Hồi ký Phạm Duy (Quyển 1 - 2) - Quyển 2 - Chương 01 - 02

Thời Cách Mạng-Kháng Chiến

Mấy Lời Nói Đầu

Tập Hai này của TOÀN TẬP HỒI KÍ của
tôi, đáng lẽ chỉ nên viết ra khi tôi có cơ hội đi thăm lại những nẻo đường cũ, gặp
lại những bạn bè xưa, ôn lại những chuyện đã bị tro bụi phủ lên vì gần nửa thế kỉ
chia rẽ giữa người Việt đã khiến cho những chuyện đẹp nhất của một thời kì lịch
sử nào đó cũng dễ dàng trở thành những chuyện tuyên truyền chính trị. Nhưng ở
vào cái tuổi bảy mươi này, tôi không thể chờ đợi được nữa, bây giờ ngồi ở giữa
Thị Trấn Giữa Đàng, nhớ được chuyện gì thì cứ viết ra, nếu có dăm ba nhầm lẫn
to nhỏ nào đó về địa danh, tên người hay thứ tự của sự việc thì sẽ sửa sai sau.

Đã có nhiều các tác giả khác dùng
ngòi bút tài hoa của mình để nói lên được những cái vĩ đại của Cách Mạng hay
Kháng Chiến chống Pháp. Ở đây, tôi xin phép không thần thánh hóa một giai đoạn
lịch sử mà bất cứ người Việt Nam nào vào tuổi tôi cũng đều có đóng góp với vai
trò rất bình thường của một công dân.

Trong tập hồi kí này, thảng hoặc có sự
biểu lộ tình cảm của tôi đối với người này người nọ, đối với sự việc đó, sự việc
kia, xin bạn đọc hiểu cho đó là cảm xúc thành thực của tôi bốn mươi lăm năm trước
đây, lúc tôi còn dễ khóc, dễ tin theo... Đó không phải là thái độ hay hành động
chính trị tôi còn nuôi cho tới khi đã đầu bạc răng long như lúc này. Hơn thế nữa,
những tình cảm xa xưa đó cũng đã thay đổi cùng với tháng năm rồi.

Bởi vì âm nhạc luôn luôn có khả năng
gợi nhớ, tôi chỉ mong mỏi những dính líu của tôi vào thời cuộc được kể ra trong
tập hồi kí này có thể giúp cho những bạn yêu nhạc Việt Nam nói chung, yêu nhạc
của tôi nói riêng, biết thêm được những động cơ nào khiến cho từng bản nhạc của
tôi phải ra đời để rồi được hát lên hay được nghe thấy, được người đời nhớ lại hay
bị quên đi... và nhờ đó mà những bài hát phản ánh một thời lại được hát lên một
lần nữa chăng?

Tôi thành thực cám ơn những bạn cũ
như Phạm Thanh Liêm, Trịnh Ngọc Hiền, Đỗ Xuân Hợp, Hoàng Xuân Yên, Đoàn Bính, Lê
Văn-Vũ Bắc Tiến, Tạ Tỵ, Ngọc Bích, Phạm Nghệ, Hoài Trung-Phạm Đình Viêm, Đoàn
Châu Mậu, Mai Thảo, Nguyễn Hiền, Minh Đức-Hoài Trinh, Ngọc Khanh... và cám ơn vợ
tôi, những chứng nhân như tôi của cái thời xa xôi đó, đã nhắc cho tôi nhớ lại
nhiều sự việc tôi đã quên.

Thị Trấn Giữa Đàng

Midway City, California-U.S.A.

Mùa Thu 1989

Ai lướt đi ngoài sương gió

Không dừng chân đến em bẽ bàng...

Văn Cao-BUỒN TÀN THU

Chương
Một

Lính Nhật

Vào đầu tháng 3 năm 1945, gánh hát Đức
Huy Charlot Miều đang trong thời gian ghé lại tỉnh lị Cà Mau. Trên đường lưu diễn
khởi sự từ thành phố Hải Phòng ở miền Bắc cách đây hai năm, bây giờ gánh hát
vào tới một tỉnh cực xa của miền Nam rồi. Coi như lữ khách đã tới cuối con đường
xuyên Việt.

Tôi vẫn giữ chân phó quản lí và còn
giữ thêm vai trò của một người hát phụ diễn trong mục ca nhạc cải cách. Tôi
cũng khá nổi tiếng vì trước tôi chưa có ai đem Tân Nhạc vào đại chúng cả. Tôi
được sống hả hê một cuộc đời vô tư lự, nay đây mai đó. Rất bằng lòng với lối sống
giang hồ ăn đường ngủ chợ này. Đi tới đâu cũng vậy, trong gánh hát, từ vợ chồng
ông bầu, các đào kép, các nhạc sĩ tân hay cổ nhạc cho tới anh chị em lao công, tất
cả mọi người đều ăn ngủ ở ngay trong rạp hát. Thường thường sau những đêm hát, ai
cũng thích tìm chỗ ngủ tại những nơi được che khuất như ở sau những phông cảnh
hay sau lớp cánh gà, hoặc ở dưới hai bên hông hí trường là nơi khán giả ít tiền
thường đứng để coi hát. Nhưng về phần tôi, “phòng ngủ” bao giờ cũng là một cái
ghế bố đặt ở ngay giữa sân khấu, là nơi rộng rãi và thoáng khí nhất.

Lúc đó là vào buổi trưa ngày mùng 10
tháng 3 và theo thông lệ, tôi còn đang muốn ngủ thêm thì tôi bị khua dậy bởi những
tiếng ồn ào, loạn sì ngầu:

- Nhật đảo chính mày ơi.

- Đảo chính từ hôm qua lận. Toàn Quyền
Decoux bị giam rồi.

- Ở ngoài Bắc, nghe nói một số lính
Tây trốn được sang Tàu mà...

- ... ở Saigon và các tỉnh... bị bắt
hết cả rồi.

- Nè, có chúng nó chạy được về Cà Mau,
đang đóng đầy ở trong thị xã đó. Đi coi chơi, chúng mày.

- Đ... m... chắc hết đường chạy rồi...

Rạp hát ồn ào còn hơn cái chợ. Tôi
quen với cái chuyện thích ăn to nói lớn của các bạn đồng nghiệp từ lâu rồi. Giới
nghệ sĩ cải lương là những người rất nhàn rỗi. Suốt ngày không có việc gì làm, nếu
không ngủ mê ngủ mệt là ngồi nói chuyện trên trời dưới biển. Vì luôn luôn phải
đóng những vai trò, phần nhiều là những vai “anh hùng hào kiệt” cho nên kép hát
đem luôn nhân vật ban đêm vào đời sống ban ngày. Chúng tôi có danh từ xạo ke
dành cho những người đó.

Mọi người trong đoàn hát tranh nhau
bình luận về thời cuộc. Ai cũng có vẻ hãnh diện trước sự kiện người da vàng đã
đánh bại người da trắng. Ai cũng ngây thơ tin rằng với thuyết Đại Đông Á, từ
nay trở đi Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam trên con đường tự do, độc lập và phú cường.
Tôi cũng mừng thầm, nghĩ rằng:

- Thế là thời nô lệ của Việt Nam đã
cáo chung.

Kép Ba Hội người Huế, xưa nay vẫn là
người ba hoa nhất ở trong đoàn hát, hô to qua cái miệng đầy răng vàng:

- A lê. May cờ Nhật ngay.

Chị Miều, vợ của ông bầu Charlot Miều
vội vàng lấy rổ kim chỉ ra và nhờ tôi vẽ cho chị cái mẫu rất dễ vẽ của lá cờ Nhật
Bản, với hình tròn của mặt trời đỏ lửa trên một nền trắng tinh như tuyết. Tôi
cũng được sự phụ giúp của anh Dần mặt rỗ, tính tình hòa nhã và là người được
tôi rất quý mến. Cờ may xong, lại có vụ tranh nhau đem cờ ra cắm ở cổng rạp.

Nhưng không ai trong đoàn hát lại có
thể ngờ được rằng thằng đánh trống người Việt gốc Miên tên là Giỏi ở trong ban
nhạc lại là một thằng làm mật thám cho Tây (Hồi trước, chúng tôi quen gọi Pháp
là Tây). Ngay sau đó, không biết thằng Giỏi đi báo Cảnh Sát từ lúc nào mà Ba Hội,
anh Dần và tôi bị một lũ mật thám tới rạp hát còng tay lại và dẫn tới nhà tù của
thành phố Cà Mau, nhốt trong một phòng giam rất chật hẹp và bẩn thỉu. Không hiểu
tại sao trong đoàn hát lại chỉ có ba đứa chúng tôi bị bắt mà thôi? Bà bầu đâu
có bị bắt nhỉ?

Kép Ba Hội sợ xanh máu mặt:

- Chết cha cả lũ rồi.

Anh Dần vẫn im lặng từ khi bị bắt. Bây
giờ tôi mới thấy là mình ngu quá. Cái việc làm rất vô duyên là vẽ lá cờ Nhật
cho bà bầu có thể đem tới một cái chết lảng xẹt:

- Được đến đâu hay đến đó, cậu đừng
lo...

Nói như vậy nhưng trong lòng rất lo. Từ
ngày bỏ nhà ra đi khi mới mười bảy tuổi, làm đủ các thứ nghề trước khi được làm
cái nghề hát rong mà mình rất ưa thích, chưa bao giờ tôi bị lâm nguy như bây giờ...
Nghĩ tới mẹ, chỉ lo mẹ sẽ buồn nếu có điều gì không hay xẩy ra cho mình... Nghĩ
tới cuộc đi suốt từ Bắc vào Nam... Nghĩ tới những thành phố mình vừa đi qua. Thích
nhất là ở trong miền Nam này, thị xã nào cũng có một con sông lớn chẩy qua, chợ
bao giờ cũng họp ở ngay bến sông và cạnh chợ thể nào cũng phải có một rạp hát. Người
dân lúc nào cũng ăn no mà không cần mặc ấm. Ở cái xứ có mặt trời quanh năm này,
mặc quần áo bà ba càng rộng càng mát... Nghĩ tới đêm hòa nhạc tài tử mới đây tại
thị xã, từ chập tối cho tới gần sáng, mọi người chỉ đua nhau hát hết bài Vọng Cổ
này tới bài Vọng Cổ khác. Không có ai hát bất cứ một điệu nào ngoài điệu Vọng Cổ,
vậy mà nghe mãi không thấy chán... Nghĩ tới người đẹp răng vàng mà mình gặp
trong buổi hòa nhạc đó... Nghĩ mà giận cho thằng mật thám tên là Giỏi.

- Ông ra khỏi nhà tù này thì ông giết
mày...

Có bị bắt giam mới thấy thấm thía cho
số phận của người dân nhược tiểu da vàng sống dưới ách thống trị của dân da trắng.
Trước kia dù ghét Tây, muốn đánh Tây, muốn nước mình có tự do và độc lập nhưng
mình chỉ luôn luôn là kẻ đứng ngoài cuộc chơi. Bây giờ thì được nếm mùi nhà tù
thực dân rồi nhé. Thành “nhà chính trị” rồi nghe. Dù rằng chỉ là trò chơi chính
trị bất đắc dĩ và đượm vị khôi hài. Tức nhất là nó đã bị Nhật đảo chính rồi mà
nó còn nắm tính mệnh của mình ở trong tay. Nghĩ tới nghĩ lui thì đã quá nửa đêm.

Có thể lúc đó đám lính Pháp còn đang
hoảng hốt trong cơn rút lui và tinh thần của lũ đội xếp, mã tà Việt Nam rất là
hoang mang cho nên ba đứa chúng tôi chưa bị đánh đập hay bị đem ra xử bắn thì
lính Nhật đã tới bao vây thị xã Cà Mau. Đám tàn quân Pháp bị tước khí giới và
được lính Nhật dẫn đi. Lũ mã tà, đội xếp Việt Nam cũng trốn đi đâu hết cả rồi. Trong
đêm khuya tối om và lặng lẽ, bỗng nhiên một tiểu đội lính Nhật Bản tới mở cửa
nhà tù. Ba nhà “ái quốc” là chúng tôi vội vàng arigato nhắng nhít cả lên, rồi ù
té chạy về rạp hát sau non một nửa ngày và già một nửa đêm hú vía.

Chuyện tôi bị Tây bắt này thật ra
cũng chẳng có gì là đáng kể so với những hành động chính trị của nhưng người
làm cách mạng thứ thiệt, nhưng tôi đã có lần nhận ra rằng cái biến cố chính trị
(sic) vô duyên này là một dấu vết rất quý giá đối tôi. Ngọn lửa đấu tranh trong
bất cứ một thanh niên Việt Nam nào cũng thường chỉ được âm ỷ ở trong lòng. Trước
khi ngọn lửa chung là Cách Mạng lùa tới để giúp cho ngọn lửa của từng cá nhân
bùng lên, tối thiểu cái vụ tôi bị Tây bắt cũng làm cho lòng tôi rồi đây, sẽ bắt
lửa nhanh hơn.

Trong khi tôi vô tình dính líu vào vụ
đảo chính như vậy, ở nhiều nơi trong nước có nhiều thanh niên tin rằng Nhật Bản
thực sự muốn giúp cho Việt Nam thoát ra khỏi ách thực dân Pháp. Họ tích cực
tham gia cuộc đảo chính. Tại Hà Nội, có những sinh viên như Trần Văn Nhung đi
tiên phong trong đám lính Nhật tới đánh thành Cửa Bắc rồi bị bắn chết ngay
trong phút đầu tiên của vụ đảo chính và Nguyễn Thiện Giám bị hi sinh trong một
trường hợp khác. Ngày 11 tháng 3 năm 45, một buổi lễ truy điệu anh hùng tử sĩ
hi sinh cho nền thịnh vượng chung của Đại Đông Á được tổ chức rất long trọng tại
Nhà Hát Lớn Hà Nội. Dì ruột của Nguyễn Thiện Giám cùng với con gái tên là Phạm
Thị Thái (sau này có tên nghệ sĩ là Thái Hằng) được mời tới dự lễ truy điệu.

Cuộc đảo chính này không có gì là gay
cấn lắm, vì không có sự giao tranh dữ dội giữa hai Quân Đội Nhật và Pháp, nhưng
sự giao thông trên toàn quốc bị đình trệ. Gánh hát Đức Huy-Charlot Miều muốn di
chuyển từ Cà Mau qua Rạch Giá nhưng vì còn lệnh giới nghiêm trong vụ đảo chính
cho nên chưa có một hãng xe đò nào dám cho xe chạy cả. Nhờ sự quen biết với mấy
người lính Nhật tới giải cứu, tôi bèn tới gặp họ để xin họ cho gánh hát đi nhờ
trên những xe nhà binh tới địa điểm hát đã được định đoạt từ trước là thị xã Rạch
Giá. Tôi trổ tài đem vài bài hát Nhật Bản mà tôi học lóm được từ trước như
Shina No Yoru, Mori No, Kohan No Yado... để hát cho lính Nhật nghe, do đó họ bằng
lòng chở đoàn hát của chúng tôi đi từ Cà Mau qua Rạch Giá. Mấy cô đào trong
gánh hát xưa nay mê tôi rồi bây giờ còn phục tôi quá xá...

Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm...

Bàng Bá Lân

Chương
Hai

Sau trên nửa thế kỉ, kể từ ngày mới
quen nhau ở Saigon, 1944

Phạm Xuân Thái, Phạm Duy gặp lại nhau
tại Paris, 1995...

Sau một thời gian đi hát tại vài tỉnh
ở Cao Miên và ở Hậu Giang, khi gánh hát trở về đóng đô tại rạp Aristo ở Saigon
vào giữa năm 1945, tôi bị sưng phổi và phải vào nằm nhà thương để điều trị. Khi
đã bình phục, tôi quyết định từ giã gánh hát Đức Huy-Charlot Miều, gánh hát
rong đã cho tôi cơ hội đi khắp mọi nơi trên đất nước và quan trọng nhất, đã cho
tôi một thí điểm để đưa ra những bài Tân Nhạc đầu tiên của Việt Nam. Tôi nổi tiếng
là nhờ gánh hát. Cám ơn vô cùng, ôi Đức Huy-Charlot Miều!

Tôi xách chiếc va li nhỏ bé và cây
đàn guitare cũ kĩ tới ở nhờ nhà một người bạn là Phạm Xuân Thái ở số 13 đường
Paul Bert trong khu Dakao (Tân Định). Phạm Xuân Thái là người Bắc vào sinh sống
ở Saigon từ lâu, dáng người mảnh khảnh, ăn nói hòa nhã, tính tình dễ dãi và
thích văn nghệ lắm. Anh lấy vợ làm nghề bán vải ở khu phố chung quanh Chợ Bến
Thành, được vợ nuôi để... chẳng làm gì cả, dù đã có thời anh tấp tểnh làm một mục
sư của đạo Tin Lành do đó anh nói tiếng Anh rất giỏi. Tôi quen với Phạm Xuân Thái
từ ngày mới theo gánh hát vào Nam và sau một thời gian khá lâu, bây giờ chúng
tôi mới gặp lại nhau.

Phạm Xuân Thái ngay từ lúc này đã
nuôi nhiều mộng làm chính trị và mười năm sau, anh sẽ làm Bộ Trưởng Bộ Thông
Tin trong Chính Phủ Ngô Đình Diệm. Lúc đó, anh lấy thêm một người vợ bé. Người
này tên là Nguyễn Thị Thạnh và có thời là người tình của Tướng Nguyễn Bình
trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến Nam Bộ.

Saigon sau ngày Nhật đảo chính không
còn nhiều bóng dáng kiêu kì của những ông Tây bà Đầm đi lượn phố nữa nhưng bộ mặt
của thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông này cũng không thay đổi gì mấy.
Lúc đó Saigon chưa dính liền với Chợ Lớn và Gia Định. Ngồi trên xe điện đi từ
Chợ Bến Thành vào tới bến Nancy, nhìn ra hai bên đường, thỉnh thoảng ta thấy có
những khoảng đất trống với ít nhiều rác rưởi. Nhưng từ bến Nancy vào cho tới Chợ
Lớn thì có khi là cả một cánh đồng hoang với bùn lầy nước đọng, ruồi muỗi bay đầy.
Giữa Saigon và Gia Định còn có những ruộng lúa hay có những khu đất được dùng để
đổ rác của Đô Thành.

Dân số Saigon lúc đó chắc chưa tới một
triệu người. Người Pháp vắng mặt ở phố phường nhưng lính Nhật đóng ở Saigon
đông hơn lúc trước. Họ chiếm một vài khu trong thành phố, ngăn không cho ai qua
lại, chiều chiều họ ra giữa đường chơi baseball là môn thể thao mà chúng tôi
không thông thạo như môn đá bóng. Dân chúng còn được nếm mùi công lí tàn bạo của
lính Nhật là kẻ cắp nào mà bị bắt quả tang là bị chặt tay ngay, khỏi cần phải
đưa ra tòa.

Thế Chiến II gần tới hồi kết thúc
nhưng Tàu bay Mỹ vẫn tới thả bom. Hai phi cơ B.24 của Mỹ bị bắn rơi ở Đức Hòa, gần
Saigon. Đời sống có vẻ khó khăn. Các bà nội trợ rên lên vì nhu yếu phẩm không
những đã khan, còn lên giá đùng đùng. Tôi lấy lại được sức khỏe sau những ngày
nằm dưỡng bệnh.

Sau khi nếm mùi “chính trị” ở Cà Mau
rồi, bây giờ tôi chú ý tới tình hình nước mình sau ngày mùng 9 tháng 3. Đọc báo
có bài tuyên bố của đảng trưởng Đảng Việt Nam Ái Quốc là Hồ Nhựt Tân, tôi thấy
háo hức trong lòng vì những câu viết đầy hi vọng: Trong vùng Đại-Đông-Á mông
mênh bát ngát, dưới ánh sáng lãnh đạo rực rỡ chói lọi của nước Đại-Nippon, dân
tộc Việt Nam gồm có năng lực đầy đủ hi vọng sẽ kiến thiết một quốc gia đúng
theo qui tắc công bằng và tự do...

Tôi cũng thấy vui vui khi người cha đỡ
đầu của tôi là thầy Trần Trọng Kim từ Singapore trở về nước để làm vị Thủ Tướng
đầu tiên của Việt Nam. Tuy nhiên tôi không thấy trong dân chúng có một sự phấn
khởi nào trước cái gọi là độc lập-tự do trong Khối Đại Đông Á này. Tôi còn thấy
dường như chẳng có gì là thay đổi cả. Vua Bảo Đại được người Nhật đem món quà độc
lập đến tận miệng nhưng ở Huế, Đại Sứ Nhật Yokohama giữ chức quyền Khâm Sứ thay
thế cho Khâm Sứ Pháp.

Ở miền Nam, qua viên quyền Thống Đốc
Minoda, người Nhật thay thế Pháp, dùng người Việt làm tay sai. Do đó, khi có một
anh bạn người Huế tên là Hoài rủ rê tôi vào làm việc trong một cơ quan mật vụ của
người Nhật, tôi từ chối ngay. Chắc ông thầy đỡ đầu cũ của tôi là Trần Trọng Kim
cũng sớm nhìn ra sự thực nên thầy sẽ rút lui ra khỏi chính trường một cách dễ
dàng như lúc thầy nhận chức vụ Thủ Tướng sau ngày Nhật đảo chính.

Trần Trọng Kim, nhà học giả, người
cha đỡ đầu của tôi

Vị Thủ Tướng đầu tiên của Nước Việt
Nam

Ảnh chụp ít lâu trước khi cụ qua đời

Ở chung với Bộ Trưởng Thông Tin tương
lai là Phạm Xuân Thái, nhờ ở những cuộc đàm đạo với anh ta, tôi được hiểu biết
hơn về chính trị. Hiểu nhưng không mê. Tôi bắt đầu nghe đài Radio New Delhi và
rất thích nhạc hiệu của Đài này.

Đây là lần đầu tiên tôi có cái nhìn
ra thế giới. Từ khi Thế Chiến II xẩy ra, dù có những biến chuyển chính trị rất
lớn như Pháp bị thua trận, Nhật tiến vào Đông Dương, máy bay Mỹ thả bom ở Hải
Phòng ngay khi tôi vừa gia nhập gánh hát Đức Huy-Charlot Miều ở hải cảng này...
nhưng tôi vẫn sống dửng dưng trước thời cuộc. Bây giờ thì khác. Tôi theo dõi những
sự việc xẩy ra ở trên thế giới và ở trong nước.

Tôi vẫn tiếp tục đi hát trên Đài Phát
Thanh và một vài nơi khác. Nhờ được mời tham gia một buổi hát lấy tiền giúp nạn
đói ở ngoài Bắc, tôi biết rõ hơn về cái chết của hai triệu đồng bào. Vào đầu
năm đó, vì đi hát ở những miền rất hẻo lánh ở Hậu Giang, tôi không biết gì về nạn
đói năm Ất Dậu cả.

Tôi chỉ ngạc nhiên khi thấy ở nhiều
nơi mà tôi tới hát, trước ngày Nhật đảo chính, tụi “Tây nhà đèn” cho đốt những
lò máy biến điện bằng thóc chứ không phải bằng than. Khi mới trở về Saigon, có
nhiều chuyện ở ngay trước mắt làm cho chuyện chết đói ở xa xôi bị nhạt mờ đi. Nhưng
tới nay thì tôi biết là do âm mưu của Pháp trong năm 1944, bắt nông dân miền Bắc
có bao nhiêu thóc là phải bán hết cho chính phủ để Pháp cung cấp gạo cho Nhật
nuôi quân. Do đó mà nông dân miền Bắc không còn gạo dự trữ để ăn và hai triệu
dân chết đói. Trong Nam thì thừa thóc gạo đến nỗi phải đốt đi nhưng Pháp không
chở gạo ra tiếp tế cho dân ngoài Bắc.

Người chết đói trong năm Ất Dậu

Tôi không được nhìn thấy tận mắt đồng
bào của tôi chết đói nhưng nghe kể lại cũng thấy rùng mình: ở một số tỉnh, trên
đường quê cũng như trên hè phố - và ngay ở Hà Nội - cứ đi quá dăm ba chục thước
là có vài ba cái xác nằm chồng chất lên nhau. Có người ngắc ngoải rồi còn cố
ghé miệng ngoạm vào xác chết nằm bên ở cạnh để nhay miếng thịt. Nhay được rồi
thì phát điên. Điều chua sót là trong khi cả Pháp lẫn Nhật gần như toa rập với
nhau để cho hai triệu người mình chết đói thì người Tàu mại bản tích trữ gạo để
bán cho người có tiền. Cho nên đã có câu ca dao của thời đó ghi lại chuyện này
như sau:

Mấy năm thiếu gạo vì ai

Làm dân
ta chết mất hai triệu người

Tàu cười
(tích trữ gạo) Tây khóc (bị đảo chính) Nhật no

Việt Nam hết gạo, chết co đầy đường.

Hình ảnh trong bài thơ của Văn Cao:

“Chiếc Xe Xác Trên Phường Dạ Lạc”

Tôi càng thêm căm thù cả Pháp lẫn Nhật,
dù đã có lúc tôi mang ơn tiểu đội lính Nhật đã tới cứu tôi vào ngày 10 tháng 3
năm 1945. Tôi sẽ dễ dàng đón nhận những khẩu hiệu như chống thực dân Pháp và
phát xít Nhật, Tối thiểu thì tôi cũng thấy rằng một cuộc khởi nghĩa đánh cả Tây
lẫn Nhật là một sự rửa hận cho hai triệu người chết đói.

Tuy không còn đi hát rong và đã ở một
chỗ nhất định nhưng tôi cũng không có một liên lạc nào với gia đình của tôi ở
ngoài Bắc trong đó tôi chỉ nhìn thấy một sự lạnh nhạt nơi mọi người, ngoài tình
thương - tôi nghĩ vậy - rất câm nín của mẹ tôi.

Từ khi bỏ nhà ra đi cho tới mùa Thu
năm 1945 này, tôi chưa hề nhận được một lá thư nào của mẹ. Bây giờ, vào tuổi
hai mươi bốn, sống tại một thành phố lớn nhất của một nước Việt Nam trên danh
nghĩa đã được độc lập, tôi nóng lòng muốn làm một cái gì cho đất nước. Nhưng có
lẽ cái chính phủ do người Nhật dựng lên với một thành phần toàn các nhà chính
khách hơn là cách mạng và cái chính quyền của vị Khâm Sai ở miền Nam lúc đó là
Nguyễn Văn Sâm không có một chính sách nào để vận động thanh niên tham gia vào
việc nước.

Nếu có một chương trình nào đó cho
thanh niên thì chỉ là vài ba cuộc biểu tình để... cám ơn nước Nhật Bản đã giúp
cho Việt Nam lật đổ Pháp. Thấy chính phủ Trần Trọng Kim đưa ra một chương trình
gọi là hưng quốc, nhưng khi nhìn lá cờ quẻ li và nghe bản quốc ca Đăng Đàn Cung,
tôi chẳng thấy rung động gì cả. Có lẽ vì lúc đó chưa có một người nào chết cho
lá cờ và bài hát đó chăng?

Tôi sống rất cô đơn cho tới khi, cũng
như mọi thanh niên cùng lớp tuổi, tôi bị lôi cuốn vào một cơn cuồng phong mà dường
như tôi cũng đã chờ đợi từ lâu. Đó là một cuộc cách mạng thường được gọi tên là
Cách Mạng Tháng Tám...

Non nước
đang chờ gót lãng du

Đâu đây
vẳng tiếng hát chinh phu...

Thế Lữ

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3