp lực xã hội khác), và
bởi thực tế rằng nó thường liên quan tới một cá nhân riêng lẻ - người nắm
quyền.
Nghiên cứu nổi tiếng nhất liên quan tới sự
phục tùng là của Stanley Milgram. Hãy tưởng tượng bản thân bạn đang ở trong
tình huống này: Bạn tự nguyện tham gia vào một thử nghiệm tâm lý học, vì vậy
bạn nhận đứng trong văn phòng của tiến sĩ Milgram vào một buổi tối. Một sinh
viên khác đã ở đó với tiến sĩ Milgram. Tiến sĩ Milgram cám ơn hai bạn về sự tự
nguyện và giải thích rằng đây là nghiên cứu về ảnh hưởng của sự trừng phạt đối
với việc học tập. Một người trong số hai bạn sẽ là giáo viên và người kia là
học sinh. Để quyết định điều này, ông ta yêu cầu mỗi bạn chọn một mảnh giấy nhỏ
trong một chiếc mũ: Miếng giấy của bạn ghi giáo viên, và của người tình nguyện
kia ghi học sinh.
Bạn và tiến sĩ Milgram đưa học sinh vào một
phòng nhỏ cạnh cửa, bạn giúp đỡ vị tiến sĩ tài giỏi này buộc học sinh vào một
thứ giống như chiếu ghế điện. Sau đó, bạn gián điện cực vào các phần khác nhau
trên cơ thể anh ta.
Bạn và tiến sĩ Milgram trở lại phòng làm
việc của ông ta, ông ta đặt bạn trước micro, loa, và một thứ trông khá nguy
hiểm, đó là một cỗ máy điện tử với 30 nút tắt bật nằm thành một hàng dọc theo
phần dưới đằng trước, được ghi từ 30 vol đến 450 vol (Những nút gần cuối có ghi
ở trên là "Nguy hiểm: điện áp cao!")
Bạn chuẩn bị đọc một danh sách các những
chữ không có nghĩa vào micro cho học sinh ở phòng bên cạnh nghe và anh ta phải
nhắc lại chúng theo một trật tự đúng như bạn đã nói. Nếu anh ta nhắc sai, bạn
kéo công tắc thứ nhất. Sau đó, công tắc này sẽ bị khóa lại, yêu cầu bạn phải sử
dụng điện áp cao hơn tiếp theo nếu anh ta mắc sai lầm lần sau.
Nếu bạn đọc danh sách, và tất nhiên, học
sinh lại mắc một vài lỗi, bạn kéo công tắc thứ nhất. Bạn đọc lại danh sách,
nhưng anh ta lại mắc lỗi, vì vậy bạn kéo công tắc tiếp theo. Khi bạn chuyển lên
công tắc này, học sinh bắt đầu càu nhàu. Ở 75 vol, anh ta than vãn chút ít. Ở
150 vol, anh ta van xin từ bỏ thí nghiệm. Có lẽ, bạn quay sang tiến sĩ Milgram,
ông ngồi cạnh bạn và đang chữa bài kiểm tra, bạn hỏi ông ta đã đồng ý dừng lại
hay chưa. Ông ta giải thích rằng cả hai bạn đã tình nguyện làm thử nghiệm và
ông ta mong cả hai bạn hoàn thành thử nghiệm này.
Ở 180 vol, người học sinh la hét rằng anh
ta không thể chịu đựng được sự đau đớn này. Bạn đang dao động và đổ mồ hôi hột.
Ở 300 vol, bạn giật công tắc và bắt đầu nghe thấy tiếng thét khác phát ra từ cổ
họng người học sinh, nhưng nó bị nghẹn lại. Khi bạn đọc lại cho anh ta nghe
danh sách, thậm chí anh ta không còn cố gắng phản ứng. Anh ta bất tỉnh! Có lẽ,
thậm chí anh ta đã chết! Bạn quay sang tiến sĩ Milgram để xin chỉ dẫn, và ông
ta nói với bạn: "Không phản ứng là một cách trả lời sai lầm. Đừng lo lắng:
Sẽ không có sự phá huỷ thần kinh lâu dài. Hãy tiếp tục."
Bạn tiếp tục gây sốc cho người tình nguyện
tới điện áp cao nhất 450 volts, tất nhiên không có ý thức, toàn bộ điều này là
một sự thiết lập mà người học sinh là sự liên minh với tiến sĩ Milgram!
Trước khi Milgram làm thử nghiệm này, ông
ta hỏi một vài ý kiến của các nhà tâm thần học có bao nhiêu phần trăm số người
có thể chịu đựng đến cùng. Các nhà tâm thần học (chúng ta nghĩ họ biết về hành
vi điên rồ này) cho rằng hầu hết mọi người chịu đựng được đến 150 vol (khi học
sinh yêu cầu chấm dứt thử nghiệm), chỉ có 4 % có thể chịu đựng được tới điện áp
300 vol, và chỉ có 1% chịu đựng được điện áp 450 vol.
Trong nghiên cứu Milgram thì 62% đi đến hết
cuộc thử nghiệm với điện áp lên đến 450 vol.
Đây là điều gây ngạc nhiên (không có ý định
chơi chữ) đối với cộng đồng các nhà tâm lý học (kết quả cao hơn mong đợi!). Thử
nghiệm này được thôi thúc thực hiện nhờ những thử nghiệm của Nurenburg, trong
thử nghiệm của Nurenburg những si quan Nazi thường cam kết rằng họ chỉ tuân
theo mệnh lệnh. Mọi người cho rằng những hành động hung bạo do những sĩ quan
này gây ra là kết quả của nhân cách bị bóp méo được nền văn hóa bóp méo khuyến
khích, rằng những người Mỹ gan dạ sẽ không bao giờ dính dáng đến cách cư xử
kiểu như vậy. Sau cùng, chúng ta là những người theo chủ nghĩa cá nhân. Nghiên
cứu của Milgram đã chỉ ra một cách hơi đột ngột rằng chúng ta không phải vậy.
Tất nhiên, các kiến thức về lịch sử đã
khiến những nghiên cứu của Milgram trở nên không cần thiết: Sự phục tùng quyền
lực và những hành động hung bạo thường đi cùng với nhau, nó là một phần trong
sự tồn tại của con người, cứ quay trở về lịch sử ta sẽ thấy điều này. Cách đây
không lâu, chúng ta có ví dụ về Nazi. Gần đây hơn, chúng ta có ví dụ về Amin ở
Uganda và Pol Pot ở Cam-pu-chia, và sự "thanh lọc sắc tộc" ở Bosnia.
Và thậm chí những người Mỹ gan dạ chúng ta vẫn còn nhớ cuộc thảm sát ở Mỹ Lai,
Việt Nam, đấy là còn chưa đề cập đến sự đối đãi nhận được từ người Mỹ bản địa,
người Mỹ gốc Phi, người nhập cư và những lao động trong hơn hai thế kỷ tồn tại
của chúng ta.
62 % là con số khó
tin. Nhưng có thể đó là do nói quá lên. Vậy hãy chỉ nói 10% thôi. Dân số của
chúng ta là 250 triệu người. 10% của số đó là 25 triệu, 25 triệu người sẽ tuân
theo lệnh làm tổn hại hay giết người khác.
(TQ hiệu đính: đây là 1 tiêu đề rất quan trọng, cho
nên tôi xin phép được nói rộng thêm. Xã hội Mỹ tự hào về sự tự do cá nhân,
nhưng nghiên cứu của Tiến Sĩ Milgram chỉ ra rằng 62% số người Mỹ có khuynh
hướng phục tùng. Và dù con số đó không chính xác, hay giả như con số chính xác
là 10%, thì nó có nghĩa rằng, khi chính phủ Mỹ ra một quyết định gì đó (bất
luận đúng hay sai) thì có ít nhất 25 triệu người Mỹ sẽ thi hành. Và nếu quyết
định của chính phủ Mỹ là sai và tàn ác, thì nó có nghĩa rằng 25 triệu người thi
hành điều ác. Và hãy áp dụng thống kê này vào nước khác, như Trung Quốc. Nếu
chính phủ Trung Quốc ra một quyết định sai lầm, thì có ít nhất là 100 triệu
người Trung Quốc thi hành chính xách sai lầm.)