Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 5) - Chương 08 - Phần 1

Chương 8

Chưởng thượng san hô liên bất đắc[5]

[5] Một câu thơ trong bài Cổ ý kỳ 6
của Ngô Vĩ Nghiệp, ý rằng một thứ dù quý báu đến mấy nhưng nếu không phải là
của mình thì đừng cố níu giữ - ND.

Tôi
cố ý né tránh Huyền Thanh, né tránh sự lưu luyến và khát khao đối với chuyện
xưa. Đứng nhìn từ chùa Cam Lộ, tôi có thể thấy được một góc tường trắng ngói
xanh của Thanh Lương Đài, thế nhưng vừa thoáng liếc qua tôi đã chua xót không
thôi, không dám nhìn tiếp nữa.

Sáng
sớm ba ngày sau, tôi không thể không đổi sang bộ mặt khác. Lạnh lùng nhìn bản
thân trong gương, sắc mặt tôi bình lặng, không có lấy một chút biểu cảm nào.
Bấy lâu nay tôi đã quen mặc áo ni cô, gần như chẳng trang điểm chút nào, và
Huyền Lăng khi mới gặp lại tôi đã thấy một Chân Hoàn trong bộ dạng nữ tử Phật
môn, điềm đạm mộc mạc. Vậy thì hôm nay, khi trở lại hậu cung, tôi phải ăn mặc
sao cho thật diễm lệ, thật quý phái, khiến Huyền Lăng vừa nhìn thấy tôi đã phải
chấn động tâm thần.

Tôi
mở rương, chọn lấy bộ đồ cao quý diễm lệ nhất mà mặc vào người. Lúc này đây,
trên người tôi là một chiếc áo gấm thêu hoa có ống tay áo rộng, bên trên được
điểm xuyết bằng rất nhiều sợi tua ngắn có đính những viên đá quý nhỏ long lanh,
ngoài ra nơi tay áo còn đính kèm một chiếc khăn sa mỏng dài chừng hơn một
trượng, hết sức thướt tha. Ngó nhìn xuống dưới, đó là một chiếc váy dài chạm
đất có màu vàng tươi, chất vải mềm mại, mịn màng, hơn nữa còn tỏa ra mùi hương
thoang thoảng dễ chịu. Bên trên chiếc váy có hình thêu một con chim oanh đậu
trên cành hải đường hết sức sống động, từng đường chỉ còn được điểm xuyết bằng
những viên trân châu nhỏ long lanh, số lượng nhiều không kể xiết, thể hiện rõ
sự xa hoa quý phái của hoàng gia.

Tôi
đưa mắt ra hiệu cho Hoán Bích và Cận Tịch không được động tay vào, tự mình gỡ
bỏ búi tóc kiểu Thái hư tượng trưng cho người xuất gia, để mái tóc đen nhánh
dài gần chạm đất buông xõa ra sau đầu, dùng chiếc lược sừng tê nạm ngọc chải
tóc cẩn thận. Sau đó tôi tự tay búi cho mình kiểu tóc Kinh hồng quy vân, trên
mỗi búi tóc ở hai bên trái phải có cài sáu cây trâm bạch ngọc đính chuông bạc,
khi bước đi sẽ vang lên những tiếng đinh đang trong trẻo vui tai. Tại búi tóc
chính giữa, tôi cài một chiếc bộ dao phượng hoàng tung cánh bằng vàng ròng nạm
ngọc, đầu phượng chế thành từ vàng lá, các vị trí như cổ, ngực, bụng, chân thì
dùng những sợi vàng mảnh như sợi tóc làm thành hình dạng lông vũ phủ ngoài, bên
trên nạm bảo thạch đủ các màu, nơi miệng phượng hoàng có ngậm một dải tua dài
đính đủ các loại châu ngọc, cuối dải tua là một viên trân châu tròn xoe vừa
khéo chạm đến vị trí mi tâm của tôi, cực kỳ bắt mắt. Nơi cổ tôi không đeo bất cứ
thứ đồ trang sức gì, chỉ bảo Cận Tịch vẽ giúp lên đó một bức hình hoa hải đường
thật tinh tế với bông hoa màu đỏ nổi bật giữa những phiến lá màu xanh, nền lại
được trải bằng bột bạc, sau khi hoàn thành liền toát ra một vẻ triền miên da
diết khó mà miêu tả bằng lời. Hai tai tôi thì đeo một cặp hoa tai làm bằng vàng
ròng nạm mã não đỏ, bên trên có những sợi tua dài chạm tới tận vai, khiến tôi
cảm thấy hơi lành lạnh, ngưa ngứa.

Tôi
vẽ cho mình hai dải lông mày hình núi xa, lại đánh một lớp phấn đỏ rồi dùng nước
sương hòa bột ngọc trai bôi lên, làm thành Phi hà trang, sắc mặt vừa trắng ngần
lại vừa ánh lên những tia đỏ tươi nhàn nhạt. Đưa mắt liếc thấy cây bút vẽ trong
hộp đồ trang điểm, lòng tôi thầm run lên, muốn vẽ một bông hoa lê ở nơi mi tâm
của mình. Tôi bất giác nhớ lại dịp mình say rượu ngủ dưới gốc lê ở sân sau
Đường Lê cung, một cánh hoa lê vừa khéo rơi xuống mi tâm, Huyền Lăng từng nói
làn da tôi trắng như hoa lê, hoa rơi vào giữa đôi hàng lông mày thì không hề
nổi bật, thế là bèn tự tay cầm bút vẽ một bông hoa lê vào nơi mi tâm của tôi,
tạo ra kiểu trang điểm Giảo lê trang, nhất thời mọi người trong cung đua nhau
học theo. Đó là thời điểm tôi còn được sủng hạnh, cũng là chút tình ý của tôi
với Huyền Lăng năm xưa. Giờ đây, nếu tôi mà trang điểm theo lối đó rồi để Huyền
Lăng nhìn thấy, y nhất định sẽ nhớ lại tình xưa, sự thương yêu trong lòng ắt
lại càng nồng đậm.

Thế
rồi tôi bèn cầm bút vẽ lên, Hoán Bích hiểu ý lập tức đưa một hộp son tới cho
tôi nhúng bút. Nghiêng đầu ngó ra phía ngoài, thấy một bóng dáng cao lớn đã đợi
từ lâu, lòng tôi bỗng trào dâng nỗi đớn đau vô tận. Bóng dáng ấy thật quen
thuộc biết bao, dường như đời này kiếp này sẽ mãi mãi khắc sâu trong trái tim
tôi. Dù đã quyết định sẽ trở lại bên cạnh Huyền Lăng, nhận sự ân sủng, dù đã
quyết định một lòng một dạ diễn tốt vai “Hoàn Phi” để bảo vệ những người mà
mình muốn bảo vệ, thế nhưng tôi vẫn không kìm được đờ người ra, hai mắt bỗng
như tối sầm, để mặc cho cây bút vẽ trong tay rơi xuống đất.

Cận
Tịch lặng lẽ nhặt bút lên, ôn tồn nói: “Chắc nương nương đã mệt rồi, để nô tỳ
làm giúp vậy.” Sau đó bèn cẩn thận vẽ giúp tôi, miệng nở một nụ cười tươi rạng
rỡ. “Nương nương sắc vóc nghiêng trời, còn hơn cả ngày xưa, Hoàng thượng nhất
định sẽ vô cùng sủng ái.”

Tôi
chăm chú nhìn vào trong gương, người trong gương đã chẳng còn chút vẻ ảm đạm
nào, khắp người đều xinh tươi rực rỡ, diễm lệ đến tột cùng. Lúc này đây tôi như
đang đeo một chiếc mặt nạ, tất thảy tâm trạng u ám đều được giấu đi. Tôi gượng
cười, nói: “Đã lâu rồi không mặc cung trang thế này, bây giờ mặc vào có cảm
giác thân thể như nặng thêm mấy chục cân vậy, thật khó chịu quá!”

Lời
này vừa mới nói ra, ngay đến bản thân tôi cũng thấy vô cùng buồn bã. Bộ cung
trang này đẹp thì có đẹp, nhưng thật chẳng khác gì gông cùm ngàn cân, khóa hết
mọi niềm hy vọng trong cuộc đời này của tôi.

Cận
Tịch hơi cúi đầu, cung kính nói: “Hoàng thượng sủng ái nương nương, ban thưởng
hậu hĩnh, nương nương có thể ngày ngày thay đồ mới, sau khi quen rồi thì sẽ chỉ
thấy đẹp chứ không còn thấy khó chịu nữa.”

Tôi
gượng cười hờ hững. “Chuyện đời có lẽ đều như vậy, sau khi quen rồi thì sẽ
không còn cảm thấy khó chịu nữa.”

Tôi
khẽ nói: “Ra ngoài thôi!” Hoán Bích và Cận Tịch lập tức mở cửa phòng, một phải
một trái đỡ tôi đứng dậy. Dưới vầng mặt trời tháng Năm rực rỡ, Huyền Thanh chắp
tay sau lưng đứng một mình dưới gốc lựu ngoài sân, những cánh hoa đỏ tươi rơi
đầy xuống người nhưng y lại hoàn toàn không phát hiện. Tôi đưa mắt thoáng nhìn
qua phía y, ánh mắt y chợt trở nên đờ đẫn, như là một người mù lâu năm đột
nhiên nhìn thấy ánh sáng nên không thể thích ứng kịp vậy.

Hoán
Bích khẽ gọi y: “Lục Vương gia.” Y lập tức tỉnh táo trở lại, ung dung quỳ
xuống, nói rành rọt từng từ: “Thần đệ Thanh Hà Vương Huyền Thanh tham kiến Hoàn
Phi nương nương.”

Như
thể bị người ta dùng một con dao sắc đâm thẳng vào tim, tôi phải cố hết sức mới
giữ được giọng nói không run rẩy: “Thanh Hà Vương xin hãy đứng dậy đi.”

Y
nhanh chóng ngẩng lên, tại nơi sâu thẳm trong mắt thoáng qua một tia buồn
thương tột độ, như là một ngôi sao băng bay vụt qua bầu trời đêm, sau nháy mắt
đã biến mất. Y nói: “Mời nương nương dời gót, kiệu loan đã chờ sẵn ngoài chùa
rồi.”

Tôi
lạnh lùng cất tiếng, cơ hồ không thể nhận ra giọng nói của mình: “Đã làm phiền
Thanh Hà Vương rồi!” Khi chậm rãi đi qua bên cạnh y, tôi khẽ nói: “Trên người
Vương gia có dính mấy cánh hoa rơi kìa, những vật chẳng lành như thế thực không
nên để chạm tới người Vương gia.” Y dường như không hề nghe thấy, vẫn đứng im
không động đậy.

Hoán
Bích thấy tình hình không đúng lắm, bèn bước lên trước hai bước giúp Huyền
Thanh phủi đi mấy cánh hoa trên người. Huyền Thanh khẽ thở dài một tiếng. “Hoa
rơi vốn theo ý người, phủi nó đi làm gì?”

Lòng
tôi bất giác thầm băng giá, y rốt cuộc vẫn trách tôi.

Cận
Tịch buông cánh tay tôi ra, khẽ nhún người hành lễ. “Nô tỳ qua chỗ kiệu loan
xem có vấn đề gì không.”

Hoán
Bích cũng nói: “Ngọc bội như ý của tiểu thư hình như còn bỏ quên trong phòng,
để nô tỳ đi lấy.”

Tôi
khẽ cất tiếng gọi: “Thanh!”

Y
không kìm được đưa mắt nhìn tôi, giọng nói xiết nỗi bi thương băng giá: “Hoàn
Nhi, ta không hận người khác, chỉ hận bản thân thôi.”

Sau
một hồi lâu im lặng, tôi đưa tay nhặt lấy một cánh hoa lựu đỏ tươi trên vai y,
khẽ nói: “Ta tự có đạo lý của mình. Người dính hoa lựu kỳ thực cũng là việc
mừng, Hoàn Nhi xin chúc Vương gia con cháu đầy nhà, phúc thọ dài lâu.”

Y
nhất thời chưa hiểu, đưa mắt nhìn về phía chân trời xa xôi, ánh mắt toát ra một
vẻ hiu quạnh khó mà dùng lời để miêu tả: “Không có nàng, phúc thọ dài lâu đối
với ta mà nói thực chẳng có chút ý nghĩa nào cả!”

Trái
tim tôi như bị một cây búa gõ mạnh vào, tột cùng đau đớn, lại giống như một lớp
băng trên mặt hồ đang không ngừng nứt vỡ, cuối cùng tan ra thành từng mảnh nhỏ,
không cách nào nối liền lại được. Tôi đau xót vô cùng, khó có thể nói được lời
nào, chợt một làn gió man mác thổi qua, trên cành cây có bông hoa lựu nhẹ nhàng
rơi xuống đất, nghe “bộp” một tiếng, rồi lại một tiếng nữa vang lên.

Sau
một thoáng lặng im, Hoán Bích không biết đã tới bên cạnh tôi tự lúc nào, khẽ
nói: “Thời gian không còn sớm nữa, tiểu thư mau lên kiệu đi thôi.” Dứt lời bèn
đưa tay ra chờ tôi bám vào.

Tôi
đột nhiên tỉnh táo trở lại, đang định đưa tay tới, chợt bàn tay của Huyền Thanh
đã đỡ lấy tay tôi. Tay y thật lạnh biết mấy, tựa như vừa ngâm nước băng giữa
tiết trời tháng Giêng, không có chút ấm áp. Hoán Bích lộ rõ vẻ kinh hãi, tôi
cũng biết như thế này không hợp với lễ nghi, đang định giằng tay ra thì đã nghe
y trầm giọng nói: “Thần cung nghênh nương nương hồi cung, để tỏ hoàng ân mênh
mang khôn xiết.”

Tôi
nhanh chóng khôi phục vẻ điềm đạm ung dung, dịu dàng cất tiếng: “Vậy xin làm
phiền Thanh Hà Vương rồi.”

Tôi
bám vào tay y bước đi chậm rãi, trong chùa Cam Lộ, điện Phật trùng trùng, những
bậu cửa liên miên chừng như bước mãi cũng không qua hết được, trong không khí
vương vất đầy mùi đàn hương. Tất cả mọi người trong chùa lúc này đều đã ra
ngoài quỳ đợi, khung cảnh trở nên tĩnh lặng vô cùng, chỉ có tiếng bước đi chậm
rãi của mấy người chúng tôi. Tôi chợt nhớ lại cảnh trời chiều u ám trên con
đường núi ngày đó, những cành cây trên đỉnh đầu nhìn như lũ ma quỷ đang múa
vuốt nhe nanh, Huyền Thanh ngoảnh đầu qua nhìn tôi, khẽ nói: “Tư thế dắt tay
này có tên gọi Đồng tâm khấu, nghe đồn cặp nam nữ nào dắt tay nhau như thế này,
cả đời sẽ không bao giờ ly biệt.” Tôi gượng cười buồn bã, dường như những lời
đó mới được nói cách đây không lâu, chỉ chừng hơn một năm thôi, vậy mà sự đời
đã biến đổi khôn lường, còn con đường này thì chẳng bao lâu nữa sẽ kết thúc.

Cẩn
Thân điện đã là tòa điện cuối cùng rồi, chỉ một lát nữa thôi chúng tôi sẽ phải
buông tay nhau ra. Bên ngoài cửa chùa có hai hàng cung nữ và thái giám đang
cung kính cúi đầu quỳ đợi, chiếc kiệu loan màu vàng tươi mà xưa nay vốn chỉ có
Hoàng hậu mới được ngồi dừng ở phía không xa. Chiếc kiệu này cao sáu thước,
rộng sáu thước, dài tám thước, được làm bằng gỗ cổ đàn, hai càng sơn màu đỏ
tươi, bốn góc của mui kiệu đều có treo một quả cầu vàng chạm rỗng, trong mỗi
quả cầu vàng lại đặt hai chiếc chuông vàng, gió thổi tới là sẽ làm vang lên
những tiếng “đinh đang” trong trẻo. Trên thân kiệu có rất nhiều bức hình tinh
xảo được nạm thành từ vàng bạc, như là hình hoa mẫu đơn vờn quanh long lân quy
phượng, thần tiên dạo vườn xuân, bốn phía xung quanh lại treo rèm châu lóng
lánh, hai đầu trước sau của chiếc kiệu còn có mười sáu tấm bảng hiệu đỏ tươi
viền vàng, thể hiện rõ khí phái của hoàng gia. Huyền Lăng, y quả nhiên đã dùng
đội nghi trượng có quy cách bằng một nửa Hoàng hậu để đón tôi về cung.


Trường và Cận Tịch sớm đã chờ sẵn bên ngoài, vừa nhìn thấy chúng tôi liền vội
vàng bước tới hành lễ ba quỳ chín lạy, cung kính nói: “Bái kiến Vương gia,
nương nương. Cung nghênh nương nương hồi cung.”

Tôi
khẽ gật đầu, tỏ ý bảo bọn họ hãy đứng dậy, sau đó mới trầm giọng nói: “Hoàng
thượng trịnh trọng thế này, sao bản cung dám nhận? Tùy tiện dùng nghi trượng
của Hoàng hậu đã là tội đại bất kính, dù Hoàng thượng ơn cao, Hoàng hậu đức
dày, bản cung cũng không dám vượt lễ.” Đưa mắt liếc nhìn Lý Trường, tôi hờ hững
nói tiếp: “Lý công công, xin hãy lập tức về cung bẩm rõ với Hoàng thượng cho
bản cung được dùng nghi trượng của phi tử, bằng không bản cung quyết không dám
về cung.”


Trường cười gượng, nói: “Nương nương ngay từ đầu đã biết rồi mà, đây là ý của
Hoàng thượng...”

Tôi
khẽ mỉm cười. “Bản cung cũng sớm đã nói rồi, bản cung thực không dám nhận.”


Trường chỉ đành đưa mắt nhìn qua phía Cận Tịch, trên trán lấm tấm mồ hôi, vội
vàng quỳ xuống, nói: “Đi đi về về như vậy chỉ e sẽ tốn không ít thời gian, làm
Hoàng thượng nôn nóng, xin nương nương hãy về cung trước rồi có việc gì sẽ bàn
sau.”

Tôi
chẳng buồn nhìn y, chỉ nói: “Tôn ti vốn nên rõ ràng, bản cung không phải hạng
người ỷ được sủng ái mà kiêu ngạo vượt lễ, cũng không muốn sau này gặp Hoàng
hậu phải sinh lòng hổ thẹn.” Lý Trường không dám đứng dậy, chỉ đành dập đầu lia
lịa, chẳng nói năng gì.

Cận
Tịch vội vàng đỡ y đứng dậy, thấp giọng nói: “Còn không đi mau về mau!” Lý
Trường vội vàng khom người lui đi, chạy nhanh xuống núi. Chùa Cam Lộ được xây
trên đỉnh Cam Lộ, đưa mắt nhìn đi có thể thấy hết quang cảnh ở kinh sư. Dưới
chân núi có một mảnh rừng thưa, có những khoảnh ruộng mênh mông bát ngát, nhìn
đi xa hơn còn thấp thoáng thấy được thành quách liên miên, muôn hộ gia đình, mà
đặc biệt nhất phải kể đến một chốn lấp lánh ánh vàng dưới vầng mặt trời rực rỡ,
đó chính là Tử Áo Thành mà tôi đã rời xa suốt mấy năm trời.

Gần
đến buổi trưa, ánh dương lại càng rực rỡ, khiến tôi không kìm được phải nheo
mắt lại. Hoán Bích bước tới, nói: “Trời nắng quá, xin tiểu thư và Vương gia hãy
quay lại Cẩn Thân điện ngồi nghỉ ngơi một lát chờ nghi trượng tới.”

Tôi
ngoảnh đầu qua, nói: “Mời Vương gia cùng ta qua đó nghỉ ngơi một lát, tránh cái
nắng hè.” Huyền Thanh khẽ gật đầu, đỡ tay tôi bước trở lại Cẩn Thân điện, cùng
nhau ngồi xuống.

Các
ni cô lúc này vẫn đang quỳ bên ngoài cửa chùa, chẳng hề động đậy. Trời nóng
dần, những chiếc áo ni cô của bọn họ đều đã bị mồ hôi làm ướt đẫm phần cổ áo,
nhưng chỉ sau một canh giờ tất cả lại bị mặt trời hong khô, để lại từng mảng
trắng lóa. Tôi vừa thoáng liếc qua đã nhìn thấy Tịnh Bạch đang quỳ phía sau trụ
trì, không biết có phải vì quá béo hay không, bà ta chảy nhiều mồ hôi hơn những
người khác rất nhiều, chiếc áo ni cô đã ướt đẫm.

Tôi
gọi bà ta lại gần, chậm rãi nói: “Bản cung thanh tu ở đây mấy năm, thực phải
cảm ơn Tịnh Bạch sư thái đã chiếu cố cho rất nhiều.”

Tịnh
Bạch mặt mày tái nhợt, cất giọng run run: “Người xuất gia... vốn nên lấy lòng
từ bi làm đầu, nương nương... nương nương không cần cảm ơn.”

Tôi
lạnh lùng nói: “Sự “chiếu cố” của sư thái bản cung suốt đời chẳng dám quên,
nhất định phải báo đáp mới được.” Dưới ánh mặt trời nóng nực, thân thể Tịnh
Bạch run lẩy bẩy.

Huyền
Thanh cho rằng tôi muốn giết bà ta tại đây để giải mối oán hận khi xưa, bèn đưa
mắt liếc tôi, thấp giọng nói: “Hoàn... Nương nương, chớ nên tức giận.” Tôi chỉ
cười không nói, đưa tay khẽ phủi nhẹ chiếc áo ni cô của bà ta. Bà ta như bị dao
sắc cứa vào người, rùng mình một cái, mồ hôi lạnh rỉ ra không ngớt.

Tôi
không để ý đến bà ta nữa, gọi Tĩnh Ngạn tới, mỉm cười nói: “Bản cung xưa nay ân
oán phân minh, cái ơn chiếu cố của sư thái khi xưa bản cung vẫn luôn ghi tạc
trong lòng.” Rồi ngoảnh đầu sang dặn dò Cận Tịch: “Mang hai bộ Thái Bình kinh mà bản cung chép tay lại
đây thưởng cho Tĩnh Ngạn sư thái.”, sau đó lại cười nói với Tĩnh Ngạn: “Bản
cung biết sư thái xem nhẹ bạc vàng, hai bộ kinh thư này coi như để tỏ chút tâm
ý của bản cung.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3