Tâm lý học căn bản - Chương 13 - Phần 2
a. Các liệu pháp theo quan điểm tạo điều kiện hạn chế.
Giả sử bạn cắn một thỏi kẹo hằng ưa thích rồi mới biết rằng nó đã bị lũ
kiến đục khoét và bạn đã lỡ nuốt một số kiến vào bụng. Lập tức bạn cảm thấy dạ
dày khó chịu rồi nôn thốc ra. Còn phản ứng lâu dài của bạn ra sao? Bạn sẽ không
bao giờ thích ăn thứ kẹo ấy nữa, thực tế đến nhiều tháng sau bạn mới ăn được
thứ kẹo ấy.
Thí dụ đơn giản này ám chỉ cách thức vận dụng tiến trình tạo điều kiện hạn
chế để cải sửa hành vi ứng xử. Hãy nhớ lại thảo luận của chúng ta ở chương 5,
khi một kích thích tự nhiên khêu gợi một phản ứng bực mình (như một thức ăn
hoặc một luồng hơi thổi vào mặt có mùi vị khó chịu chẳng hạn) cặp đôi xảy ra
với một kích thích trung tính trước đó (như tiếng chuông reo chẳng hạn), và sau
nhiều lần diễn ra sự kiện này thì bản thân kích thích trung tính ấy cũng gây ra
phản ứng bực mình tương tự. Vận dụng tiến trình do lvan Pavlov khám phá đầu
tiên này, chúng ta có thể tạo ra các phản ứng khó chịu đối với các kích thích
người bệnh từng ưa thích trước đây có lẽ ưa thích quá đáng. Kỹ thuật này, gọi
là tạo điều kiện ác cảm (aversive conditioning), đã được sử dụng để chữa trị
các trường hợp nghiện rượu, nghiện thuốc lá, và lạm dụng thuốc.
Biện pháp căn bản trong kỹ thuật tạo điều kiện ác cảm khá trực tiếp. Thí
dụ, một cá nhân nghiện rượu có thể được cho uống rượu chung với một lại thuốc
gây nôn mửa dữ dội. Sau vài lần ghép đôi như thế, chỉ nhìn thấy rượu là người
ấy liên tưởng đến tình trạng nôn mửa và rượu sẽ không còn lôi cuốn anh ta nữa.
Trên thực tế, mùi rượu phảng phất cũng khiến người ta nảy sinh phản ứng ác cảm
rồi.
* Liệu pháp gây ác cảm (aversion therapy): một dạng trong
liệu pháp cư xử (behavioral therapy) dùng làm giảm đi các lối cư xử không mong
muốn, như lệch lạc tình dục hay nghiện thuốc. Thường dùng kỹ thuật tạo điều
kiện bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần cặp đôi kích thích khó chịu với loại
kích thích liên hệ đến lối cư xử không mong muốn. Thí dụ ghép đôi mùi rượu bia
với cú giật điện trong điều trị chứng nghiện rượu (theo Từ điển Y học).
Mặc dù liệu pháp gây ác cảm khá hiệu nghiệm trong việc chữa trị các trường
hợp lạm dụng các loại hóa chất như chứng nghiện rượu và một vài loại lệch lạc
tình dục, nhưng công hiệu lâu dài của nó vẫn còn là điều nghi ngờ. Hơn nữa, các
kỹ thuật gây ác cảm vấp phải một số nhược điểm quan trọng về mặt đạo đức, bởi
vì chúng sử dụng các loại kích thích mạnh mẽ như giật điện chẳng hạn – là biện
pháp chỉ nên dùng trong các trường hợp cực kỳ nghiêm trọng mà thôi (thí dụ,
trường hợp tự gây tổn thương cho bản thân) – tốt hơn nên dùng thuốc chỉ gây khó
chịu ở dạ dày là đủ. Dù vậy, hiển nhiên liệu pháp gây ác cảm là một biện pháp
quan trọng đối với việc loại trừ các phản ứng thích nghi lệch lạc trong một
thời gian nhất định – dù chỉ tạm thời nó cống hiến cơ hội khuyến khích các cung
cách cư xử thích nghi hơn.
Biện pháp chữa trị thành công nhất căn cứ vào tiến trình tạo điều kiện hạn
chế là kỹ thuật giảm cảm thụ dần dần. Theo kỹ thuật giữa cảm thụ dần dần*
(systematic desensitization), bệnh nhân được chỉ dẫn cách thư giãn rồi sau đó
được cho tiếp xúc dần dần với kích thích gây lo sợ nhằm mục đích loại trừ phản
ứng lo sợ.
** Giảm cảm thụ dần dần (systematic desensitization) Một
kỹ thuật trong liệu pháp cư xử dùng để chữa trị các trường hợp ám ảnh sợ hãi
(phobias). Bệnh nhân được cho tiếp xúc dần dần với vật gây sợ hãi trước tiên
trong tưởng tượng và sau đó trong thực tế. Cùng lúc đó, bệnh nhân được hướng
dẫn tập thư giãn (liệu pháp thư giãn) để ức chế sự phát triển tình trạng lo âu.
Bằng cách này, bệnh nhân sẽ có thể ứng phó với việc tiếp cận ngày càng gần hơn
với vật hay tình huống gây sợ hãi.
Liệu pháp thư giãn (relaxation therapy): Điều trị
bằng cách chỉ dẫn cho bệnh nhân biết cách giảm lo âu nhờ giảm trương lực của
các bắp thịt. Tình trạng này có thể giúp cho người ta đối phó được các tình
huống gây stress hoặc là một bộ phận trong kỹ thuật giảm cảm thụ áp dụng cho
các ám ảnh sợ hãi (phobias) (theo Từ điển Y học).
Thí dụ, giả sự bạn cực kỳ sợ hãi khi phải đi phi cơ. Chỉ nghĩ đến tình
trạng đang ở trên phi cơ cũng đã khiến cho bạn toát mồ hôi và run người lên,
nên bạn không hề dám bén mảng đến phi trường để biết bạn sẽ phản ứng ra sao nếu
bạn thực sự phải đáp phi cơ đi đâu đó. Vận dụng kỹ thuật giảm cảm thụ dần dần
để chữa trị trường hợp khó khăn của bạn. Trước tiên, bạn sẽ được thầy thuốc
theo quan điểm tác phong huấn luyện kỹ thuật thư giãn bắp thịt (xem Bảng 13–2),
giúp bạn luyện tập cách thư giãn toàn thân – một trạng thái sảng khoái cực kỳ,
như bạn có thể tưởng tượng ra được. Bước kế tiếp sẽ cần đến việc thiết lập một
hệ cấp các mức độ sợ hãi (a hierarchy of fears) – một bảng liệt kê, theo thứ tự
mức độ nghiêm trọng tăng dần, về các sự kiện liên hệ đến tình trạng sợ hãi của
bạn. Thí dụ, bảng hệ cấp các mức độ sợ hãi của bạn có thể là:
– Nhìn thấy phi cơ bay ngang qua đâu.
– Đi đến phi trường.
– Mua một vé máy bay.
– Bước lên phi cơ.
– Nhìn cửa phi cơ khép lại.
– Phi cơ chạy xuống đường băng.
– Cất cánh.
– Đang ở trên không trung.
Một khi đã lập được bảng hệ cấp này và bạn đã học được kỹ thuật thư giãn
rồi, hai loạt phản ứng sẽ được kết hợp với nhau. Để thực hiện việc này, thầy
thuốc của bạn có thể yêu cầu bạn đặt mình vào trạng thái thư giãn rồi tưởng
tượng bản thân bạn đang ở trong tình huống đầu tiên đã thiết lập trong bảng hệ
cấp. Sau khi cơ thể vượt qua được bước thứ nhất mà vẫn giữ được trạng thái thư
giãn, bạn sẽ chuyển sang tình huống kế tiếp, cuối cùng sau khi vượt qua các mức
độ cho đến khi bạn hình dung được mình đang ở trên không trung mà vẫn không cảm
thấy lo âu gì nữa. Trong một số trường hợp, tất cả các giai đoạn này sẽ thực
hiện trong phòng mạch của nhà tâm lý; còn trong các trường hợp khác, người bệnh
được đặt vào tình huống gây sợ hãi thực tế. Cho nên, sẽ không có gì ngạc nhiên
nếu sau cùng bạn được đưa lên một chiếc phi cơ để thực tập kỹ thuật thư giãn.
Kỹ thuật giảm cảm thụ dần dần đã tỏ ra là một biện pháp chữa trị hiệu
nghiệm đối với một số rối loạn, bao gồm các ám ảnh sợ hãi, rối loạn dạng lo âu,
và thậm chí đến tình trạng bất lực (impotence) cũng như sợ hãi giao hợp tình dục.
Như bạn biết, chúng ta có thể tập ưa thích những sự vật mà ngày xưa chúng ta
từng sợ hãi.
BẢNG 13–2
HỌC CÁCH THƯ GIÃN
Để có một khái niệm về cách huấn luyện người bệnh thư giãn của các thầy
thuốc theo trường phái tác phong, hãy thử qua biện pháp do Herbert Benson
(1975) đề nghị dưới đây:
1. Ngồi yên lặng trong một tư thế thoải mái.
2. Nhắm mắt lại.
3. Buông lỏng hoàn toàn mọi bắp thịt, khởi đầu từ bàn chân tiến dần lên đến
mặt – giữ cho toàn thân thư giãn.
4. Hô hấp bằng mũi, Kiểm soát hơi thở, Khi thở ra, đếm nhẩm “một”. Thí dụ,
hít vào thở ra, đếm “một”; hít vào... thở ra, đếm “hai”; và cứ thế. Hô hấp nhẹ
nhàng và tự nhiên.
5. Tiếp tục trạng thái này kéo dài từ 10 đến 20 phút. Bạn có thề mở mắt để
xem giờ, nhất thiết không được dùng đồng hồ báo giờ. Khi kết thúc buổi tập, hãy
ngồi yên lặng trong vài phút, rồi từ từ mở mắt ra. Không nên đứng bật dậy ngay,
một hành động đều nhẹ nhàng thư thả.
6. Không nên thắc mắc nếu bạn đã đạt được mức độ thư giãn thâm sâu hay
chưa. Giữ thái độ thụ động và để cho hiện tượng thư giãn tự nó diễn tiến từng
bước. Khi nẩy sinh tạp niệm, hãy cố gạt bỏ bằng cách không nấn ná với chúng, và
bắt đầu lặp lại trình tự đếm hơi thở từ “một”.
Kiên trì rèn luyện, kết quả sẽ đến không chút miễn cưỡng nào. Thực tập kỹ
thuật này một hoặc hai lần mỗi ngày. Không nên thực hiện trong vòng 2 giờ sau
buổi ăn. Bởi vì các tiến trình tiêu hóa dường như sẽ gây trở ngại cho hiện
tượng thư giãn.
b. Tiến trình học tập theo quan sát vã kĩ thuật mô phỏng.
Nếu như chúng ta phải bị ôtô đụng mới hiểu được tầm quan trọng của hành vi
đảo mắt quan sát hai phía trước khi qua đường, thì thế giới này có lẽ đã gánh
chịu thảm cảnh dân số sụt giảm nghiêm trọng. May mắn thay, kinh nghiệm này
không cần thiết phải trải qua, bởi vì chúng ta học tập được rất nhiều điều thông
qua tiến trình học tập thì theo quan sát (Observational learning), nhờ mô phỏng
cách cư xử của người khác.
* Kỹ thuật mô phỏng (modeling): Kỹ thuật dùng trong nỗ
lực cải sửa hành vi ứng xử, nhờ đó một cá nhân học cách cư xử bằng cách quan
sát tác phong cư xử của người khác. Cùng với biện pháp nhắc nhở (prompting), kỹ
thuật này có thể hữu ích trong việc giúp cho cá nhân quen dần với cách cư xử
mới (theo Từ điển Y học).
Các thầy thuốc theo quan điểm tác phong đã sử dụng kỹ thuật mô phỏng*
(modeling) để chỉ dẫn người bệnh quen dần các kỹ năng mới và các biện pháp nhằm
đối phó với các cơn sợ hãi và lo âu của họ. Thí dụ, một số người chưa hề học
được các kỹ năng tương tác xã hội căn bản như duy trì sự tiếp xúc ánh mắt với
các đối tượng đang nói chuyện với họ. Thầy thuốc có thể chỉ dẫn cho người nào
còn thiếu sót các năng khiếu ấy cách mô phỏng lối cư xử thích hợp. Trẻ bị ám
ảnh sợ chó cũng có thể tiêu trừ cơn sợ hãi nhờ quan sát một đứa trẻ khác –
gọi là: “Bạn trẻ ‘Gan lì’” – lặp đi lặp lại nhiều lần động tác tiến đến gần một
chú chó, sờ soạng nó, vuốt ve nó, và sau cùng chơi đùa với nó. Như vậy, kỹ
thuật mô phỏng có thể đóng vai trò hữu hiệu trong việc giải quyết một vài loại
rối loạn cư xử, đặc biệt trong trường hợp mẫu người được mô phỏng lại được
nhiều người ngưỡng mộ.
c. Các liệu pháp vận dụng tiến trình tạo điều kiện tác động.
Hãy xét trường hợp chúng ta được điểm A cho bài tiểu luận viết công phu...
trường hợp được tăng lương nhờ thành tích công tác khả quan... trường hợp được
tri ân vì đã giúp một cụ già đi qua đường. Các phần thưởng dành cho lối cư xử
như vậy khiến cho chúng ta sẵn lòng tái diễn các hành vi ấy trong tương lai.
Tương tự, các liệu pháp theo quan điểm tác phong vận dụng các kỹ thuật tạo điều
kiện tác động (giải thích ảnh hưởng của phần thưởng và trừng phạt đối với cách
cư xử trong tương lai đều căn cứ vào khái niệm cho rằng nên khen thưởng hạnh
kiểm tốt, và loại trừ hạnh kiểm xấu bằng biện pháp phớt lờ hoặc trừng phạt.
Có lẽ thí dụ tiêu biểu nhất cho ứng dụng hợp lý các nguyên tắc tạo điều kiện
tác động là hệ thống thẻ khen thưởng (token system), trong đó cá nhân có hạnh
kiểm tốt được khen thưởng bằng một thẻ khen thưởng giống như thẻ đổi tiền trong
sòng bạc hay một vật nào đó thay cho tiền. Các lối cư xử được khích lệ có thể
xếp loại từ các việc làm đơn giản như giữ cho căn phòng ngăn nắp sạch sẽ cho
đến hành vi chuẩn bị y phục chỉnh tề khi tiếp xúc với người khác. Các thẻ khen
thưởng nhận được nhờ các lối cư xử mong muốn sau đó có thể đổi ra được một món
đồ hay một hoạt động ưa thích của đối tượng, như bánh snack, quần áo mới, hoặc
trong các trường hợp cực đoan như được phép ngủ trên giường (ngược lại trường
hợp bị phạt ngủ ở sàn nhà) chẳng hạn.
Mặc dù hệ thống thẻ khen thưởng được sử dụng thường xuyên nhất trong các cơ
sở y tế đối với những bệnh nhân mắc phải các rối loạn khá nghiêm trọng, nhưng
cũng không khác gì so với trường hợp các bậc cha mẹ sử dụng khi họ cho con cái
tiền vì chúng tỏ ra hiếu thuận – sau đó chúng có thể dùng tiền để mua món đồ
chúng ưa thích. Trên thực tế, kỹ thuật kết ước dự phòng, một biến dạng của hệ
thống thẻ khen thưởng đang phổ biến rộng rãi, đã tỏ ra khá hiệu nghiệm trong
việc cải sửa hành vi ứng xử. Theo kỹ thuật kết ước/ giao kèo dự phòng
(contingency contracting), một tờ giao kèo viết tay được soạn thảo giữa thầy
thuốc và người bệnh (hoặc giữa thầy và trò, hoặc giữa cha mẹ và con cái). Tờ
giao kèo ấy minh định một loạt mục tiêu về lối cư xử mà người bệnh hy vọng đạt
được. Nó cũng nêu rõ kết quả dành cho bệnh nhân nếu như các mục tiêu ấy đạt
được – thông thường là một phần thưởng cụ thể nào đó, như tiền bạc hay một đặc
ân nào đó chẳng hạn. Các tờ giao kèo thường cũng nêu rõ các hậu quả trừng phạt
nếu các mục tiêu ấy không đạt được.
Thí dụ, giả sử một cá nhân gặp khó khăn trong việc cai nghiện thuốc lá. Ông
ta và thầy thuốc có thể lập một tờ giao kèo. Trong đó ông ta hứa hẹn rằng nếu
mỗi ngày không hút một điếu thuốc nào ông sẽ nhận được một phần thưởng. Ngược
lại tờ giao kèo cũng ghi rõ biện pháp trừng phạt nếu ông ta không thực hiện
được lời hứa. Vào ngày nào người bệnh ấy có hút thuốc thì vị thầy thuốc sẽ gởi
đi một tờ séc – đã được người bệnh viết ổn và giao cho thầy thuốc giữ – cho một
cơ quan mà người bệnh không quan tâm ủng hộ (chẳng hạn, cho Hiệp hội Xạ thủ
quốc gia nếu như bệnh nhân là người kiên quyết ủng hộ lập trường hạn chế sử
dụng súng).
d. Liệu pháp theo quan điểm tác phong thành công đến mức nào?
Liệu pháp tác phong hiệu nghiệm nhất đối với một vài loại rối loạn. Tùy
theo loại rối loạn cụ thể, tỷ lệ thành công từ thấp là 50% cho đến cao là 90%.
Thí dụ, liệu pháp tác phong khá hiệu nghiệm đối với các chứng ám ảnh sợ hãi và
ám ảnh cưỡng bách, đối với việc thiết lập biện pháp khống chế các xung lực
không mong muốn, và đối với việc rèn luyện các kỹ năng giao tế xã hội phức tạp
để thay thế cho lối ứng xứ lệch lạc. Hơn hẳn bất kỳ kỹ thuật chữa trị nào khác,
liệu pháp này đã sáng tạo được nhiều biện pháp đề người không chuyên môn có thể
sử dụng được nhằm cải sửa cách cư xử của mình. Ngoài ra, liệu pháp này thường
ít tốn thời gian, bởi vì nó nhằm thẳng vào việc giải quyết các rối loạn đã được
xác định cụ thể và kỹ lưỡng.
Ngược lại, liệu pháp theo quan điểm hành vi đã bị chỉ trích bởi vì nó nhấn
mạnh đến lối cư xử bề ngoài, và do đó nó đánh giá thấp vai trò của ý nghĩ và kỳ
vọng thuộc nội tâm của người bệnh. Bởi vì các ưu tư ấy, một số nhà tâm lý đã
quay sang các phương pháp chữa trị theo quan điểm tiến trình trí tuệ.
3. Các phương pháp chữa trị theo quan điểm tiến trình trí tuệ
Nếu bạn cho rằng cách suy nghĩ lệch lạc là nguyên nhân chính gây ra hành vi
ứng xử bất bình thường, thì đường lối chữa trị trực tiếp nhất chẳng phải là chỉ
dẫn cho người bệnh lối suy nghĩ mới mẻ và thích hợp hơn sao? Theo các nhà tâm
lý tán thành liệu pháp tiến trình trí tuệ, câu trả lời là “đúng vậy”.
Liệu pháp tiến trình trí tuệ nhằm mục đích cải sửa lối suy nghĩ sai lầm của
người bệnh về thế giới xung quanh và về chính bản thân họ. Không giống như các
thầy thuốc theo quan điểm tác phong truyền thống là những người chú trọng đến
việc cải sửa hành vi ứng xử bề ngoài, các thầy thuốc theo liệu pháp tiến trình
trí tuệ nỗ lực cải sửa cách suy nghĩ của người bệnh. Bởi vì họ thường sử dụng
các nguyên tắc căn bản trong tiến trình học tập, nên các biện pháp mà họ sử
dụng thường được gọi là phương pháp hành vi – trí tuệ (cognitive – behavioral
approach).
Một trong các thí dụ nổi bật về liệu pháp hành vi trí tuệ là liệu pháp xúc
cảm hợp lý. Liệu pháp xúc cảm hợp lý (rational–emotive therapy) nỗ lực tái xây
dựng hệ thống tín niệm của người bệnh thành một loạt quan điểm thực tế và hợp
lý hơn. Theo nhà tâm lý Albert Ellis, nhiều người trải qua cuộc sống thiếu hạnh
phúc và thậm chí đôi khi bị rối loạn tâm lý bởi vì họ ấp ủ các lý tưởng bất hợp
lý và thiếu thực tế như:
– Cần được rất nhiều người yêu mến hoặc tán thành một việc làm của chúng
ta.
– Nếu muốn tự hào về bản thân chúng ta cần phải thập toàn kỳ mỹ, nghĩa là
phải có đầy đủ năng lực, hoàn toàn xứng đáng, và thành công trong một lãnh vực.
– Thật đáng ghét khi mọi việc không diễn ra theo ước muốn của chúng ta.
Nhằm hướng dẫn bệnh nhân thủ tiêu các ý nghĩ lệch lạc như thế và chấp nhận
lối suy nghĩ thực tiễn hơn, thầy thuốc theo liệu pháp này đóng vai trò chi phối
tích cực hơn trong tiến trình chữa trị, công khai thách thức các lối suy nghĩ
lệch lạc (đoạn trích dẫn về trường hợp Martha ở đầu chương này là một thí dụ
tiêu biểu cho liệu pháp này). Chẳng hạn, thầy thuốc có thể thẳng thừng phê phán
cách suy nghĩ của bệnh nhân qua câu nói: “Tại sao sự kiện người bạn gái bỏ rơi
bạn lại hàm ý rằng bạn là người xấu?” hay: “Thi rớt làm sao chứng tỏ được rằng
bạn không có phẩm chất tốt?” bằng cách nêu rõ các khía cạnh sai lầm trong lối
suy nghĩ của bệnh nhân, thầy thuốc vận dụng cách chữa trị này tin tưởng rằng
bệnh nhân sẽ chấp nhận một quan điểm thực tế hơn về bản thân và về các tình
huống gặp phải của họ.
Một lối chữa trị khác xây dựng trên quan điểm tiến trình trí tuệ là liệu
pháp của Aaron Beck (Beck 1991). Giống như liệu pháp xúc cảm hợp lý, liệu pháp
trí tuệ (cognitive therapy) của Beck nhằm mục tiêu căn bản là cải sửa lối suy
nghĩ bất hợp lý của bệnh nhân về bản thân và về thế giới chung quanh.
Tuy nhiên, liệu pháp trí tuệ kém phần đối chọi và thách thức hơn nhiều so
với liệu pháp xúc cảm hợp lý. Thay vì chủ đông tranh luận với người bệnh về các
ý nghĩ lệch lạc của họ, thầy thuốc theo liệu pháp này chọn vai trò thầy dạy
học. Người bệnh bị buộc tiếp nhận thông tin về bản thân họ, chính những thông
tin này sẽ khiến họ từ bỏ lối suy nghĩ thiếu chính xác của mình. Trong quá
trình chữa trị bệnh nhân được yêu cầu làm các “bài tập” được soạn thảo đặc biệt
nhằm giúp họ khám phá lại suy nghĩ thích hợp hơn về bản thân và về người khác.
Các liệu pháp theo quan điểm tiến trình trí tuệ đã tỏ ra thành công trong
việc đối phó với rất nhiều dạng rối loạn tâm lý. Khả năng hội nhập các phương
pháp chữa trị bổ sung – như phối hợp các kỹ thuật tiến trình trí tuệ với các kỹ
thuật tác phong thành liệu pháp hành vi trí tuệ chẳng hạn – của liệu pháp này
đã xây dựng được một lối chữa trị hiệu nghiệm đặc biệt.
4. Tóm tắt và học
ôn I
A. TÓM TẮT
– Liệu pháp tâm lý
(psychotherapy) chú trọng đến việc cải sửa hành vi ứng xử bất bình thường nhờ
thảo luận và tương tác giữa bệnh nhân với thầy thuốc. Còn liệu pháp sinh học
(biologically based therapy) dùng dược phẩm và các biện pháp y học khác.
– Liệu pháp động
lực tâm lý (psychodynamic therapy) căn cứ vào quan điểm của Freud cho rằng hành
vi ứng xử bất bình thường do các xung đột và lo âu vô thức gây ra, luôn chữa
trị các rối loạn tâm lý, cần phải thăm dò vùng vô thức và đưa các khó khăn chưa
giải quyết ngày xưa lên tầng ý thức nhờ các kỹ thuật liên kết tự do (free
assodation) và giải thích giấc mơ (dream interpretation).
– Các liệu pháp
theo quan điểm tác phong (behavioral approaches to therapy) xây dựng trên tiền
đề cho rằng những người biểu hiện hành vi ứng xử bất bình thường hoặcc đã không
thủ đắc được các kỹ năng thích hợp hoặc đã tiêm nhiễm các thói quen lệch lạc.
Muốn chữa trị rối loạn cần phải học tập lối ứng xử mới và thích hợp hơn và/hoặc
loại trừ lối ứng xử sai lầm ngày trước.
– Các thầy thuốc
theo quan điểm hành vi sử dụng các phương pháp tạo điều kiện hạn chế, bao gồm
kỹ thuật do đầu kiện gây ác cảm (aversive conditioning) và kỹ thuật giảm cảm
thụ dần dần (systematic desensitization), kỹ thuật mô phỏng (modeling); cùng
các phương pháp tạo điều kiện tác động.
– Các liệu pháp
theo quan điểm tiến trình trí tuệ (cognitive approathes to treatmeno bao gồm
liệu pháp xúc cảm hợp lý (rational–emotive therapy) của Albert Ellis và liệu
pháp trí tuệ (cognitive therapy) của Aaron Beck.
B. HỌC ÔN
1/ Phương thuốc
chữa trị các rối loạn tâm lý căn cứ vào thảo luận và tương tác giữa thầy thuốc
với bệnh nhân được gọi là...
2/ Cặp đôi những
người hành nghề trong lãnh vực sức khỏe tâm thần sau đây với định nghĩa về họ.
a– Người có bằng
cấp tiến sĩ chuyên chưa trị các rối loạn tâm lý.
b– Chuyên về các kỹ
thuật chữa trị theo trường phái Freud.
c– Bác sĩ y khoa
được huấn luyện về hành vi ứng xử bất bình thường.
d– Người có bằng
cấp tiến sĩ chuyên về vấn đề thích nghi với các khó khăn trong cuộc sống thường
ngày.
1. Bác sĩ tâm thần (Psychiatriso)
2. Nhà tâm lý lâm sàng (Cilnical psychologist)
3. Nhà tâm lý tư vấn (Counseling psychologist)
4. Nhà phân tâm (Psychoanalyst)
3/ Theo Freud, con người dùng... là một phương tiện để bảo đảm rằng các
xung lực không mong muốn sẽ không... xâm phạm đến các ý nghĩ thuộc tầng ý thức.
4/ Một kỹ thuật gọi là..., trong đó người bệnh được yêu cầu nói ra bất cứ
điều gì xuất hiện trong tâm trí, được sử dụng trong phần tích tâm lý để khám
phá các điều ẩn giấu trong vô thức...
5/ Theo lý thuyết giải thích giấc mơ, nhà phân tâm phải học cách phân biệt
giũa nội dung... của giấc mơ, tức là ý nghĩa bề ngoài với nội dung... tức là ý
nghĩa đích thực của nó.
6/ Lối chữa trị nào trong các kỹ thuật dưới đây nhằm giải quyết các ám ảnh
sợ hãi (phobias) bằng cách cho bệnh nhân tiếp xúc dân dần với vật gây sợ hãi?
a– Giảm cảm thụ dần
dần (systematic desensitizition)
b– Khích lệ từng
phần (partial reinforcement)
c– Tự quản hành vi
ứng xử (behavioral self–management)
d– Kiểm soát bản
ngã (ego contral)
C. CÂU HỎI TỰ VẤN
Liệu pháp ứng xứ
liệu pháp theo quan điểm tác phong (behavioral therapy) hữu ích nhất trong các
tình huống nào? Kỹ thuật chữa trị nhằm đối phó với các lối suy nghĩ thay vì với
hành vi ứng xử sẽ thích hợp hơn trong các tình huống nào?
(Giải đáp câu hỏi
học ôn ở cuối chương)
5. Liệu pháp theo
quan điểm nhân bản
Như bạn từng có
kinh nghiệm, người ta không thể hiểu rõ được nội dung của một môn học nếu như
không mất chút công sức nào, dù cho vị Giáo sư hay cuốn sách giáo khoa có khả
năng trình bày sáng tỏ đến đâu đi nữa. Chính bản thân bạn phải dành thời giờ
nghiên cứu tìm hiểu, ghi nhớ cách dùng thuật ngữ, và học thuộc các khái niệm
trong môn học ấy. Không người nào khác có thể làm việc đó thay cho bạn. Trách
nhiệm chủ yếu thuộc về bạn.
Liệu pháp theo quan
điểm nhân bản(humanistic
therapy) căn cứ vào triết lý này về trách nhiệm để sáng tạo các kỹ thuật chữa
trị. Tuy có nhiều liệu pháp khác nhau theo quan điểm này, tựu trung chúng đều
xây dựng trên các khái niệm nền tảng giống nhau. Chúng ta có khả năng kiểm soát
hành vi ứng xử của bản thân mình, chúng ta có thể chọn lựa lối sống theo sở
thích; và chúng ta có trách nhiệm giải quyết các khó khăn gặp phải trong cuộc
sống thường ngày. Thay vì đóng vai trò chi phối như trong một số liệu pháp theo
quan điểm đồng lực tâm lý và quan điểm hành vi, các thầy thuốc theo liệu pháp
nhân bản xem bản thân họ là người hướng dẫn hay người tạo điều kiện thuận lợi
nhằm giúp cho người bệnh hiện thực bản thân và cải sửa lối ứng xử để có thể
vươn đến lý tưởng mà họ hằng ấp ủ.
Theo cách nhìn này,
hành vi ứng xử bất bình thường chính là hậu quả do tình trạng bất lực của người
bệnh trong việc tìm hiểu ý nghĩa cuộc sống, của tâm trạng cô đơn và xa lánh mọi
người, và của thái độ tin tưởng rằng bản thân họ chỉ là quân tốt đen trong một
thế giới tác động lên họ mà chẳng cần đến khả năng đáp ứng đúng mức của họ.
a. Liệu pháp tập
trung vào người bệnh.
Tham khảo lại
trường hợp Alice nêu ở đầu chương này, bạn sẽ thấy rằng các lời phẩm bình của
thầy thuốc không nhằm giải thích hoặc trả lời các câu hỏi do bệnh nhân nêu lên.
Đúng ra, chúng nhằm làm sáng tỏ hay soi rọi theo tầm nhìn nào đó các điều người
bệnh đã nói ra (chẳng hạn: “Nói khác đi, việc cô làm là luôn luôn nhằm...”; “Có
cảm thấy...”; “Phải thế không?”) Kỹ thuật trị liệu này gọi là khuyên bảo không
chi phối (nondirective counseling), và kỹ thuật này là trọng tâm của liệu pháp
tập trung vào người bệnh. Liệu pháp này được thực hành đầu tiên bởi Carl Rogers
(1951; 1980), là một loại liệu pháp nhân bản nổi tiếng nhất và được áp dụng
thường xuyên nhất.
* Liệu pháp
tập trung vào người bệnh (Client–centered
therapy/ Rogerian therapy): một phương pháp tâm lý trị liệu trong đó thầy thuốc
không đóng vai trò chi phối các hành động của bệnh nhân, mà lại chú trọng đến
việc thông đạt kiến thức để bệnh nhân chấp nhận trách nhiệm của bản thân họ. Thông
thường, thầy thuốc phản chiếu những lời nói hay những tình cảm riêng tư của
bệnh nhân lại cho chính người bệnh. Mục đích nhằm giúp cho bệnh nhân giải quyết
được các rắc rối riêng tư của mình (theo Từ điển Y học).
Mục tiêu của liệu
pháp tập trung vào người bệnh (client–centered therapy) nhằm giúp cho người
bệnh vươn đến tiềm năng sẵn có để họ tự hiện thực bản thân. Bằng cách cống hiến
một khung cảnh ấm áp và đồng cảm, các thầy thuốc hy vọng thúc đẩy người bệnh
thổ lộ các khúc mắc và tình cảm riêng tư của họ, nhờ đó sẽ giúp cho người bệnh
chọn lựa và quyết định thực tiễn đồng thời xây dựng để giải quyết những rắc rối
đang quấy nhiễu họ trong cuộc sống hiện tại. Như vậy, thay vì chi phối các chọn
lựa của người bệnh, thầy thuốc cống hiến cái mà Rogers gọi là thái độ chăm sóc
tích cực vô điều kiện (renconditional positive regard) – biểu lộ sự đồng tình
và cảm thông, bất kể biểu hiện tình cảm và thái độ ra sao của bệnh nhân. Làm
như thế, thầy thuốc hy vọng tạo được một bầu không khí thuận lợi để bệnh nhân
đi đến quyết định cải thiện cuộc sống của chính họ. Việc làm này không có ý
nghĩa là thầy thuốc phải tán thành mọi điều mà người bệnh đã hành động hay nói
ra; đúng ra, nó có nghĩa là thầy thuốc phải hiểu rõ ràng các ý nghĩ và hành
động của bệnh nhân trong bầu không khí ấy đã phản ảnh đích thực những biến cố
họ đang trải qua.
Ngày nay, liệu pháp
tập trung vào bệnh nhân tương đối hiếm khi được vận dụng đúng theo hình thức
thuần túy của nó. Các liệu pháp hiện đại phần nào có tính chủ động chi phối
hơn, trong đó thầy thuốc thúc giục người bệnh tìm hiểu sâu xa hơn về rắc rối
gặp phải chứ không đơn thuần phản ánh lại các lời phát biểu của họ. Dù sao,
việc giúp cho người bệnh tìm hiểu sâu xa vấn đề của họ vốn được xem là trọng
tâm của tiến trình chữa trị.