Tâm lý học căn bản - Chương 09 - Phần 2

5. Lý thuyết tiến
trình đối nghịch: Các mặt Âm và Dương của Động lực

Đã từ lâu các triết
gia Trung Hoa cho rằng có hai lực lượng đối nghịch vận hành trong vũ trụ – Âm
và Dương – ảnh hưởng đến hành vi của con người. Quan điểm này là điềm báo trước
cho sự hình thành một mô trình nhận thức sâu xa hơn để giải thích động lực, gọi
là lý thuyết tiến trình đối nghịch. Lý thuyết giải thích động lực theo tiến
trình đối nghịch (Opponent–process theory of motivation) tìm cách giải thích
nguyên động lực ẩn nấp đằng sau các hiện tượng như chứng nghiện ma túy và niềm
khao khát đi tìm trạng thái kích thích sinh lý và xúc cảm bằng hành vi cực kỳ
nguy hiểm cho bản thân, như trong môn nhào lộn trên không chẳng hạn.

Theo lý thuyết tiến
trình đối nghịch, các kích thích lúc đầu làm tăng mức tỉnh táo thì sau đó sẽ
phát sinh một phản ứng đối nghịch nhằm xoa dịu hệ thần kinh, trong khi các kích
thích lúc đầu làm giảm mức tỉnh táo thì sau đó sẽ phát sinh một phản ứng đối
nghịch làm tăng mức tỉnh táo lên. Ngoài ra, đối với một kích thích tiếp nhận
thì phản ứng ban đầu vẫn giữ ở mức khá ổn định hoặc có lẽ còn giảm đi nữa,
trong khi tiến trình đối nghịch – tác động ngược lại phản ứng ban đầu – có
khuynh hướng mạnh thêm lên.

Hãy tìm hiểu một số
thí dụ cụ thể. Giả sử một người sử dụng nốt liều ma túy và đạt được cảm giác
khoái lạc phi thường. Theo lý thuyết này, sau khi cảm giác hưng phấn ban đầu
lắng xuống, thì một tiến trình ngược chiều sẽ kế tục, đẩy người ấy dao động
sang phía đối ngược của cảm giác khoái lạc, hay trạng thái u sầu trầm cảm.
Ngoài ra, lý thuyết này còn cho rằng tiến trình đối nghịch ấy (trầm cảm) có
khuynh hướng tăng cường vào một lần dùng ma tuý sau này, trong khi tiến trình
ban đầu (khoái lạc) có khuynh hướng yếu đi. Hậu quả là, tác động tiêu cực sẽ
tăng lên sau một lần dùng ma túy, trong khi cảm giác khoái lạc do ma túy đem
lại sẽ giảm đi. Cuối cùng, động lực thúc đẩy gia tăng tiến trình tiêu cực (và
tránh tiến trình đối nghịch gây ra hậu quả khó chịu) sẽ khiến cho người ấy sử
dụng lượng ma túy ngày càng nhiều hơn – hậu quả tất nhiên của tình trạng nghiện
ngập.

Các tiến trình đối
nghịch tác động theo chiều ngược lại trong trường hợp cảm giác ban đầu có tính
tiêu cực. Hãy tìm hiểu trường hợp một phụ nữ sắp sửa thực hiện cú nhảy nhào lộn
trên không (skydiving) đầu tiên ra khỏi phi cơ. Phản ứng ban đầu của cô ấy là
cảm giác sợ hãi. Nhưng sau đó tiến trình đối nghịch sẽ tác động: cảm giác hưng
phấn xuất hiện sau khi thực hiện xong cú nhảy. Lý thuyết tiến trình đối nghịch
cho rằng mỗi lần nhào lộn sau đó tiến trình gây sợ hãi ban đầu sẽ không còn
mãnh liệt nữa và thực tế còn giảm đi nữa, trong khi tiến trình đối nghịch gây
hưng phấn lại tăng lên. Do đó, cuối cùng động tác nhào lộn trên không biến
thành gần như thói nghiện ngập đối với người nhào lộn.

Tóm lại, lý thuyết
tiến trình đối nghịch góp phần giải thích nguyên nhân tại sao người ta bị thúc
đẩy mãnh liệt có hành vi không đem lại lợi ích thiết thực gì cho bản thân.
Thông thường chính tiến trình đối nghịch chứ không phải phản ứng ban đầu duy
trì động lực thúc đẩy người ta thực hiện các hành vi nguy hiểm ấy.

6. Lý thuyết tiến
trình trí tuệ

Các lý thuyết dùng
tiến trình trí tuệ để giải thích động lực
(cognitive theories of motivation) chú trọng đến vai trò của ý
tưởng, kỳ vọng, và sự am hiểu ngoại giới của con người. Chẳng hạn, theo một
trong các lý thuyết này là lý thuyết kỳ vọng – giá trị (expectancy – value
theory) thì hai loại tiến trình trí tuệ làm nền tảng cho hành vi ứng xử. Loại
thứ nhất là kỳ vọng rằng hành vi sẽ giúp chúng ta đạt được một mục tiêu nào đó,
và loại thứ hai là ý thức giá trị của mục tiêu ấy đối với chúng ta. Thí dụ, mức
độ thúc đẩy sinh viên học tập để chuẩn bị cho kỳ thi sẽ căn cứ đồng thời vào kỳ
vọng rằng công sức học tập của họ sẽ được đền bù đến mức nào (dưới hình thức
điểm thì khả quan) và vào giá trị mà họ đã gán cho điểm thi khả quan ấy. Nếu cả
hai thứ kỳ vọng và giá trị đều xứng đáng, thì sinh viên sẽ có động cơ học tập
chuyên cần; nhưng nếu như một trong hai thứ không xứng đáng thì động lực thúc
đẩy học tập sẽ kém đi.

Các lý thuyết này
phân biệt chủ yếu giữa động lực nội tại và ngoại lai. Động lực nội tại
(intrinsic motivation) khiến cho chúng ta tham dự vào một hoạt động vì sự ưa
thích riêng tư, chứ không vì bất kỳ phần thưởng hữu hình nào do hoạt động ấy
đem lại cho chúng ta. Ngược lại, động lực ngoại lai (extrinsic motivation) thúc
đẩy chúng ta làm việc gì đó vì một phần thưởng hữu hình.

Theo các khảo cứu
về hai loại động lực thúc đẩy này, chúng ta thường dễ kiên trì, nỗ lực làm
việc, và sáng tạo được công trình có giá trị hơn khi động lực thúc đẩy có tính
nội tại chứ không do từ bên ngoài. Hơn nữa, một số nhà tâm lý còn cho rằng
chính việc khen thưởng hành vi mong muốn có thể khiến cho động lực nội tại bị
giảm đi và động lực ngoại lai tăng thêm. Trong một thí nghiệm minh chứng cho
hiện tượng này, một nhóm học sinh mẫu giáo được hứa hẹn nhận phần thưởng cho nỗ
lực vẽ bằng bút màu (một hoạt động mà trước đây các học sinh này rất ưa thích).
Phần thưởng đã làm giảm nhiệt tình của chúng đối với việc làm này, bởi vì sau
đó các em đã kém sốt sắng trong giờ vẽ. Dường như chính lời hứa hẹn khen thưởng
đã xói mòn sự ham thích nội tâm đối với môn vẽ, làm chuyển hướng hành vi đó từ
chơi đùa trở thành công việc.

Các công trình
nghiên cứu như thế cho thấy tầm quan trọng của động lực khích lệ nội tại và
chứng tỏ rằng phần thưởng bên ngoài (hoặc như trong trường hợp này, đơn thuần
gây chú ý đến các phần thưởng) thực tế có thể làm hỏng nỗ lực cũng như phẩm
chất của thành quả. Do đó, các giáo viên nên thận trọng khi cho điểm A đối với
một bài tập xuất sắc. Thay vì thế, các nghiên cứu về động lực nội tại cho rằng
kết quả sẽ khả quan hơn nếu như giáo viên nhắc nhở các học sinh của mình về các
nguyên nhân nội tại thúc đẩy họ nỗ lực học tập – như niềm vui sướng đã làm được
một bài luận văn công phu chẳng hạn.

7. Quan điểm hạ cấp
của Maslow: xếp thứ tự các nhu cầu thúc đẩy

Eleanor Roosevelt,
Abraham Lincoln, và Albert Einstein có điểm gì giống nhau? Khá nhiều điểm giống
nhau theo quan điểm động lực của nhà tâm lý Abraham Maslow: Mỗi người ấy đều
thỏa mãn được các nhu cầu cao nhất của con người. Maslow cho rằng các nhu cầu
thúc đẩy khác nhau của con người được sắp xếp theo thứ tự hệ cấp, và rằng trước
khi các nhu cầu cao cấp, tế nhị được đáp ứng thì một số nhu cầu sơ đẳng phải
được thỏa mãn. Quan điểm của ông có thể được hình dung giống như một kim tự
tháp (xem Hình 9 –2), trong số các nhu cầu căn bản nhất nằm dưới đáy và các nhu
cầu cao cấp nằm ở phía đỉnh. Muốn cho một nhu cầu đặc biệt nào đó khởi động và
nhờ đó hướng dẫn hành vi của con người, thì các nhu cầu căn bản hơn trong hệ
cấp phải được thỏa mãn trước tiên.

Hình 9–2: Thứ tự hạ cấp của Maslow minh họa động lực thúc đẩy
chúng ta tiến lên theo hình tháp, từ một nền tảng rộng lớn nhất bao gồm các nhu
cầu sinh vật căn bản lên đến các nhu cầu cao cấp hơn (theo Maslow, 1970).

Các nhu cầu căn bản
nhất là những nhu cầu đã được miêu tả trên đây dưới dạng các thúc đẩy sơ đẳng:
các nhu cầu về nước uống, thực phẩm, chỗ ngủ, tình dục, và vân vân. Muốn tiến
lên nấc thang hệ cấp, người ta phải thỏa mãn các nhu cầu sinh lý căn bản này
trước đã. Các nhu cầu an toàn (safety needs) ở hệ cấp kế tiếp. Maslow cho rằng
người ta cần có một bối cảnh sinh hoạt an toàn và ổn định đế hoạt động hữu
hiệu. Các nhu cầu sinh lý và an toàn hợp thành các nhu cầu cấp thấp.

Chỉ khi nào các nhu
cầu căn bản ở cấp thấp được đáp ứng thì người ta mới có thể xét đến việc thỏa
mãn các nhu cầu cao hơn, bao gồm tình yêu và sự ràng buộc, danh dự, và ước muốn
tự hiện thực bản thân. Các nhu cầu tình yêu và ràng buộc bao gồm nhu cầu cho và
nhận tình thương và nhu cầu được là một thành viên trong một tập thể hoặc xã
hội. Sau khi các nhu cầu này được thỏa mãn, con người mới bắt đầu khao khát
được quí trọng. Theo quan điểm của Maslow, danh dự (esteem) liên quan đến nhu
cầu hình thành ý thức về giá trị bản thân thông qua thể hiện khiến cho người
khác biết đến uy thế và giá trị của mình.

Khi bốn nhóm nhu
cầu này đã được thỏa mãn – việc này không dễ dàng gì – người ta mới sẵn sàng cố
gắng đạt cho được cách nhu cầu cao cấp nhất là ước muốn tự hiện thực bản thân.
Tự hiện thực bản thân (self – actuallzation) là tình trạng tự thỏa mãn trong đó
người ta thực hiện được tiềm năng cao nhất của mình. Lần đầu tiên khi thảo luận
khái niệm này, Maslow dùng thuật ngữ này chỉ để miêu tả một số ít nhân vật nổi
tiếng như Eleanor Roosevelt, Lincoin, và Einstein. Nhưng khái niệm này không
giới hạn vào những người có tiếng tăm. Một bậc cha mẹ có tài tề gia, một vị
thầy dầy công sức bao năm đào tạo được nhiều thế hệ học sinh thành đạt, và một
nghệ sĩ thể hiện tiềm năng sáng tạo, tất cả đều đã tự hiện thực bản thân. Điều
quan trọng là những người ấy cảm thấy thanh thản và thỏa mãn rằng họ đã dốc hết
năng lực của mình để phụng sự xã hội. Về một ý nghĩa nào đó, thi tình trạng tự
hiện thực bản thân là bước ngoặc quan trọng trong cuộc sống của hầu hết mọi
người. Đến lúc đó người ta sẽ bớt ham muốn đi, mà ngược lại còn nẩy sinh cảm
nghĩ thỏa mãn với tình trạng hiện có của minh.

Điều không may là cho
đến nay các cuộc nghiên cứu đều không tán đồng cách xếp thứ tự đặc biệt các
giai đoạn thỏa mãn nhu cầu theo quan điểm của Maslow và còn cho thấy rằng rất
khó đánh giá khách quan mức tự hiện thực bản thân của một người. Tuy nhiên, chủ
trương của Maslow có hai điều quan trọng: nó nêu rõ được tính phức tạp của các
nhu cầu con người, và nó nhấn mạnh đến sự thực là khi nào các nhu cầu sinh lý
căn bản nhất chưa được thỏa mãn thì con người khó lòng quan tâm đến các ước
muốn cao cả hơn. Khi đói thì nỗi lo đầu tiên của con người là đi tìm cái ăn, họ
không có lòng dạ gì nghĩ đến các sự việc như tình yêu và lòng tự trọng. Quan
điểm này góp phần giải thích lý do tại sao các nạn nhân trong các tai họa như
nạn đói và chiến tranh thường hay lâm vào cảnh đổ vỡ các mối liên hệ gia đình
bình thường; và họ cũng thường bất chấp đến sự sống còn của bất kỳ ai ngoài bản
thân họ.

8. Kết từ về các lý
thuyết giải thích động lực

Đến nay chúng ta đã
tìm hiểu qua một số quan điểm lý thuyết khác biệt về động lực thúc đẩy hành vi
của con người. Tự nhiên chúng ta sẽ nẩy sinh thắc mắc không biết khảo hướng nào
cống hiến lối giải thích trọn vẹn nhất về hiện tượng động lực thúc đẩy. Trên
thực tế, một số khảo hướng bổ sung chứ không đối chọi nhau, nên thường sẽ hữu
ích nếu chúng ta vận dụng đồng thời một số quan điểm để tìm hiểu một dạng động
lực đặc biệt. Do đó, khi tiến hành tìm hiểu một số động cơ đặc biệt, như các
nhu cầu về thực phẩm, nước uống, tình dục, thành đạt, kết đoàn, và quyền lực,
chúng ta sẽ vận dụng một số lý thuyết để tìm hiểu sâu sắc hơn nữa về khái niệm
động lực.

9. Tóm tắt và học
ôn I

A. TÓM TẮT:

– Công trình khảo
cứu về động lực (motivation) tìm hiểu các yếu tố tiếp sức và chi phối hành vi
ứng xử của con người.

– Thúc đẩy (drive)
là tình trạng căng thẳng ép buộc phát sinh hành vi nhằm thỏa mãn một nhu cầu
nhất định. Các thúc đẩy sơ đẳng (primary drives) nói chung tác động theo nguyên
tắc hằng định nội môi (principle of homeotasis) theo đó một sinh vật nỗ lực bù
đắp các khoản thiếu hụt để tái lập trạng thái cân bằng thoải mái bên trong cơ
thể.

– Thuyết giảm bớt
thúc đẩy (drive – reduction theory) cho rằng hành vi phát sinh do các động lực
thức đẩy nhằm làm giảm bớt các nhu cầu sinh lý. Tuy nhiên, nó không giải thích
được lý do tại sao đôi khi con người đi tìm kích thích hay cảm giác mạnh.

– Thuyết tình trạng
tỉnh thức (arousal theory) chủ trương rằng chúng ta cố gắng duy trì một mức độ
kích thích và hoạt động nhất định. Lý thuyết này phù hợp với quy luật Yerkes –
Dodson minh chứng rằng trạng thái tỉnh táo quá cao hoặc quá thấp đều sẽ khiến
người ta đạt được thành quả kém khả quan trong công việc.

– Thuyết tiến trình
đối nghịch (opponent – process theory) cho rằng các biến chuyển về mức tỉnh táo
theo một chiều hướng sẽ làm nảy sinh một tác động nghịch chiều trong hệ thần
kinh.

– Các lý thuyết
dùng tiến trình trí tuệ để giải thích động lực (cognitive theories of
movation), điển hình bởi thuyết kỳ vọng – giá trị (expectancy – value theory),
cho rằng chính tư tưởng, kiến thức, và cách diễn dịch ngữ giới làm nền tảng cho
động lực thúc đẩy phát sinh hành vi của con người.

– Theo khảo hướng
động lực của Maslow, các nhu cầu thức đẩy tiến trình theo một hệ cấp từ các nhu
cầu căn bản nhất đến các nhu cầu cao thượng hơn. Cách phân loại nhu cầu đặc thù
này bao gồm nhu cầu sinh lý, an toàn, tình yêu và ràng buộc, danh dự, và tự
hiện thực bản thân.

B. HỌC ÔN:

1/... là lực lượng
hướng dẫn hành vi của con người đi theo một chiều hướng nhất định.

2/ Các kiểu hành vi
bẩm sinh, tiền định về mặt sinh học được gọi là...

3/ Vị giáo sư tâm
lý bảo bạn: “Giải thích hành vi thì dễ thôi! Khi thiếu thốn thứ gì chúng ta bị
thúc đẩy chiếm lấy thứ ấy.” Vị giáo sư của bạn căn cứ vào lý thuyết nào để giải
thích động lực?

4/ Theo lý thuyết
này, thực phẩm sẽ được xem là một..., còn thành công về học vấn sẽ được xem là
một...

5/ Nhờ uống nước
sau một cuộc tranh tài marathon, một vận động viên cố giữ cơ thể mình ở mức
hoạt động tối ưu. Tiến trình này gọi là gì?

6/ Lý thuyết...
phát biểu rằng chúng ta vừa bảo vệ bản thân khỏi bị kích thích quá mức vừa đi
tìm kích thích, hành vị này tùy thuộc vào mức độ hoạt động tối ưu đối với chúng
ta.

7/ Theo quy luật
Yerkes – Dodson, kích thích càng nhiều trong một tình huống thì thành quả đạt
được của con người càng khả quan hơn. Đúng hay Sai?...

8/ Dù không khát
nước, nhưng nếu được mời tôi cũng uống được một vại bia. Giả sử tôi rất thích
uống bia, lý thuyết nào về động lực sẽ tiên đoán được hành vi này của tôi?

9/ Lý thuyết giải
thích động lực căn cứ vào kỳ vọng và giá trị (the expectancy – value theory of
motivation) gồm có hai thành tố Hãy gọi tên và miêu tả chúng.

10/ Tôi giúp một cụ
già băng qua đường bởi vì làm việc thiện khiến tôi có cảm giác hạnh phúc. Loại
động lực nào tác động trong trường hợp này? Loại động lực nào sẽ tác động trong
trường hợp tôi giúp một cụ già băng qua đường bởi vì ông cụ đã thưởng cho tôi
20 đô la?

11/ Theo Maslow,
một người vô nghề nghiệp, vô gia đình, và không bạn bè vốn có thể tự hiện thực
bản thân được. Đúng hay sai?...

C. CÂU HỎI TỰ VẤN

Bạn vừa mới được
thuê làm cố vấn ở một nhà máy sản xuất ô tô với quy mô lớn. Mỗl lý thuyết động
lực đề cập ở đoạn này sẽ được vận dụng ra sao vào bối cảnh lao động ấy để tạo
động cơ thúc đẩy công nhân ra sức làm việc?

(Giải đáp câu
hỏi học ôn ở cuối chương)

II. NHU CẦU
VÀ ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY CON NGƯỜI: ĂN, UỐNG, VÀ DÁM MẠO HIỂM

Đối với Bob, học
hành xuất sắc có nghĩa là cậu sẽ vào được một trường luật nổi tiếng, điều mà
cậu xem là viên đá lót đường để tiến đến tương lai thành đạt. Cho nên, cậu
không bao giờ ngưng học tập và cố gắng tối đa trong các môn học. Nhưng nỗ lực học
tập không ngừng của cậu còn vượt quá mong mỏi vào trường luật, cậu không chỉ cố
gắng đạt được điểm cao mà còn muốn có thành tích cao hơn các em cùng lớp nữa.

Thực ra, Bob luôn
luôn nỗ lực đạt thành quả tốt nhất trong mọi việc. Cậu biến một sinh hoạt đơn
thuần nhất thành một cuộc ganh đua, tranh tài. Thậm chí cậu sẽ không chơi bài
nếu như thắng lợi không cần thiết đối với cậu. Tuy nhiên, có một vài sinh hoạt
cậu không chịu ganh đua. Cậu chỉ quan tâm khi nào nghĩ rằng mình có cơ hội
chiến thắng; cậu phớt lờ các thách đố quá khó khăn cũng như quá dễ dàng đối với
cậu.

Động lực nào hậu
thuẫn cho niềm khao khát thành đạt bền bỉ của Bob? Muốn trả lời câu hỏi này,
chúng ta phải bắt đầu tìm hiểu một số nhu cầu đặc biệt làm nền tảng cho hành vi
cư xử của con người.

Chúng ta sẽ khảo
xét một số nhu cầu quan trọng nhất. Bởi vì xét đến cùng thì con người là một
sinh vật, nên trước hết chúng ta tìm hiểu các thúc đẩy sơ đẳng mà các nhà tâm
lý quan tâm nhiều nhất: đó là cơn khát (thirsty) và cơn đói (hunger). Nhưng bởi
vì đa số hành vi của con người đều không có cơ sở hiển nhiên về mặt sinh học
nên chúng ta cũng sẽ tìm hiểu các thúc đẩy thứ cấp – là những thúc đẩy chỉ
riêng con người mới có, căn cứ vào các nhu cầu do học hỏi cũng như vào kinh
nghiệm quá khứ mà có, góp phần giải thích các hành vi như trong trường hợp của
Bob.

1. Cơn khát

Hơn 75% thể trạng
của chúng ta nhờ nước mà có, nên việc duy trì và điều hòa khối lượng chất lỏng
ấy là việc không dễ dàng gì đối với cơ thể chúng ta. Tâm quan trọng của tình
trạng khát nước nổi bật qua sự kiện nếu nhịn ăn hơn một tháng chúng ta vẫn có
thể sống còn, nhưng chỉ trong vài ngày không uống nước chúng ta sẽ chết. Nếu bị
mất rất nhiều nước vì đổ mồ hôi và tiểu tiện, thi cơn khát biểu thị một thúc
đẩy mạnh mẽ khiến chúng ta khó lòng kiềm chế được.

Các kích thích thúc
đẩy chúng ta uống nước phần lớn đều ở bên trong cơ thể, miệng khô môi nứt đi
kèm với cơn khát dù là một triệu chứng thiếu nước chứ không phải là nguyên
nhân. Thực ra, có ba cơ chế căn bản bên trong cơ thể gây ra tình trạng khát
nước. Thứ nhất, nồng độ muối bên trong các tế bào cơ thể biến đổi ấy theo khối
lượng dịch bên trong cơ thể. Khi nồng độ ấy lên đến một mức nhất định, nó sẽ
thúc đẩy cấu tạo dưới đồi của não (hypothalamus) hoạt động, do đó gây ra cảm
giác khát nước.

Cơ chế thứ hai gây
ra tình trạng khát nước biểu hiện qua sự giảm sụt tổng lượng dịch trong hệ tuần
hoàn. Thí dụ, người bị mất một lượng máu khá lớn do thương tích sẽ có cảm giác
khát nước dữ dội.

Cuối cùng, yếu tố
thứ ba gây ra tình trạng khát nước là sự gia tăng thân nhiệt hay trường hợp hao
phí quá nhiều năng lượng. Khi ấy cơn khát có lẽ do mật độ muối trong cơ thể
tăng lên, là hậu quả của tình trạng đổ mồ hôi quá nhiều. Và cơ chế này lý giải
được cảm giác kiệt sức toàn diện do tình trạng khát nước của Peter Potterfield
trong tai nạn té xuống núi được đề cập ở đầu chương này.

Tính phức tạp của
các cơ chế liên hệ đến tình trạng khát nước được minh họa qua trường hợp những
người không được uống nước trong 24 giờ. Những người này sẽ nôn nóng nốc cạn
2/3 lượng nước trong vòng 2 phút rưỡi. Sau đó, họ dịu bớt và uống chậm lại cho
đến khi uống đủ mức phục hồi lượng nước đã bị mất.

Điều đáng quan tâm
đối với tiến trình phục hồi nhanh chóng và chính xác này chính là tốc độ uống
nước. Động tác phục hồi nước xảy ra quá nhanh chóng đến mức không thể nói rằng
nước uống vào là đến ngay được các mô bị mất nước trong cơ thể. Như vậy, làm
thế nào cơ thể biết được lúc nào chúng ta uống đủ nước. Câu trả lời là cơ thể
dường như có một loại thước đo mức nước ở miệng và dạ dày, nó theo dõi lượng
nước uống vào và lập tức thông báo cho người uống ngay khi họ đã uống đủ lượng
nước đáp ứng nhu cầu. Do đó, khả năng điều hòa lượng nước uống vào của cơ thể
chúng ta không chỉ căn cứ trên số lượng nước trong các tế bào cơ thể vào một
thời điểm nhất định, mà còn căn cứ vào lượng nước uống qua miệng và dạ dày trên
con đường vào đến từng tế bào cơ thể.

2. Cơn đói:

Khoảng 1/4 dân số
Hoa Kỳ bị chứng béo phì (obesity). Chứng này được định nghĩa như là tình trạng
thể trọng vượt quá 20% so với thể trọng trung bình khuyến cáo đối với chiều cao
và tầm vóc của một cá nhân. Và việc giảm số thể trọng không cần thiết ấy đã trở
thành một ám ảnh đối với dân Mỹ. Nhiều người phí mất vô số thời gian, công sức,
và tiền của vào nỗ lực điều chỉnh và chủng loại thực phẩm ăn vào nhằm mục đích
giảm cân. Còn những người khác, gặp phải vấn đề mà nhiều người dân Mỹ thèm
muốn, lại lo tìm cách lên cân.

Điều đáng ngạc
nhiên là, trong đa số trường hợp, những người không mấy quan tâm theo dõi thể
trọng lại thường rất ít biến động thể trọng mặc dù các biến động rất lớn lao về
số lượng thực phẩm ăn vào và thời lượng tập thể dục của họ. Như vậy, hiển nhiên
vấn đề ẩm thực tùy thuộc vào một dạng hằng đinh nội môi nhất định.

* Béo phì (obesity): tình trạng cơ thể tích tụ quá nhiều mỡ thừa,
hầu hết trong các mô dưới da (subcuta–neous tissues). Một người bị coi là béo
phì khi cân nặng hơn 20% so với thể trọng khuyến cáo đối với chiều cao và tầm
vóc của y. Việc tích tụ mà do tiêu thụ nhiều thực phẩm hơn yêu cầu sản sinh đầy
đủ năng lượng cho sinh hoạt thường ngày. Béo phì là dạng rối loạn dinh dưỡng
(nutritional disorder) thường thấy nhất trong những năm gần đây (theo Từ điển Y
học).

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3