Tâm lý học căn bản - Chương 13 - Phần 1

Chương
13. CHỮA TRỊ HÀNH VI ỨNG XỬ BẤT BÌNH THƯỜNG

DÀN BÀI

Mở đầu

Triển khai chủ
đề

I. LIỆU PHÁP TÂM LÝ: CÁC PHƯƠNG PHÁP TÂM LÝ TRỊ LIỆU

1. Chữa trị theo
quan điểm động lực tâm lý: Chọc thủng tầng vô thức

2. Các phương pháp
chữa trị theo quan điểm tác phong

3. Các phương pháp
chữa trị theo quan điểm tiến trình trí tuệ

4. Tóm tắt và học
ôn I

5. Liệu pháp theo
quan điểm nhân bản

6. Liệu pháp nhóm

7. So sánh các liệu
pháp tâm lý

8. Đánh giá liệu
pháp tâm lý

9. Liệu pháp nào
hiệu nghiệm nhất

ỨNG DỤNG TÂM LÝ HỌC: Các nhân tố chủng tộc và sắc tộc trong công tác chữa trị:
phải chăng thầy thuốc nên phớt lờ các nhân tố này?

Tóm tắt và học ôn
II

II. CÁC LIỆU PHÁP SINH HỌC: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM Y HỌC

1. Liệu pháp dược
phẩm

TRÍCH DẪN THỜI SỰ: Prozac – Loại dược phẩm thần diệu hay cơn điên rồ của
giới truyền thông?

2. Liệu pháp co
giật điện

3. Phẫu thuật tâm
thần

4. Triển vọng của
liệu pháp sinh học: Có thể chữa lành hành vi ứng xử bất bình thường không?

5. Phong trào tâm
lý cộng đồng: nhằm mục tiêu ngừa bệnh

THỪA HƯỞNG THÀNH
QUẢ CỦA TLH.
Chọn đúng
thầy đúng thuốc

6. Tóm tắt và Học
ôn III

III. NHỮNG ĐIỂM CẦN GHI NHỚ

IV. GIẢI ĐÁP CÂU HỎI

MỞ ĐẦU

CÁC TRƯỜNG HỢP
ALICE, MARTHA VÀ SANDY

Alice: Tôi đã ưu tư về loại việc làm đặc biệt này. Dù sao tôi đã
hình thành được một thứ sở trường. Tôi cho rằng nhờ thói quen, tôi cố gắng làm
cho mọi người quanh tôi cảm thấy thoải mái, hoặc làm cho mọi việc diễn ra êm
thắm...

Thầy thuốc: Nói khác đi, việc cô làm là luôn luôn nhằm nỗ lực giữ cho
mọi việc diễn ra êm thắm, làm cho người khác thấy khá hơn, và làm cho tình
huống dễ chịu hơn...

Alice: Đúng. Tôi cho là như thế. Còn lý do việc làm ấy có lẽ là – tôi muốn nói,
có lẽ tôi không phải là một người có lòng vị tha luôn luôn chờ dịp đem lại hạnh
phúc cho người khác, nhưng việc làm ấy có lẽ thuận lợi nhất đối với tôi. Tôi dù
không vững niềm tin, cho đến khi tôi không biết rõ liệu mình còn đủ lòng tin để
theo đuổi không...

Thầy thuốc: Cô cảm thấy trong một thời gian dài mình đã đóng vai
trò hòa giải các va chạm hoặc bất đồng hoặc điều gì không được...

Alice: Ừm...

Thầy thuốc: Chứ không có bất kỳ ý kiến hoặc phản ứng của riêng mình
trong tình huống gặp phải. Phải thế không?

***

Martha: Vấn đề căn bản là tôi bận tâm về gia đình. Tôi bận tâm về tiền bạc. Và
dường như chẳng bao giờ tôi có thể thanh thản được.

Thầy thuốc: Tại sao bà bận tâm về gia đình? Trước hết, ta hãy đề
cập vấn đề này. Có gì phải ưu tư? Gia đình bà có một số yêu cầu mà bà không
muốn dính líu đến.

Martha. Tôi được dưỡng dục để không được suy nghĩ ích kỷ.

Thầy thuốc: Ồ, chúng ta sẽ phải gạt bỏ quan niệm đó ra khỏi tâm trí
bà!

Martha: Tôi cho rằng đó là một trong các rắc rối căn bản của tôi.

Thầy thuốc: Đúng thế. Bà được dưỡng dục để trở thành “một nữ điều
dưỡng cao quí”...

Martha: Và giờ đây tôi lại cố tránh né đấy. Chẳng hạn, họ gọi điện cho tôi nói
rằng: “Chủ nhật này chị đến nhé?”. Và nếu tôi trả lời: “Không, tôi bận lắm!” thay
vì nói: “Tôi sẽ đến nếu thuận tiện.”, hẳn họ sẽ đau lòng ghê lắm. Thế là dạ dày
tôi lại quặn lên.

Thầy thuốc: Bởi vì bà tự nhủ: “Tôi sẽ lại đến đó nữa rồi. Tôi thật
tệ nếu không hy sinh cho họ!” Chừng nào bà còn tự nhủ kiểu đó, thì dạ dày hay
một bộ phận nào trong cơ thể bà sẽ quặn lên! Nhưng đó là triết lý của bà, niềm
tin của bà, và là bản án do bà buộc tội bản thân. – “Tôi không phải là người
tốt bụng thực sự! Làm sao tôi làm được cái việc tồi tệ, ghê tởm ấy chứ?” Đó
chính là ý nghĩ làm cho dạ dày bà quặn lên. Giờ thì bản án ấy là sai lầm. Tại
sao bà không phải là người tốt bụng thực sự khi bà quí bản thân hơn họ chứ? Sự
việc rốt cục do sai lầm ấy. Ai nói bà không tốt bụng – Chúa Jesus chăng? Moses
chăng? Ai đã nói thế? Câu trả lời là chính song thân bà đã nói như thế. Và bà
tin bởi họ đã nói như thế. Nhưng họ là vị thánh nào kia chứ?

***

Sandy: Cha tôi... chẳng hề quan tâm đến đứa nào trong bọn con cái chúng tôi cả
(Bắt đầu thút thít khóc). Chính mẹ tôi – cầu cho linh hồn bà được an nghỉ – mới
thương yêu chúng tôi. Ông ấy bắt bà làm việc đến chết. Chúa ơi, tôi nhớ mẹ tôi
lắm (khóc òa lên) – tôi hẳn phải hận cha tôi. Bộ ông không nghĩ rằng tôi có
quyền tức giận sao?

Thầy thuốc: Phải chăng cô cho rằng mình có quyền tức giận?

Sandy: Dĩ nhiên, tôi có quyền! Tại sao ông hỏi tôi? Ông không tin tôi phải
không?

Thầy thuốc: Cô muốn tôi tin cô mà.

Sandy: Tôi chẳng cần ông tin tôi hay không. Theo tôi, ông chỉ là bức tường vô
tri mà tôi đang nói với nó – không biết tại sao tôi tốn tiền cho lối chữa trị
đáng ghét này – Bộ ông chẳng có ý nghĩ hay tình cảm gì cả sao? Tôi biết ông
đang nghĩ gì – Ông cho tôi điên rồ – hẳn ông đang cười vào mũi tôi – Có lẽ tôi
sẽ là một trường hợp nghiên cứu trong cuốn sách sắp tới của ông? Còn ông chỉ việc
ngồi ở đấy cười làm dáng – làm như tôi là kẻ xấu xa vậy – cho rằng tôi sai lầm
vì điên rồ, rằng tôi không có quyền nổi điên vậy.

Thầy thuốc: Cũng giống như cha cô vậy.

Sandy: Đúng, ông giống hệt ông bố tôi – Ôi! Chúa ơi! Ngay lúc này đây – tôi –
tôi nghĩ tôi đang nói chuyện với ông ấy đấy.

TRIỂN KHAI CHỦ ĐỀ

Ba ca bệnh, ba thầy thuốc.

Như các đoạn trích dẫn về các buổi chữa trị thực tế nêu trên minh họa, cách
trị liệu các trường hợp rối loạn tâm lý không nhất thiết là một tiến trình duy
nhất. Trong ca bệnh thứ nhất, vị thầy thuốc chịu khó phản ảnh những điều Alice
đã nói, phản hồi lại những nhận xét của cô. Ngược lại, vị thầy thuốc trong đoạn
trích dẫn thứ hai năng động hơn rất nhiều, ông thúc giục và khích động người
bệnh. Cuối cùng, ca thứ ba cho thấy thầy thuốc nói rất ít; các câu trả lời đối
với các khắng định của Sandy nói chung đều vô thưởng vô phạt.

Ba đoạn trích dẫn này chỉ là một số ít trường hợp điển hình cho nhiều lối
chữa trị các rối loạn tâm lý. Hiện nay, các thầy thuốc sử dụng đến hơn 250 cách
chữa trị khác nhau, từ câu chuyện trao đổi trong một buổi chữa trị duy nhất cho
đến các lối chữa trị kéo dài có dùng các loại dược phẩm tác dụng mạnh. Tuy
nhiên, dù người ta dùng bất kỳ loại liệu pháp nào, tất cả đều có chung một mục
đích: làm giảm bớt rối loạn tâm lý, nhằm mục tiêu tối hậu là giúp người bệnh có
được cuộc sống phong phú hơn, ý nghĩa hơn, và mỹ mãn hơn.

Chương này tìm hiểu một số vấn đề quan trọng liên hệ đến hành vi ứng xử bất
bình thường: làm cách nào chữa trị những người bị rối loạn tâm lý? Ai là người
thích hợp nhất để đề ra biện pháp chữa trị? Tương lai sẽ ra sao đối với những
người bị rối loạn nghiêm trọng? Phương pháp nhiều nào hợp lý nhất? Phải chăng
một loại liệu pháp nào đó hiệu nghiệm hơn các liệu pháp khác? Phải chăng bất kỳ
liệu pháp nào cũng thực sự hiệu nghiệm? Cá nhân làm cách nào chọn “đúng” thầy
“đúng” thuốc?

Hầu hết chương này chú trọng đến nhiều phương pháp khác nhau đã được vận
dụng để chữa trị các dạng rối loạn tâm lý. Bất kể tính đa dạng của chúng, các
phương pháp này đều thuộc vào hai loại chính: liệu pháp tâm lý và liệu pháp
sinh học. Liệu pháp tâm lý* (psychotherapy) là tiến trình trong đó bệnh nhân
(thường được gọi là thân chủ) và nhà chuyên môn nỗ lực khắc phục các khó khăn
tâm lý. Trong liệu pháp tâm lý, trọng tâm nhằm vào sự thay đổi lối cư xử do kết
quả của các cuộc thảo luận và tương tác giữa thầy thuốc và thân chủ. Ngược lại,
liệu pháp sinh học (biologocally based therapy) dựa vào thuốc men và các biện
pháp y học khác để cải thiện sinh hoạt tâm lý.

* Liệu pháp tâm lý/tâm lý trị liệu(psychotherapy): Lối
chữa trị dùng các biện pháp tâm lý (ngược lại các biện pháp vật lý) để trị liệu
Các rối loạn tâm trí và Các vấn đề tâm lý. Có nhiều phương pháp khác nhau trong
tâm lý trị liệu gồm phân tích tâm lý (psychoanalysis), liệu pháp tập trung vào
người bệnh (client–centered therapy) và liệu pháp nhóm (group therapy). Các
liệu pháp này đều có cùng quan điểm cho rằng quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh
nhân có tầm quan trọng hàng đầu, và mục đích tri liệu là giúp phát triển nhân
cách và tự hiểu mình nói chung, hơn là làm mất triệu chứng bệnh, và thầy thuốc
không chi phối các quyết định của bệnh nhân. Các phương pháp này đã được áp
dụng rộng rãi cho các tình trạng lâm sàng khác nhau. Nhưng hiện nay vẫn chưa
được công nhân có giá trị bằng các liệu pháp chữa trị bệnh tâm thần (theo Từ
điển Y học).

Khi miêu tả các phương pháp trị liệu khác nhau, điều quan trọng phải ghi
nhớ là mặc dù các phân biệt dường như rõ rệt, nhưng lại có rất nhiều trùng lắp
trong các chứng loại và biện pháp áp dụng và thậm chí trong công tác huấn luyện
cũng như ấn định chức danh của các thầy thuốc (xem Bảng 13–1). Trên thực tế,
hiện nay nhiều thầy thuốc dùng nhiều biện pháp cho một bệnh nhân theo một lối
chữa trị gọi là phương pháp trị liệu chiết trung (eclectic approach to therapy)
Vì cho rằng thông thường hành vi ứng xử bất bình thường là hậu quả của cả hai
tiến trình tâm lý và sinh học, nên các thầy thuốc theo quan điểm chiết trung có
thể đồng thời căn cứ vào một số quan điểm khác nhau, trong nỗ lực nhắm đến cả
hai khía cạnh tâm lý và sinh học trong các rối loạn của người bệnh.

Nhờ vậy, sau khi đọc xong chương trình này bạn sẽ đủ sức trả lời các câu
hỏi sau đây:

– Các loại liệu pháp tâm lý và sinh học nhằm vào mục tiêu nào?

– Liệu pháp tâm lý gồm có các liệu pháp căn bản nào?

– Liệu pháp tâm lý nói chung hiệu nghiệm đến mức nào, và loại liệu pháp nào
hiệu nghiệm nhất trong một tình huống nhất định?

– Hiện nay các liệu pháp sinh học như liệu pháp dược phẩm, kỹ thuật co giật
điện, và phẫu thuật tâm thần được vận dụng ra sao trong việc chữa trị các rối
loạn tâm trí?

BẢNG 13–1

Tìm đến đúng thầy đúng thuốc

Nhà tâm lý lâm sàng (Clinical psychologist)

Người có bằng tiến sĩ chuyên chẩn đoán và chữa trị các rối loạn tâm lý.

Nhà tâm lý tư vấn (Counseling psychologist)

Nhà tâm lý có văn bằng tiến sĩ hoặc cao học thường giải quyết các vấn đề
thích nghi trong cuộc sống hàng ngày ở một cơ sở tư vấn, như y viện thực tập
sức khỏe tâm thần thuộc các viện đại học.

Bác sĩ tâm thần (Psychiatrist)

Bác sĩ y khoa tốt nghiệp hậu đại học về hành vi ứng xử bất bình thường để
có khả năng kê toa thuốc như là một phần thuộc công tác điều trị.

Nhà phân tâm (Psycho analyst)

Bác sĩ y khoa hoặc nhà tâm lý chuyên về phân tích tâm lý, một kỹ thuật chữa
trị do Sigmund Freud xây dựng đầu tiên.

Cán bộ xã hội chuyên ngành sức khỏe tâm thần (Psychiatrist social worker)

Nhà chuyên môn có bằng cao học, được huấn luyện đặc biệt và công tác chữa
trị tại gia và các cơ sở y tế cộng đồng.

Người ta kỳ vọng những nhà chuyên môn được huấn luyện chu đáo này cống hiến
những lời khuyên và hướng dẫn hữu ích. Mặc dù bản chất của vấn đề mà một cá
nhân đang mắc phải có thể phù hợp hơn với cách chữa trị khác. Chẳng hạn, một
bệnh nhân mắc phải rối loạn nghiêm trọng và mất hẳn liên lạc với thực tế điển
hình sẽ cần đến một liệu pháp sinh học nào đó có dùng dược phẩm. Trong trường
hợp đó, bác sĩ tâm thần – vốn là một bác sĩ điều trị – hiển nhiên sẽ là nhà
chuyên môn được chọn lựa. Ngược lại, những người bị rối loạn nhẹ hơn, như khó
thích nghi với cái chết của một người thân trong gia đình, được quyền chọn lựa
rộng rãi hơn, có thể tìm đến bất kỳ nhà chuyên môn nào trong bảng liệt kê ở
trên. Nói chung, người ta có thể quyết định dễ dàng hơn nhờ các khuyến cáo ban
đầu của các nhà chuyên môn ở các cơ sở sức khỏe tâm thần thuộc các cộng đồng,
các trường đại học, và các tổ chức y tế, là những người thường giúp đỡ bệnh
nhân chọn lựa một thầy thuốc thích hợp.

I. LIỆU PHÁP TÂM LÝ: CÁC PHƯƠNG PHÁP TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Mặc dù khác biệt nhau về nhiều khía cạnh, tất cả các liệu pháp tâm lý đều
xem việc chữa trị là một biện pháp giải quyết các rối loạn tâm lý nhờ cải sửa
tác phong cư xử của người bệnh, nhằm giúp đỡ họ hiểu rõ hơn về bản thân cũng
như về quá khứ hiện tại và tương lai của họ. Chúng ta sẽ tìm hiểu bốn loại liệu
pháp tâm lý chủ yếu: động lực tâm lý, tác phong, tiến trình trí tuệ, và nhân
bản. Tất cả các liệu pháp ấy đều căn cứ vào các quan điểm khác nhau về hành vi
ứng xử bất bình thường mà chúng ta đã thảo luận ở chương 12.

1. Chữa trị theo quan điểm động lực tâm lý: Chọc thủng tầng vô thức

Liệu pháp động lực tâm lý(psychodynamic therapy) căn cứ vào tiền đề, do
Freud nêu lên đầu tiên, cho rằng nguồn gốc chủ yếu của hành vi ứng xử bất bình
thường chính là các xung đột chưa giải quyết được trong quá khứ và tình trạng
lo âu đối với khả năng các xung lực vô thức không chấp nhận được sẽ xâm nhập
vào rằng ý thức thuộc tâm tư con người, để bảo vệ chống lại khả năng không mong
muốn này, con người dùng các cơ chế phòng vệ (defense mechanisms) – các biện
pháp tâm lý bảo vệ họ trước các xung lực vô thức này (xem chương 11). Cho dù
tình trạng dồn nén này – là cơ chế phòng vệ thường thấy nhất (trong đó các xung
đột và xung lực đe dọa bị đẩy trở lại vùng vô thức) thường hay xảy ra, nhưng
các xung đột và xung lực không chấp nhận được ấy không bao giờ bị chôn vùi hoàn
toàn. Do đó, một số tình trạng lo âu lên hệ đến chúng có thể là nguyên nhân gây
ra hành vi ứng xử bất bình thường dưới dạng mà Freud gọi là triệu chứng loạn
thần kinh (neurotic symptoms)

Làm cách nào rũ sạch tình trạng lo âu do sự dồn nén các xung lực và thúc
đẩy vô thức không mong muốn ấy? Đối với Freud, câu trả lời là giáp mặt với các
xung đột và xung lực ấy bằng cách đưa chúng ra khỏi vùng vô thức để hiện ra ở
tầng ý thức thuộc tâm trí con người. Freud cho rằng kỹ thuật này sẽ làm giảm bớt
tình trạng lo âu đối với quá khứ, nhờ đó người bệnh có thể tham dự hữu hiệu hơn
vào cuộc sống.

Như vậy, thách đố mà thầy thuốc theo liệu pháp động lực tâm lý gặp phải
chính là làm cách nào tạo điều kiện thuận lợi để người bệnh nỗ lực thăm dò và
tìm hiểu vùng vô thức của chính họ. Kỹ thuật này đã bị cải biến theo quan điểm
của những người kế thừa, nhưng tựu trung vẫn là hướng dẫn bệnh nhân tìm hiểu và
thảo luận công khai các chi tiết về kinh nghiệm quá khứ của họ kể từ thời điểm
lưu lại những ký ức ban đầu. Tiến trình này giả định rằng bệnh nhân cuối cùng
sẽ bắt gặp lại những cơn khủng hoảng, các chấn thương, và các xung đột ẩn nấp
lâu ngày đang gây ra tình trạng lo âu trong cuộc sống ở tuổi trưởng thành hiện
tại của họ. Khi ấy họ có thể “chọc thủng” – hiểu rõ và sửa sai – các khó khăn
này.

a. Phân tích tâm lý: Liệu pháp của Freud. Liệu pháp động
lực tâm lý của trường phái Freud cổ điển, gọi là phần tích tâm lý (psycho
analysis), thường là việc làm vừa kéo dài vừa tốn kém. Nói chung, bệnh nhân
thường xuyên đến gặp thầy thuốc một giờ mỗi ngày, từ 4 đến 6 ngày mỗi tuần, kéo
dài trong vài năm. Trong các buổi chữa trị, người ta dùng một kỹ thuật do Freud
sáng chế, gọi là liên kết tự do (free assodation). Bệnh nhân được yêu cầu nói
ra bất cứ điều gì hiện ra trong tâm trí, dù cho điều đó không thích hợp hay vô
nghĩa hiển nhiên. Trên thực tế, họ được khuyến khích không nhằm cố gắng làm cho
các sự việc có ý nghĩa hoặc áp đặt tính logic lên những điều họ đang nói ra,
bởi vì người ta giả định rằng các câu nói không mạch lạc được gợi ra trong thời
gian tiến hành liên kết tự do thực sự là các đầu mối quan trọng đế tìm hiểu vô
thức, việc làm này có một logic riêng của nó. Công việc của nhà phân tích là
nhận định và đặt tên cho các mối liên hệ giữa điều đang được nói ra với vô thức
của bệnh nhân.

* Liên kết tự do (free association) Trong phân tâm
học, liên kết tự do là một kỹ thuật trong đó bệnh nhân được khuyến khích theo
đuổi một dòng ý tưởng đặc biệt khi nó xuất hiện lên tầng ý thức của tâm trí họ.
(theo Từ điển Y học).

Một công cụ khác của thầy thuốc là giải thích giấc mơ (dream
Interpretation). Như đã thảo luận ở chương 6, việc làm này nhằm kiểm tra các
giấc mơ của bệnh nhân để tìm kiếm các đầu mồi hầu làm sáng tỏ các xung đột vô
thức liên hệ đến các rắc rối đang gặp phải. Theo Freud, các giấc mơ giúp người
ta tìm hiểu cặn kẽ hơn về vô thức, bởi vì các biện pháp phòng vệ của con người
bị giảm đi trong lúc ngủ. Nhưng ngay cả trong lúc giấc mơ cũng vẫn có tình
trạng kiểm duyệt các ý tưởng, nên các biến cố và con người xuất hiện trong các
giấc mơ thường được tượng trưng bằng các biểu tượng. Do sự kiện này, người ta
phải thoát ra khỏi miêu tả bề ngoài giấc mơ, tức là nội dung công khai
(manifest content) của giấc mơ, để tìm hiểu nội dung tiềm ẩn (latent content)
của chúng: chính nội dung này tiết lộ thông điệp chân chính của giấc mơ.

Các tiến trình liên kết tự do và giải thích giấc mơ không luôn luôn diễn ra
trơn tru. Chính các lực lượng vô thức đã gây ra sự dồn nén ban đầu cơ thể tác
động để phát sinh đề kháng nhằm giữ cho các rắc rối trong quá khứ không lộ diện
lên tầng ý thức.

Đề kháng (resistance) là tình trạng không có khả năng hay
không muốn thảo luận hoặc tiết lộ những ký ức, ý nghĩ, hay động lực đặc biệt.
Thái độ đề kháng có thể biểu hiện theo rất nhiều cách. Thí dụ, bệnh nhân đang
thảo luận về một ký ức thời thơ ấu thì đột nhiên quên béng đi những gì mình
đang nói hoặc đột nhiên thay đổi hẳn đề tài. Chính công việc của thầy thuốc là
nhặt nhạnh các trường hợp đề kháng ấy để giải thích ý nghĩa của chúng, và tạo
điều kiện cho người bệnh quay trở lại đề tài đang nói – rất có thể chứa đựng
các kỷ niệm khó chịu hay đau buồn của họ.

Do một tương tác gần gũi, gần như mật thiết giữa người bệnh với nhà phân
tâm, nên mối quan hệ giữa hai người thường ngày càng ràng buộc về mặt tình cảm
và dẫn đến tình trạng phức tạp không giống như hầu hết mọi người khác. Bệnh
nhân có thể đến mức xem nhà phân tâm như là đại biểu cho những nhân vật trong
quá khứ của bệnh nhân, có thể là cha mẹ hay người yêu và bày tỏ tình cảm đặc
biệt dành cho những nhân vật ấy dồn cho nhà phân tâm – một hiện tượng gọi là
chuyển di thái độ (transference).

Thầy thuốc có thể vận dụng hiện tượng chuyển thái này để giúp bệnh nhân tái
lập các mối quan hệ khó chịu về mặt tâm lý trong quá khứ đối với họ. Thí dụ,
nếu bệnh nhân đang tiếp nhận kỹ thuật chuyển thái xem thầy thuốc của mình là
biểu tượng của cha mình – người mà bệnh nhân có mối quan hệ khó chịu – thì bệnh
nhân và thấy thuốc có thể “tái lập” mối tương tác ngày xưa, nhưng lần này sẽ
chứa đựng các khía cạnh tích cực hơn. Thông qua tiến trình này, các xung đột
liên quan đến người cha chân chính có thể được kết liễu. (Những thầy thuốc theo
quan điểm phân tâm sẽ xem kỹ thuật chuyển thái được vận dụng trong lời chỉ
trích của Sandy ở đầu chương này rằng vị thầy thuốc là giống hệt ông bố của
cô).

* Hiện tượng chuyển di thái độ(transference) Trong
phân tâm học, chuyển thái là tiến trình trong đó bệnh nhân cảm nhận và hành
động đối với thầy thuốc như thể vị này là một nhân vật nào đó trong quá khứ của
bệnh nhân, đặc biệt là người cha hay người mẹ đầy quyền uy. Tình cảm chuyển
thái của bệnh nhân có thể là yêu mến hay căm ghét nhưng lại không phù hợp với
con người thực của thầy thuốc. Hiện tượng phản chuyển thái (counter
transference) là phản ứng của thầy thuốc đối với bệnh nhân, cũng đạt cơ sở trên
những quan hệ quá khứ của chính người thầy thuốc (theo Từ điển Y học).

b. Các quan điểm phân tích tâm lý đương đại. Nếu thời gian là tiền bạc, thì bệnh
nhân chữa trị theo biện pháp phân tâm sẽ cần đến cả hai thức này rất nhiều. Như
bạn có thể hình dung được, ít người có sẵn thời gian, tiền của, hoặc lòng nhẫn
nại để theo đuổi chữa trị trong nhiều năm theo yêu cầu phân tâm truyền thống.
Ngoài ra, không có chứng cứ dứt khoát rằng biện pháp phân tâm theo quan niệm
ban đầu của Freud công hiệu hơn các quan niệm khác, mới mẻ hơn về liệu pháp
động lực tâm lý. Thí dụ, hiện nay liệu pháp động lực tâm lý có khuynh hướng rút
bớt thời gian chữa trị, thường kéo dài không quá ba tháng hay quá 20 buổi chữa
trị. Thầy thuốc đóng vai trò tích cực hơn so với chủ trương của Freud, kiểm
soát tiến trình tri liệu và ra sức thúc giục cũng như khuyên bảo bệnh nhân bằng
các chỉ thị quan trọng. Cuối cùng, thầy thuốc ít chú trọng hơn đến thời thơ ấu
và các biến cố quá khứ của bệnh nhân. Thay vì thế, người ta dùng phương pháp
hiện tiền nhiều hơn, trong đó thầy thuốc chú trọng đến các mối quan hệ và mức
độ hoạt động trong hiện tại của bệnh nhân.

Dù các cải tiến ấy, liệu pháp động lực tâm lý cũng bị nhiều phê phán. Liệu
pháp này dù sao vốn còn tương đối tốn thời gian và công sức, đặc biệt so với
các hình thức liệu pháp tâm lý khác mà chúng ta sẽ đề cập dưới đây. Ngoài ra,
chỉ có một số bệnh nhân mới khá phù hợp với biện pháp này. Đó là những bệnh
nhân mắc phải các rối loạn dạng lo âu và những người có khả năng diễn đạt ý tưởng
của mình khá rõ rệt – các đặc điểm phản ảnh trong cách ghép chữ khá khôi hài để
ám chỉ các loại bệnh nhân hoàn hảo là YAVIS: trẻ tuổi (young), lôi cuốn
(attractive), có khiếu về ngôn ngữ (verbal), thông minh (intelligent), và thành
đạt (successful).

Sau cùng, một ưu tư quan trọng nhất đối với chữa trị động lực tâm lý là
liệu nó có thực sự hiệu nghiệm không, và chúng ta không tìm được câu trả lời
thỏa đáng. Các kỹ thuật chữa trị theo liệu pháp động lực tâm lý đã từng gây
tranh luận kể từ khi Freud giới thiệu chúng. Một phần vấn đề là tình trạng khó
xác minh được liệu bệnh nhân theo đuổi liệu pháp động lực tâm lý có cải thiện
được sức khỏe không. Người ta buộc lòng phải lệ thuộc vào các báo cáo của thầy
thuốc hay của chính các bệnh nhân là các báo cáo hiển nhiên dễ bị thiên lệch và
giải thích chủ quan.

Những người phê phán nghi ngờ về toàn bộ cơ sở lý thuyết của quan điểm động
lực tâm lý, cho rằng không có chứng cứ nào về sự hiện hữu của các thành phần
cấu trúc như vô thức chẳng hạn. Dù bị phê phán mạnh mẽ như vậy, liệu pháp động
lực tâm lý vẫn là một kỹ thuật có khả năng tồn tại. Đối với những người đề
xướng, nó không những cống hiến một lối chữa trị hiệu nghiệm trong nhiều trường
hợp rối loạn tâm lý, mà còn giúp cho bệnh nhân xây dựng kiến thức sâu sắc phi thường
về cuộc sống của mình.

2. Các phương pháp chữa trị theo quan điểm tác phong

Hồi còn bé có lẽ bạn đã từng được cha mẹ thưởng một cây kem khi bạn đặc
biệt tỏ ra hiếu thuận... hoặc bị giam vào phòng khi bạn phạm lỗi. Như đã thấy ở
chương 5, các nguyên tắc hậu thuẫn cho biện pháp dưỡng dục trẻ như thế là hợp
lý: duy trì hạnh kiểm tốt bằng khích lệ, và tiêu trừ hạnh kiểm xấu bằng trừng
phạt.

Các nguyên tắc này là nền tảng chủ yếu của phương pháp chữa trị theo quan
điểm hành vi/liệu pháp cư xử (behavioral treatment approaches). Xây dựng trên
cơ sở các tiến trình học tập căn bản – tạo điều kiện hạn chế và tạo điều kiện
tác động – các liệu pháp này dựa trên một giả định chủ yếu là: cả lối cư xử
bình thường lẫn bất bình thường đều do học tập hay tiêm nhiễm mà có. Những
người có tác phong cư xử bất bình thường đã bị thất bại trong việc học tập các
kỹ năng cần thiết để ứng phó với các vấn đề trong cuộc sống thường ngày hoặc đã
tiêm nhiễm các khả năng lệch lạc và các thói hư tật xấu, được duy trì thông qua
một hình thức khích lệ nào đó. Như vậy, muốn cải sửa lối cư xử bất bình thường
người ta phải học tập lối cư xử mới mẻ để thay thế cho các kỹ năng lệch lạc mà
họ đã hình thành và đồng thời phải loại trừ tinh trạng tiêm nhiễm lối cư xử bất
bình thường.

Đối với các nhà tâm lý theo trường phái tác phong, người ta không cần phải
khai quật quá khứ của người bệnh hoặc đào sâu vào tâm hồn họ. Đúng ra, nên xem
lối cư xử bất bình thường là một triệu chứng của một rắc rối căn bản nào đó, vì
thế họ xem bản thân lối cư xử bất bình thường ấy là một rắc rối cần được cải
sửa. Thay đổi lối cư xử của người bệnh để giúp họ hành động hữu hiệu hơn nhằm
giải quyết rắc rối – không cần phải ưu tư đến nguyên nhân căn bản của vấn đề.
Như vậy, theo quan điểm này nếu cải sửa được lối cư xử thì bạn đã chữa lành rối
loạn rồi vậy.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3