Tâm lý học căn bản - Chương 09 - Phần 3
A. CÁC NHÂN TỐ SINH HỌC TRONG VẤN ĐỀ ẨM THỰC
Các nhà tâm lý bắt đầu nghiên cứu để tìm hiểu động lực ẩm thực ở loài vật, để tránh rắc rối gây chứng béo phì tác hại đến con người. Hầu hết loài vật, khi sống trong môi trường luôn sẵn có thức ăn, đều thực hiện công việc điều chỉnh lượng thực phẩm ăn vào khá tốt – như mọi người đều biết rõ khi luôn luôn để sẵn một đĩa thức ăn cho con vật nuôi trong nhà mình. Chẳng hạn, loài mèo sẽ ngưng ăn khi cơn đói được thỏa mãn; phần còn thừa chú bỏ lại, chỉ quay lại ăn khi cơn đói thúc giục.
Ngoài ra, dường như các cơ chế bên trong cơ thể của chúng ấn định không những lượng thực phẩm ăn vào, mà còn ổn định cả chủng loại thức ăn mà con vật ưa thích nữa. Những con chuột đói bị thiếu các loại thực phẩm đặc biệt có khuynh hướng tìm ăn loại thực phẩm nào có chứa các thành phần dinh dưỡng đặc biệt mà chúng bị thiếu, và các thí nghiệm đều cho thấy khi được tự do chọn lựa giữa rất nhiều loại thức ăn khác nhau, các con vật đều chọn được một chế độ dinh dưỡng khá cân bằng.
Các cơ chế nhờ đó mà sinh vật biết được liệu chúng có cần thức ăn không hay liệu có nên ngưng ăn không là các cơ chế khá phức tạp. Vấn đề không phải đơn giản chỉ là dạ dày trống gây ra các cơn đói cồn cào và bao tử đầy xoa dịu cơn đói, bởi vì những người bị giải phẫu cắt đi dạ dày vẫn còn có cảm giác bị đói. Tương tự, loài vật thí nghiệm thường có khuynh hướng ăn số lượng lớn hơn khi thực phẩm thiếu dưỡng chất; ngược lại, nếu chế độ ăn dư thừa dưỡng chất thì lượng thực phẩm chúng ăn vào sẽ ít đi – dù cho dạ dày của chúng căng đầy hay còn lưng lửng trong các trường hợp này.
Như vậy, dường như loài vật cũng như con người đều nhạy cảm với số lượng và giá trị dinh dưỡng của thực phẩm ăn vào. Một cơ chế góp phần điều chỉnh thực phẩm ăn vào là sự thay đổi trong thành phần hóa học của máu. Chẳng hạn, các thí nghiệm đều cho thấy khi đường glucose được tiêm vào máu thì cơn đói sẽ dịu đi và các con vật không còn chịu ăn nữa. Ngược lại, khi insulin, một dạng hormone liên quan đến việc chuyển hóa đường glucose thành chất mỡ dự trữ, được đưa vào máu thì cơn đói tăng lên.
Nhưng bộ phận nào trong cơ thể có nhiệm vụ theo dõi các biến đổi trong thành phần hóa học của máu liên hệ đến hành vi ẩm thực. Một cấu trúc đặc biệt trong não bộ là cấu tạo dưới đồi (hypothalamus) dường như chịu trách nhiệm chính đối với thực phẩm ăn vào. Người ta đã chứng minh rằng tổn thương ở bộ phận này sẽ khiến cho thói quen ẩm thực thay đổi đến tận gốc rễ, tùy thuộc vào nơi bị tổn thương ở bộ phận này. Thí dụ, các chú chuột bị tổn thương ở hai bên cấu tạo dưới đồi não (lateral hypothalamus) có thể chịu đói đến chết; chúng bỏ ăn, và nếu không bị ép buộc ăn chúng đành chịu chết. Còn các chú chuột bị tổn thương ở phần giữa bụng cấu tạo dưới đồi não (ventromedian hypothalamus) lại bị loại rối loạn ngược lại: ăn quá độ. Các chú chuột này có thể tăng gia thể trọng đến gấp 4 lần trọng lượng cơ thể trung bình của chúng. Các hiện tượng tương tự cũng xảy ra cho những người bị các khối u (tumors) ở vùng cấu tạo dưới đồi não.
Mặc dù rõ ràng rằng cấu tạo dưới đồi não đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa thực phẩm ăn vào nhưng cơ chế nào nhờ đó sinh vật thực hiện việc điều hòa này vẫn chưa được khắng định. Một số nhà nghiên cứu cho rằng cơ chế này ảnh hưởng đến cảm nhận cơn đói của sinh vật: còn những người khác lại giả định rằng cơ chế này trực tiếp chi phối các nối kết thần kinh (neural connections) điều khiển các bắp thịt liên quan đến hành vi ẩm thực.
Một lý thuyết còn cho rằng tổn thương ở cấu tạo dưới đồi sẽ ảnh hưởng đến đến thể trọng báo động nhờ đó người ta điều hòa được thực phẩm ăn vào. Điểm thể trọng báo động (weight set point) là mức thể trọng đặc biệt mà cơ thể cố gắng duy trì. Tác động giống như một cỗ máy báo động thể trọng bên trong cơ thể, cấu tạo dưới đồi não yêu cầu cơ thể nên ăn vào nhiều hơn hay ít đi. Theo cách giải thích này, tổn thương ở cấu tạo dưới đồi não nhất định sẽ đòi hỏi nâng cao hay hạ thấp điểm báo động này, và sinh vật khao khát đáp ứng mục tiêu bên trong cơ thể qua việc tăng thêm hay giảm bớt lượng tiêu thụ thức ăn.
Sự gia tăng thể trọng nhất thời làm cho số tế bào mỡ tăng vọt lên, do đó cũng có thể nâng mức thể trọng báo động lên cao. Bởi vì sau độ tuổi lên hai số tế bào mỡ bên trong cơ thể không còn bị giảm đi dù cho có bị sụt cân, nên mức thể trọng báo động cơ thể bị “kẹt” ở mức cao hơn ngoài ý muốn do những lần lên cân nhất thời ấy. Trong các trường hợp ấy, việc giảm cân trở nên khó khăn bởi vì người ta đã lâm vào tình thế xung đột thường xuyên với mức thể trọng báo động vốn đã trở thành cố hữu bên trong cơ thể của riêng mình rồi.
Các yếu tố khác cũng tác động chống lại các nỗ lực giảm cân của con người. Thí dụ, giữa mọi người có sự khác biệt rất lớn về khả năng chuyển hóa* (metabolism) là mức sản xuất và tiêu thụ năng lượng của cơ thể. Một số người, có mức chuyển hóa cao, dường như có thể ăn nhiều đến đâu tùy thích mà vẫn không lên cân; trong khi những người khác, có mức chuyển hóa thấp, có thể chỉ ăn bằng phân nửa số ấy là đã lên cân rồi. Thực ra, những người dễ dàng lên cân lại thuận lợi hơn về mặt sinh học: họ có ưu tiên dao động dễ dàng trong việc chuyển hóa thức ăn thành mô tế bào cơ thể. Ngược lại, những người dù ăn được rất nhiều mà vẫn không lên cân không tận dụng được thực phẩm ăn vào, bởi vì phần lớn đều bị thải ra – và họ vẫn gầy.
Cuối cùng, ngày càng có chứng cứ cho thấy một số người có thể bẩm sinh béo phì do di truyền. Một số công trình khảo cứu cho rằng những người dễ bị béo phì có thể tăng thể trọng phần lớn bởi vì họ thừa hưởng mức chuyển hóa thấp – chứ không phải vì ăn uống quá độ.
* Chuyển hóa (metabolism): Thuật ngữ này có 2 nghĩa:
1. Toàn bộ các thay
đổi về lý và hóa học xảy ra trong cơ thể để cơ thể tiếp tục hoạt động và tăng
trưởng. Tiến trình chuyển hóa bao gồm sự phân hủy các thành phần hữu cơ phức
tạp trong cơ thể kèm theo việc phóng thích năng lượng cần thiết cho các tiến
trình khác và tạo lặp các hợp chất phức tạp làm vật liệu cho các mô và cơ quan
từ các chất đơn giản hơn.
2. Toàn bộ các thay
đổi sinh hóa của một hợp chất thành cơ thể; thí dụ, sự chuyển hóa chất protein.
(Theo Từ điển Y
học)
B. CÁC NHÂN TỐ XÃ
HỘI TRONG HÀNH VI ẨM THỰC
Bạn vừa mới dùng
xong một bữa ăn thịnh soạn và cảm thấy no cứng. Bỗng nhiên, người chủ nhà thông
báo với vẻ khoa trương rằng ông ta sẽ dọn món tráng miệng “đặc sản gia đình”,
món chuối nướng phết bơ, và rằng ông đã mất phần lớn buổi chiều hôm đó để chuẩn
bị. Mặc dù đã no cứng và thậm chí không thích ăn chuối, nhưng vì lịch sự bạn
cũng ăn hết phần tráng miệng ấy.
Hiển nhiên, các
nhân tố sinh lý bên trong cơ thể không phải là toàn bộ câu chuyện khi tiến đến
giải thích hành vi ẩm thực của chúng ta. Các nhân tố xã hội bên ngoài, căn cứ
vào các quy tắc và ước lệ xã hội và vào những điều chúng ta đã tiêm nhiệm về
phong cách ẩm thực nhất định từ kinh nghiệm từng trải, cũng đóng một vai trò
quan trọng.
Thí dụ, hãy lấy một
sự kiện đơn giản là người ta có thói quen dùng điểm tâm, ăn trưa và cơm tối vào
các giờ giấc nhất định mỗi ngày. Bởi vì chúng ta đã quen thuộc với các giờ giấc
ấy, nên chúng ta thường cảm thấy đói vào các thời đếm ấy – đôi khi hoàn toàn
không dính líu gì đến các dấu hiệu đòi hỏi bên trong cơ thể cả. Tương tự, chúng
ta có khuynh hướng dùng số lượng thức ăn gần như cố định hàng ngày – dù rằng
khôi lượng tập thể dục, và do đó nhu cầu phục hồi năng lượng cho cơ thể chúng
ta có thể thay đổi từng ngày.
Sự chi phối quá mức
của các thói quen sinh hoạt hàng ngày do ước lệ xã hội, cũng như sự vô cảm đối
với các triệu chứng đói bên trong cơ thể, có liên quan đến chứng béo phì ở một
số người. Thí dụ, các công trinh nghiên cứu chứng minh rằng những người béo phì
ở cạnh một dĩa bánh quy thường dễ bị cám dỗ hơn những người bình thường – mặc
dù họ vừa mới ăn một ổ bánh sandwich kẹp đầy thịt. Như vậy, những người béo phì
dễ bị lôi cuốn bởi cám dỗ bên ngoài và ít lưu tâm đến các dấu hiệu đòi hỏi bên
trong cơ thể hơn, nên những người không bị chứng béo phị dễ điều hòa hành vi ẩm
thực hơn.
Vẫn còn có các nhân
tố khác gây ra chứng béo phì. Các đứa trẻ được cho thức ăn ngay sau khi gặp
phải chuyện buồn lòng đều biết, nhờ cơ chế tạo điều kiện hạn chế và tác động,
rằng hành vi ẩm thực liên kết với sự an ủi và xoa dịu, nên đến lúc trưởng thành
có thể chúng sẽ quen thói ăn uống bất kỳ lúc nào gặp chuyện bất như ý. Khi các
bậc cha mẹ dùng thức ăn để “chữa trị các chứng như stress, lo âu, và thất vọng
của con cái họ, thì hành vi ẩm thực của chúng có thể biến thành một phản ứng do
tiến trình học hỏi hình thành đối với bất kỳ khó chịu nào về mặt tình cảm, dẫn
đến tác phong ẩm thực không dính líu hoặc liên hệ rất ít đến các dấu hiệu đói
bên trong cơ thể.
C. CÁC RỐI LOẠN VỀ
ẨM THỰC
Trong các trường
hợp cực đoan, hành vi ẩm thực có thể bị rối loạn đến mức trở thành một đe dọa
cho sinh mệnh. Trong một chứng rối loạn nghiêm trọng là chứng chán ăn do bệnh
tâm thần* (anorexia nelvosa), người bệnh không còn muốn ăn uống gì cả trong khi
cứ một mực phủ nhận rằng hành vi và hình dáng của họ – có thể đã giống như bộ
xương – là không bình thường. Khoảng từ 15 đến 20% người chán ăn tâm thần này
thực tế đã bị chết vì nhịn ăn.
* Chứng chán
ăn do bệnh tâm thần(anorexia
nervosa): bệnh tâm lý thường thấy nhất ở phụ nữ chưa trưởng thành, trong đó
bệnh nhân không còn muốn ăn gì cà, thậm chí ghê tởm cả việc ăn uống nữa. Vấn đề
thường bắt đầu đơn giản là ước muốn sụt cân, rồi trở thành ăm kiêng. Kết quả là
tình trạng sút cân nghiêm trọng, đôi khi có thể chết vì nhịn đói. Nguyên nhân
bệnh khá phức tạp – các rắc rối trong gia đình và sự từ chối tình dục ở người
trưởng thành thường là các nhân tố liên quan. Bệnh nhân thường phải được chữa
trị bằng tâm lý liệu pháp.
Chứng chán ăn tâm
thần này chủ yếu tác hại đến các thiếu nữ từ 12 đến đôi mươi; mặc dù cả nam
giới lẫn nữ giới thuộc bất kỳ độ tuổi nào cũng có thể mắc phải. Những người bị
chứng rối loạn này nói chung đều xuất thân từ các gia đình có đời sống ổn định,
và họ thường là những người thành công, có sức quyến rũ, và tương đối giàu có.
Cuộc sống của họ xoay quanh thực phẩm: mặc dù bản thân ăn rất ít, họ cứ phải
thường xuyên nấu nướng cho người khác, đi mua sắm thực phẩm hay sách dạy nấu
ăn.
Một rối loạn có
liên hệ là chứng ăn vô độ (bulimia). Mắc phải rối loạn này, người bệnh rất háu
ăn, thường ăn vào số lượng thực phẩm nhiều đến mức khó tin (như chúng ta sẽ
thảo luận ở đoạn Ứng Dụng Tâm Lý Học dưới đây). Mỗi lần ăn họ có thể dễ dàng
ngốn hết một bánh nhân táo và cả một kg kem. Tiếp sau mỗi lần chè chén, người
bệnh có cảm giác phạm tội và u uất, rồi thường chọc cho nôn mửa ra hoặc uống
thuốc xổ để tống khứ các thực phẩm vừa mới ăn vào – hành vi này được xem là tẩy
xổ. Các chu kỳ chè chén – và – tẩy xổ không ngưng nghỉ; và việc dùng thuốc để
nôn mửa hay xổ ra như vậy có thể gây ra tình trạng mất cân bằng sinh hóa cơ thể
dẫn đến chứng suy tim (heart failure). Dù sao, nói chung thể trọng của người bị
chứng ăn vô độ vẫn giữ ở mức bình thường.
* Chứng ăn vô
độ (bulimia) ăn
quá nhiều không biết chán. Triệu chứng có thể do tâm thần, thí dụ xảy ra như là
một giai đoạn thuộc chứng chán ăn tâm thần, gọi là chứng ăn vô độ do bệnh tâm
thần (bulimia nervosa); hay cũng có thể do nguyên nhân thần kinh, như do tổn
thương ở vùng cấu tạo dưới đồi não (theo Từ điển Y học).
Chứng chán ăn tâm
thần hoặc chứng ăn vô độ này do các nguyên nhân nào gây ra? Một số nhà nghiên
cứu nghi ngờ do nguyên nhân sinh lý như tình trạng mất cân bằng hóa học ở cấu
tạo dưới đồi não hay ở tuyến tụy (pituitary gland). Các nhà tâm lý khác lại tin
rằng nguyên nhân bắt nguồn từ các kỳ vọng xã hội về giá trị của dáng dấp thon
thả đi đôi với ý niệm không muốn bị béo phì. Theo quan điểm này, những người bị
chứng chán ăn tâm thần và chứng ăn vô độ bám chặt vào quan điểm xã hội cho rằng
người ta không bao giờ để bị quá gầy rồi sinh ra lo âu về thể trọng của mình.
Phù hợp với lối giải thích này, một số làng đại học đề ra tiêu chuẩn công khai
về hành vi chè chén “thích hợp”, và mức độ tiệc tùng có liên hệ đến tình trạng
được mọi người ưa chuộng của nữ giới. Cuối cùng, một số nhà tâm lý cho rằng các
rối loạn này phát sinh do hậu quả của các bậc cha mẹ đòi hỏi quá đáng ở con cái
mình hoặc do các rắc rối khác trong gia đình.
Hiện nay chưa có
cách giải thích nào có giá trị toàn diện đối với chứng chán ăn tâm thần hay
chứng ăn vô độ. Không ngạc nhiên gì nếu như người ta khám phá được rằng chứng
chán ăn tâm thần và chứng ăn vô độ phát sinh do cả hai loại nguyên nhân sinh lý
lẫn xã hội, chính vì hành vi ẩm thực nói chung cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân
tố xã hội.
THỪA HƯỞNG THÀNH
QUẢ CỦA TÂM LÝ HỌC – KIÊNG ĂN VÀ GIẢM CÂN THÀNH CÔNG
Đối với nhiều
người, kiêng ăn (dieting) là một cuộc chiến đấu luôn luôn bị thất bại. Hầu hết
mọi người cuối cùng đều chịu thua, đành xuôi tay để cơ thể tăng trở lại số cân
đã giảm được. Rồi sau đó họ cố gắng trở lại, và bị kẹt vào cái vòng luẩn quẩn
giảm cân rồi lên cân dường như không có chỗ kết thúc. Nếu như chúng ta biết
được nguyên nhân của chứng béo phì là gì, thì sự kiện này không có gì đáng ngạc
nhiên cả, bởi vì dường như có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến thói quen ẩm thực
cũng như thể trọng của mỗi người.
Theo các chuyên
viên về vấn đề ăn kiêng, có một số điểm nên ghi nhớ khi nỗ lực giảm cân:
– Hãy nhớ rằng
không có con đường bằng phẳng dẫn đến việc kiểm soát được thể trọng. Bạn sẽ phải luôn luôn thực hiện các đổi thay trong cuộc
sống của mình nhằm giảm cân và giữ mình tránh bị lên cân trở lại. Bước cụ thể
nhất, giảm bớt lượng thực phẩm ăn vào chỉ là bước mở đầu cho quyết tâm trọn đời
nhằm thay đổi tập quán ăn uống của bạn. Bạn cũng phải bắt đầu tìm hiểu giá trị
năng lượng của thực phẩm ăn vào cũng như sự cân đối giữa các loại dưỡng chất
khác nhau trong toàn bộ lượng thực phẩm ăn vào.
– Đề ra các mục
tiêu hợp lý: Hãy hiểu rõ
rằng bạn muốn giảm bao nhiêu cân trước khi bắt đầu ăn kiêng. Đừng cố gắng giảm
cân quá nhiều và quá nhanh, nếu không bạn nhất định sẽ bị thất bại.
– Tập thể dục. Khi tập thể dục, bạn sẽ đốt lớp mỡ dự trữ dùng làm nhiên
liệu để vận động các cơ bắp. Khi lớp mỡ này đã dùng hết, có lẽ bạn sẽ giảm cân.
Lý thuyết mức thể trọng báo động còn cho rằng ưu điểm khác của việc tập thể dục
vừa phải và đều đặn là việc làm này có thể hạ thấp mức thể trọng báo động của
bạn. Mặc dù vẫn còn một số tranh luận về mức tập luyện chính xác phải là bao
nhiêu mới thực sự giảm cân được, nhưng đa số các chuyên viên đều khuyến cáo nên
tập ít nhất liên tiếp 30 phút các động tác thể dục nhẹ nhàng, và một tuần tập
ít nhất 3 lần (Nếu không có gì khác xảy ra, thì sự phóng thích chất endorphin
trong cơ thể sau buổi tập – đã bàn ở Chương 2 – cũng sẽ giúp bạn cảm thấy khỏe
khoắn hơn, cho dù bạn không giảm cân được).
– Tìm cách giảm bớt
ảnh hưởng của các kích thích bên ngoài do sinh hoạt xã hội đối với hành vi ẩm
thực của bạn. Có nhiều việc bạn
có thể thực hiện được nhằm giảm bớt khả năng bị lôi cuốn bởi thức ăn gợi cơn
thèm của bạn. Chẳng hạn, bạn có thể lấy khẩu phần ăn ít hơn cho mình hay có thể
rời khỏi bàn ăn trước khi nhìn thấy món tráng miệng được dọn ra. Thậm chí đừng
nên mua các loại thực phẩm ăn liền như đậu phộng hoặc khoai tây chiên; bởi vì
nếu không có sẵn trong tủ thức ăn, thì bạn sẽ không còn dịp lấy ra ăn nữa. Hãy
gói các loại thực phẩm trữ trong tủ lạnh bằng giấy bạc để bạn khỏi phải nhìn
thấy chúng. Bằng cách này, bạn sẽ không bị trêu ngươi do nhìn thấy thức ăn mỗi
khi mở tủ lạnh lấy nước uống.
– Tránh xa các lối
ăn kiêng theo mốt nhất thời.
Dù cho các lối ăn kiêng này thịnh hành đến mức nào vào bất cứ thời điểm nào,
thì các biện pháp ăn kiêng cực đoan, bao gồm chế độ ăn loãng (liquid diets),
thường không có hiệu quả trong dài hạn, mà ngược lại có thể gây nguy hiểm cho
sức khỏe của bạn.
– Khi đã đạt được
mức thể trọng mong muốn rồi, hãy duy trì thói quen mà bạn đã thiết lập được
trong thời kỳ ăn kiêng nhằm tránh bị lên cân trở lại, làm hỏng thành quả đã gặt
hái được. Hãy quan tâm cải
thiện vai trò của thực phẩm và hành vi ẩm thực trong cuộc sống của bạn cũng như
quan điểm nói chung của bạn về thang giá trị xã hội.
Nhưng trên cả mọi
thứ, đừng nên có cảm giác phạm tội nếu như bạn chưa thành công trong cuộc phấn
đấu giảm cân. Nếu như có chứng cứ cho thấy rằng chừng béo phì của bạn có thể do
yếu tố di truyền quyết định, thì tình trạng không thể giảm cân không nên xem là
một thất bại đáng kể trong cuộc sống. Thực ra, bạn vẫn còn có nhiều người đồng
hội đồng thuyền. Bởi vì khoảng 90% số người kiêng ăn đều bị tăng thể trọng trở
lại mức cũ. Và ngay cả khi được giảm cân chút ít cũng còn hơn không: chỉ cần
giảm bớt được 10% thể trọng là có thể giảm bớt các nguy cơ chủ yếu cho sức khỏe
của người bị chứng béo phì rồi.
ỨNG DỤNG TÂM LÝ HỌC
VẤN ĐỀ CHỮA TRỊ CÁC
RỐI LOẠN VỀ ẨM THỰC
Cô ta có thể là cô
gái ở nhà bên cạnh. Thông minh, chịu khó, thành công và xinh đẹp ở tuổi đôi
mươi, Christine Bergel là một người mẫu đúng tiêu chuẩn đối với những người
khác.
Điều rắc rối là
Christine không hề thấy mình theo cách người khác nhận xét về cô. Cô chán ghét
dáng dấp của mình rồi nẩy sinh tâm trạng lo âu về dáng dấp và thể trọng của cô.
Để đối phó với tâm trạng này, Christine âm thầm thực hiện nhiều lần chu kỳ ngốn
thật nhiều thức ăn vào rồi cho nôn mửa ra hết. Lúc chán chường nhất, cô ăn lấy
ăn để rồi sau đó cho nôn mửa ra kỳ hết, mỗi ngày đến ba lần như thế. Bị ám ảnh
bởi ý nghĩ mình quá béo, mỗi ngày cô tập thể dục đến ba giờ đồng hồ. Các chu kỳ
chè chén – và – tẩy xổ không ngưng nghỉ đi kèm theo với mặc cảm phạm tội và tâm
trạng u uất sâu sắc về việc làm mà cô biết là hành vi tự hủy hoại.
Rối loạn mà
Christine mắc phải là chứng ăn vô độ (bulimia). Khoảng từ 1 đến 2% thiếu nữ ở
độ tuổi học đại học mắc phải chứng bệnh này. Đây là một trong nhiều dạng rối
loạn về ẩm thực tác hại chủ yếu đến nữ giới ở độ tuổi chưa trưởng thành, mặc dù
cũng tìm thấy ở những người khác. Các chu kỳ chè chén – và – tẩy xổ theo thói
quen của chứng ăn vô độ có thể dẫn đến chứng rối loạn bộ máy tiêu hóa, hư răng,
và thậm chí cả chứng suy tim nữa.
Tuy nhiên, câu
chuyện của Christine lại có một kết thúc tốt đẹp. Nhận thức được mức nghiêm
trọng của trường hợp mình, Christine đã tự mình xin điều trị nội trú ở một cơ
quan y tế dành cho người bị các rối loạn về ẩm thực. Sau 6 tuần lễ chữa trị,
bao gồm liệu pháp cá nhân và tập thể, Christine đã kiểm soát được hành vi ẩm
thực cũng như ám ảnh của cô về dáng dấp của mình.
Cách chữa trị mà
Christine tiếp nhận tiêu biểu cho liệu pháp áp dựng cho những người bị các
chứng rối loạn về ẩm thực. Đối với người bị chứng ăn vô độ, cách chữa trị
thường bao gồm liệu pháp giúp bệnh nhân tìm hiểu nguyên nhân gây ra hành vi ăn
uống của họ. Ngoài ra, bệnh nhân được huấn luyện cách dùng các món ăn họ ưa
thích, nhưng không được cho nôn mửa ra sau đó. Mục đích của phương pháp này để
dạy cho người bệnh cách kiêm soát thói quen ẩm thực của họ.
Trong các trường
hợp bị chứng chán ăn, mục tiêu ban đầu của việc chữa trị là giúp cho bệnh nhân
lên cân. Việc làm này phải được thực hiện nhằm ngăn chặn tình trạng teo cơ và
các triệu chứng mất cân bằng sinh hóa trong cơ thể. Trong các ca nghiêm trọng,
hạnh nhân được cho ăn bằng ống dẫn qua đường mũi. Còn việc lên cân dài hạn được
xúc tiến bằng các biện pháp khen thưởng. Thí dụ, nếu chịu ăn bệnh nhân sẽ được
xem TV hoặc nhận thư thăm hỏi. Mục đích nói chung nhằm giúp cho bệnh nhân mỗi
ngày tăng thể trọng một cân Anh (gần 1/2 kg).
Sau khi người bệnh
chán ăn đã lên đủ cân, họ được cố vấn về mặt tâm lý. Liêu pháp này thường yêu
cầu cả gia đình góp sức, bởi vì chứng chán ăn đôi khi gắn liền với các rắc rối
trong gia đình.
Qua các biện pháp
chữa trị như thế, khoảng phân nửa tổng số người bị chứng chán ăn đã khỏi hẳn,
và đạt được mức thể trọng bình thường. Ngoài ra, khoảng từ 30 đến 40% đã lên
cân đôi chút, mặc dù vẫn còn dưới mức thể trọng trung bình.
III. CÁC NHU
CẦU VÀ ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY CON NGƯỜI: TÌNH DỤC CÙNG CÁC NHU CẦU THÀNH ĐẠT, KẾT
ĐOÀN VÀ QUYỀN LỰC
Có lẽ bạn thấy
người ta ít tranh luận về quan điểm cho rằng tình dục là một động lực thúc đẩy
rất khác biệt so với cơn khát và cơn đói. Không giống với hiện tượng đói chưa
một ai từng bị chết về nhu cầu tình dục không được thỏa mãn cả. Nhưng lại giống
như cơn đói, tình dục vẫn cứ là một lực lượng thúc đẩy nguyên sơ của chúng ta,
nó không chỉ là một nhu cầu sinh vật quan trọng mà còn là một trong nhu cầu xã
hội cực kỳ quan trọng nữa. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu động lực tình dục cũng
như một số thúc đẩy thứ cấp tiêu biểu, chỉ riêng con người mới có như: nhu cầu
thành đạt, kết đoàn và quyền lực.
1. Những điều cần
biết về cuộc sống: Động lực tình dục của con người
Bất kỳ ai đã từng
nhìn thấy hai con chó giao hợp cũng đều biết rằng hành vi tình dục có cơ sở
sinh vật. Hành vi tình dục của chúng diễn ra hoàn toàn tự phát, không cần đến
sự khêu gợi chi nhiều bởi đối phương. Các nhân tố di truyền của giống loài chi
phối hoàn toàn hành vi tình dục của loài vật. Chẳng hạn, hành vi của loài vật
chịu ảnh hưởng bởi một số hormone hiện diện trong máu. Ngoài ra, các con cái
chỉ chịu được một thời gian nhất định và tương đối hạn chế trong năm mà thôi.
Hành vi tình dục
của loài người phức tạp hơn, mặt dù tính đặc trưng sinh vật căn bản không khác
gì các loài động vật khác. Thí dụ, ở nam giới đến tuổi dậy thì tinh hoàn
(testes) tiết ra hormone tình dục nam androgen. Androgen không chỉ giúp phát
triển các đặc tính sinh dục nam thứ cấp, như mọc râu và giọng nói trầm mà còn
giúp tăng thêm sức thúc đẩy tình dục nữa. Mặc dù có những thay đổi dài hạn về
khối lượng sản sinh androgen – khôi lượng sản sinh nhiều nhất xảy ra ngay sau
thời kỳ các cơ quan sinh dục trưởng thành – nhưng trong ngắn hạn khối lượng sản
sinh lại khá đều đặn. Do đó, nam giới có khả năng (và ham thích) hoạt động tình
dục bất kể các chu kỳ sinh học. Hễ được kích thích đúng mức là tình dục được
đánh thức và hành vì tình dục nam có thể diễn ra.
Nữ giới lại biểu lộ
hành vì tình dục theo kiểu khác hẳn và phức tạp hơn nữa. Khi phát triển đến
tuổi dậy thì (puperty), hai buồng trứng (còn gọi là noãn sào – ovaries cơ quan
sinh dục chủ yếu của nữ giới) bắt đầu sản sinh ra oestrogen hormone sinh dục
nữ. Nhưng không phải bất cứ lúc nào oestrogen cũng được sản sinh, mà việc sản
sinh xảy ra theo chu kỳ. Lượng sản sinh nhiều nhất xảy ra trong thời kỳ phóng
nõan (còn gọi là rụng trứng – ovulation), khi một noãn được phóng thích ra khỏi
noãn sào, tạo cơ hội thụ tinh cao nhất cho một tinh trùng do nam giới đưa vào.
Trong khi ở loài vật thời kỳ quanh lúc phóng noãn là thời điểm duy nhất để con
cái chịu đực, thì con người lại khác hẳn. Mặt dù có sự dị biệt về sức thúc đẩy
tình dục ở một người, song nói chung nữ giới sẵn sàng chấp nhận làm tình vào
một lúc tùy thuộc vào các kích thích bên ngoài mà họ gặp phải trong hoàn cảnh
thích hợp.