05. B. Pasternak – Câu thơ và bài thơ (Phần 2)
Truyện kể:
Tất nhiên! trọn cả
con đường, ngập chìm trong bóng tối mịt mùng, đó là Anna. Ở đó Serioja không
phải một mình, bởi anh biết điều đó. Nhưng thật sự một việc như thế chưa bao
giờ xảy ra với anh. Cảm tưởng mỗi lúc một trở nên mạnh hơn, rõ hơn, và đến đó
là ngưng hẳn, sự giúp đỡ của bạn bè và những người đi trước anh. Anh nhận ra
Anna có mặt trong một buổi sáng nào đó ở Thành phố là chuyện khó biết bao...
Trầm lặng và xinh đep, nàng đang đứng trước mặt anh và không biết giúp anh như
thế nào. Và, băn khoăn phiền muộn về nàng Arild có thật... anh nhìn thấy như
thế nào, vây quanh bởi những cây dương trong giống như những chiếc khăn lạnh
buốt, nàng đã bị nhấn chìm bởi những đám mây và chuyển động chậm của những đỉnh
tháp xây bằng gạch theo kiến trúc gôlích (*).
(*) Boris Pasternak, Vozdouchnyie
Puti (“Những đường trên không”) Matxcơva, 1933, tr.134.
Hãy sử
dụng sự sáng suốt của chúng ta: tình cảm xâm chiếm Serioja mạnh hơn và rõ ràng
hơn những hiện tượng tương tự cảm thấy bởi những người khác, như bạn bè và
những người đi trước anh. Điều quan trọng ở đây, là Pasternak đang nói về mình,
nói về cái làm cho ông khác những
người đi trước, ông và những người cùng thời với ông. Những kiểu “tương ứng”
của ông khác lối dùng cảnh vật phản ánh những cảm xúc hay những kinh nghiệm của
con người theo cách xưa, khác ở tầm rộng và mức chính xác của hình ảnh: tất cả,
khắp mọi phía và hoàn toàn, đều trở thành Anna Arild.
Ở chỗ ấy,
Pasternak gần với những sự táo bạo trong cách dùng ẩn dụ của Maiakovski là
người so sánh thế giới với mối đam mê và những nỗi đau của nhân vật mình.
(“Trước nụ cười và nước mắt của tôi, khuôn mặt xấu xí của căn phòng thắt lại vì
ghê sợ...”). Tuy nhiên, nơi Maiakovski sự phát triển từ cảm xúc đến thực tại
bắt nguồn từ một sự căng thẳng tột độ (“Tôi không thể bình tĩnh”), từ sự lớn
mạnh của kinh nghiệm riêng của nhà thơ. Pasternak “bình tĩnh” hơn, “trầm lặng”
hơn, “biết dằn lòng” hơn. Trong trường hợp của ông, lại sai khớp ấy bắt nguồn
từ bản chất đặc biệt của đam mê ít hơn là từ sự nắm bắt tinh tế những phản ứng,
những âm vang, sự nhạy của của sự vật đối với chung quanh. ở đây, phản ứng
tương ứng không đạt đến những kích thước của phép ngoa dụ lắm, đúng hơn người
ta có thể nói giọt nhỏ nhấtt cũng lấp lánh ảnh chiếu của mình; tất cả những vật
thể, đến tận cả những vật vô nghĩa nhất, đều có ảnh hưởng với nhau và mô phỏng
nhau. Trong thơ Pasternak, ta không thể tách ròi con người khỏi môi trường của
anh ta, không thể tách rời người sống với cái vô tri. Qua cách “viết thảo” ẩn
dụ ấy, thực tại được mô tả như một toàn thể, bằng sự hợp nhất những yếu tố cấu
thành chính thực tại ấy bằng việc khoanh lại những vùng quanh và những ranh
giới.
Có một
công việc đặc biệt làm Pasternak say mê: tạo ra trong thơ ca của mình một không khí bao gồm toàn thể
hiện hữu và cuộc sống, và truyền được tình cảm “mật thiết với vũ trụ” của mình.
Trong thơ ông, truyện kể trữ tình không phát triển “theo thứ tự thời gian” mà
“nhảy qua những rào cản” và trở thành một bản phát thảo vẽ bằng những nét lớn,
với những màu sắc rực rỡ và táo bạo. Bằng lối phúng dụ, bằng nghĩa tượng hình
của chữ, sự vật rời khỏi vị trí từ lâu vẫn là của mình để đi vào một cơn lốc
hỗn loạn, cơn lốc dẫn tới chỗ phục hồi thực tại trong tình trạng hỗn độn tự
nhiên của nó”
Tôi muốn trở về nhà, trong cái mênh
mông
Của căn phòng tôi gợi nỗi buồn.
Tôi bước vào, tôi bỏ áo choàng ra,
hồi tỉnh lại,
Và tôi được soi sáng bởi đèn đường.
Qua những vách ngăn gỗ mỏng
Tôi đi qua, như chính mình là ánh
sáng.
Tôi xuyên qua, một hình thể xuyên
qua một hình thể,
Đồ vật chẻ xuyên một đồ vật.
Trong
khoảng không trong suốt có những ẩn dụ xuyên qua ấy, người nghệ sĩ chiếm một
chỗ đặc biệt. Thế nhưng, trừ trong một số hiếm hoi tác phẩm, người nghệ sĩ
thường không xuất hiện như một nhân vật riêng biệt và độc lập. Trái với Blok,
với Tsvetaieva, Maiakivski hay Essenine, Pasternak hiếm lắm mới nói ở ngôi thứ
nhất. Ở những nhà thơ nói trên, nhân cách nhà thơ chiếm vị trí trung tâm và
toàn bộ những tác phẩm của họ, được nối dài bởi báo chí, bởi những câu chuyện
kể về “thời đại và bản thân tôi”, làm thành một tiểu sử bi thương diễn ra trước
người đọc, và được bao quanh bằng một quầng sáng truyền thuyết. Pasternak tránh
thái độ ấy, thái độ mà ông cho là “lãng mạn”, và gọi là “tiểu sử của một nhà
thơ thích trình diễn” (*).
(*) BORIS PASTERNAK. “Giấy thông
hành”, tr.111 – 113
Ông ít nói
về mình, chăm chút ẩn dật, rút lui khỏi trung tâm cảnh trí. Khi người ta đọc
thơ ông, người ta có thể bảo là nhà thơ vắng mặt trong đó, vắng mặt cả người kể
chuyện hay người từng chứng kiến cái được mô tả trong thơ. Thiên nhiên được
trình bày ra đó nhân danh chính nó:
Từ chiếc của sổ để mở, những đám mây
Đang ngồi với công việc kim chỉ,
giống như những con bồ câu
Chúng nhận ra: tuyết ở những hàng
giậu
Đã tan, rõ ràng;
Còn tuyết trên những cây thập tự,
một ít thôi.
Không phải
nhà thơ, mà là những đám mây “nhận ra”, cũng như ở chỗ khác, không phải nhà thơ
hồi tưởng lại tuổi nhỏ của mình, mà là tuyết: “Tuyết nhớ lại khi đi qua; người
ta gọi nó là “giấc ngủ ngắn”, với một tiếng thì thầm và nước xirô, ngày đang xế
chiều phía sau cái nồi…”. Một trong số những bài thơ cuối cùng của ông, bài Đông giá, chúng ta lại tìm thấy một cách
nhìn không bình thường, ở đó cảnh vật và người quan sát dường như trao đổi vai
trò cho nhau, ở đó, chính hình ảnh con người đang đứng trước mình:
Mặt trời lạnh buổi sớm mai nổi lên
trong không gian sương mù
Như một cột lửa lạc mất trong khói.
Và tôi cũng vậy, như một bức tranh
chụp xấu,
Tôi hoàn toàn không trông thấy được
đối với mặt trời.
Chừng nào nó không ló ra từ trong
sương mù
Nhưng chiếu sáng cả cánh đồng, bên
kia hồ,
Cây cối khó nhìn thấy tôi.
Trên bở xa.
Nếu
Maiakovski hay Tssvetaieva muốn nói ở ngôi thứ nhất nhân danh toàn thế giới thì
Pasternak lại thích thế giới nói về ông và nói thay cho ông: “không phải tôi,
về mùa xuân, mà là ngôi vườn; về tôi”
Gần hàng giậu ẩm ướt
Giữa những cành cây đan cuộn vào
nhau và một ngọn giờ
Xanh xao, một cuộc tranh luận đi vào
dồn dập. Tôi
Đứng khựng lại: tôi là người đang
được nói đến!
Chính thiên
nhiên trở thành nhân vật trữ tình – và nhà thơ có mặt khắp nơi đồng thời không
có mặt ở đâu cả. Nhà thơ không phải là một cái nhìn tách rời bao trùm toàn cảnh
bày ra trước mình, mà là bản sao của toàn cảnh ấy, khi thì trở thành khu rừng,
khi trở thành mặt biển. Trong Khu vườn
khóc chẳng hạn, sự đối chiếu quen thuộc “tỏi và khu vườn” đã được thay thế
bằng “tôi là vườn”; với những từ ấy, Pasternak nói với chúng ta về “cái ấy” và
về chính mình:
Thật khủng khiếp! – nó chảy róc rách
và lắng nghe:
Có phải chi có mình nó trên đời.
Đẩy một cành về phía cửa sổ,
Hay có ai đang nhìn…
Tôi sẽ đưa nó lên môi mình và sẽ
lắng nghe:
Có phải chỉ có mình tôi trên đời
Sẵn sàng khóc khi có dịp
Hay có ai đang nhìn…?
Sự đồng hóa
hay tính đồng nhất ấy với thiên nhiên đã đem lại cho câu thơ Pasternak. Một
tính cách mật thiết và xác thực rất đặc biệt.
Một khu vườn
cũng xuất hiện ở trung tâm bài thơ, được rất nhiều người biết, Tấm gương, khu vườn, được phản chiếu
trên tấm gương, đã sống trên một cuộc đời thứ hai, và được người ta nhìn thấy
trong những nơi sâu thẳm giấu kín của tấm gương. “Ở khu vườn rộng, không ai
chấp nhận nghỉ xả hơi trong căn phòng của tấm gương – và nó không đập bể tấm
gương!”. Thật là thú vị khi chúng ta biết rằng bài thơ ấy ban đầu có tên là: Chính tôi: Đối với nhà thơ, câu chuyện
khu vườn bị cuốn hút vào tấm gương như thế, tấm gương y hệt như chính ông, cũng
có liên lạc với cuộc đời, Pasternak đi đến chỗ biết được bản thân mình. Và,
trong Một thiếu nữ, nối tiếp hình ảnh
của Tấm gương, sự quan hệ ngược chiều
được thiết lập: tấm gương nhận ra mình trong những cành cây được ngôi vườn chiếu lại, và thà thơ nhìn thấy
trong thiên nhiên một hình ảnh, một bản sao của chính mình:
Được yêu thương lớn bằng khu vườn,
Do tự nhiên, chị! Tấm gương thứ hai!
3
Sự tiến
triển nơi thơ ca Pasternak là như vậy. Trong tập sách có cái tựa giống như một
lời tuyên bố những tôn chỉ: Chị tôi –
Cuộc sống. Như vậy sự đồng nhất giữa nhà thơ với thiên nhiên, sự đồng nhất
làm nền tảng cho toàn bộ thơ ca của ông, đã được xác định:
Điều ấy giống như alpha và Omega
Đời sống tôi ra đời như nhau
Suốt cả năm, dù trời có tuyết hay
không,
Đời sống như người tri kỷ của tôi
Và tôi gọi nó
là chị.
Pasternak có niềm tin sâu xa rằng thơ ca là hậu quả trực tiếp của đời sống
đồng thời cũng là sáng tạo đời sống. Người nghệ sĩ không phát minh ra những
hình ảnh: anh ta tình cờ góp nhặt từ những chuyến viễn du đây đó của mình, anh
giúp đỡ tài sáng tạo của thiên nhiên, nhưng không bao giờ thay thế thiên nhiên:
Có thể tuyết đã
đột ngột đem lại cả điều ấy
Ngay lúc bấy
giờ đã nảy sinh trong trí
Với hoàng hôn
của nó, tôi vẽ
Ngôi nhà tôi,
bức tranh, và đời sống mỗi ngày,
Trong suốt mùa
đông, tuyết vạch ra những phát họa
Và tôi, khi
nhìn thấy mọi vật
Tôi đã đưa hết
vào trong một bài thơ
Rồi lén lút,
tôi bỏ đi để chép lại chúng.
Nghệ thuật bắt nguồn từ trong lòng thiên nhiên là một chủ đề thân thuộc của
Pasternak. Chủ đề có biến khác, nhưng không thay đổi trên một điểm: chính đời
sống là cội nguồn của thơ ca; trong trường hợp tốt nhất, nhà thơ là người cùng
chơi chung, một đồng tác giả, là người chỉ còn cần quan sát và vừa kinh ngạc
thán phục, bừa ghi lại những vần điệu thỏa thuận. Điều ấy giải thích tại sao
trong cảnh vật của Pasternak có những từ ngữ văn học.
Ghi đầu cuốn sách này:
Những sa mạc vỡ
giọng…
Những cái còn
lại sau cơn mưa rào, dơ dáy, nằm yên
Từng cụm, và
rất sớm trước bình minh
Chúng viết
nguệch ngoạc những bài thơ chữ đầu
Và để lại những
bọt nước trên vần.
Bạn muốn nghĩ
sao thì nghĩ nhưng,
Khắp nơi trong
rừng cây, khoác đầy lá
Chạy như tình
tiết một câu trên kể
Nhận thức rõ
cái lý thú của nó.
Bây giờ đến
những ngày tháng nở hoa.
Và những cây bồ
đề mọc cao ngang hàng giậu
Rải rắc cùng
một lúc với bóng mình
Một mùi hương
quyến rũ…
Vào những lúc
này anh sáng tác
Khi sự tiếp xúc
đã sâu
Chủ đề và nội
dung một cuốn sách,
Vườn và hoa
chính là bìa đóng ngoài.
Sự đồng hóa giữa nghệ thuật với cuộc sống, thơ ca với thiên nhiên ấy, và sự
chuyển những đặc quyền của tác giả qua cho chúng ta những câu thơ được viết bởi
chính thiên nhiên như vậy, tác giả thuyết phục chúng ta về sự trung thực của
những câu thơ đó. Và sự trung thực, tính xác thực của hình ảnh đối với
Pasternak là tiêu chuẩn tối cao trong nghệ thuật. Những suy nghĩ của ông về văn
học và thơ ca lúc nào cũng đầy một sự lo âu làm sao "không làm biến tính
tiếng nói của cuộc sống. tiếng nói vang dội trong chúng ta".
"Không đủ sức khám phá và nói lên sự thật là một tật xấu mà không có
một tài kể chuyện nào khi kể những gì không phải là sự thật có thể che giấu nổi
(*)", Pasternak cũng đã từng nói chủ nghĩa hiện thực, trong ý nghĩa mà ông
gán cho chữ ấy (một sự nhạy cảm và một sự chân thành mãnh liệt dùng truyền đạt
thực tại trong trọn vẹn tính phức tạp và tính nhất quán của nó), gắn liền với
mọi nghệ thuật thật sự và biểu lộ trong
tác phẩm của Tolstoi cũng như trong tác phẩm của Lermontov của Chopin và
của Blok, của Shakespeare và của Verlaine "Lãng mạn" khi được
Pasternak nhắc tôi là một từ gần như có ý nghĩa xấu, bởi lẽ khi buông lõng dây
cương cho trí tưởng tượng, người ta thường hay đi đến chỗ coi thường tính chân
lý sự thật của những gì được mô tả.
(*) BORIS PASTERNAK: Neskolk, polojenii
("Một số quan điểm"), Sovremennik, Maxcơva, N° 1, 1922, tr. 6.
Quan niệm ấy lại càng thú vị hơn khi chính Pasternak từng gắn bó lâu với
những người thuộc trường phái vị lai, và sau đó với nhóm LEF, là nhóm đều ca
tụng phương pháp "hình thức" theo đó tác phẩm nghệ thuật chỉ là một
tập hợp những phương thức kĩ thuật.
Ngày nay, Pasternak viết vào đầu những năm 20, người ta có khuynh hướng tin
rằng nghệ thuật giống như một cái giếng nước, trong khi thật ra nó là bọt biển.
Họ đã quyết định rằng nghệ thuật phải làm cho nó bắn tung tóe ra, trong khi
chính ra nó phải tự tát cạn, tự làm cho bão hòa. Họ tưởng tượng là nghệ thuật
có thể chỉ còn là những phương cách biểu hiện, trong khi nó được tạo nên bằng
những cơ quan của trí năng. Luôn luôn hiện diện trong người quan sát, nghệ
thuật phải dễ cảm thụ, và phải nhìn với sự thuần khiết và chân thật, thế mà
thời đại bây giờ, nó lại chỉ làm quen với sự hóa trang và lô khán dài sân khấu,
và hiện ra trên màn ành…
Vẫn hình ảnh loại "thơ - bọt biển" ấy đã xuất hiện trong một bài
thơ viết thời trẻ tuổi, trong đó ông cho rằng một sự rung càm gia tăng chính là
yếu tố quyết định của nghệ thuật thơ ông:
Thơ! Hãy là một
bọt biển Hy Lạp
Giữa những con
cá - giác mút, dưới những đáy sâu nhớt nhầy màu xanh.
Ta sẽ đặt em
tren tấm ván ẩm
Của chiếc ghế
dài màu xanh ngoài vườn.
Hãy tự che mình
bằng những cành lá xum xuê và những bãi cỏ dốc hình vòng.
Hãy cuốn hút
những đám mây và những rãnh nước.
Và đêm đến, hỡi
thơ, ta sẽ bầy em ra
Bên ngoài tờ
giấy khát khao.
Khi tập làm quen với tư tưởng của Pasternak, người ta thường rất chú ý tới
cách ông nhấn mạnh khi nhắc lại lời cảnh giác của mình: đừng trộn lộn, đừng để
thoát!
Sự đánh giá ấy chủ yếu đặt ra nhằm chống lại một thái độ sai lầm đối với
thiên nhiên, chống lại một tư tưởng có sẵn tin tưởng vào những công thức có sẵn
và chống những sự sáo mòn trong nghĩa rộng nhất của từ ấy. Đối với ông, một sự
lĩnh hội trực tiếp không qua trung gian, mạnh mẽ và trong sáng, đó chính là
điều kiện đầu tiên của nghệ thuật, và "cái mới" phải cùng lúc trùng
hợp với sự tìm kiếm cái tự nhiên và sự trung thực. Chính trong tinh thần này mà
ông đã có thể viết, trong một bài viết dành cho Chopin, rằng tác phẩm của nhạc
sĩ có một sự "độc đáo tuyệt đối, không phải vì nó không giống tác phẩm của
những người đối thủ, mà bởi vỉ nó giống như thiên nhiên mà ông nói tới (*).
(*) Boris
Pasternak. "Chopin". Leningrat, N°
15-16, 1945, tr. 22.
Được quan niệm như vậy, nghệ thuật bao hàm một cái nhìn mới về thế giới,
tựa như người nghệ sĩ nhìn thấy thế giới ấy lần đầu tiên. Pasternak cho rằng
điểm bắt đầu của mọi quá trình sáng tạo là bắt đầu "không còn nhìn nhận
thực tại" nữa, và cố gắng nói về thực tại ấy không phải giữ gìn ý tứ,
không dùng khéo léo, tựa như ta là nhà thơ đầu tiên xuất hiện trên trái đất. Đó
chính là nơi ta phải đi tìm cội nguồn những giọng riêng biệt của thơ trữ tình:
làm nổi bật phẩm chất vô song và phi thường của những hiện tượng quen thuộc
nhất. Hơn cả những truyện kể và tiểu thuyết, ông thích cái nhìn tươi mát của
buổi sớm mai (thái độ của người ngủ khi thức dậy: "Tôi thức dậy. Chung
quanh tôi cái gì cũng nói…"), cảm tưởng cái gì cũng luôn luôn mới, vừa
được sáng tạo (Trọn cả đồng cỏ trước khi ngã…").
Điểm đáng chú ý, là sự cách điệu hóa không có chỗ trong thơ ca. Lối viết và
cái nhìn thế giới của ông loại bỏ mọi thứ mô phỏng trừ mô phỏng thiên nhiên,
ngay cả khi mô tả Balzac, hình ảnh mà nhà văn cho ta lại đều trực tiếp từ
Rodin:
Ông mơ tự do
như một kẻ tôi đày,
Hay như một lão
kế toán già, mơ nghỉ hưu
Nhưng sức nặng,
trên nắm tay,
Là sức nặng của
một cái búa thợ nề.
Một bài thơ tặng Anna Akhmatova bắt đầu bằng đòi hỏi sau:
Tôi tưởng chọn
những chữ
Giống như sáng
tác của chị
Nhưng tôi nhầm
- cần gì,
Tôi bền gan
trong sự nhầm lẫn của mình.
Khi phát hiện ra bản chất thơ ca của Akhmatova, Pasternak vẫn không vì thế
mà bớt trung thành vói chính mình là không viết "theo kiểu
Akhmatova". Không đủ sức từ bỏ "sai lầm" của mình, ông chọn
những chữ không nhắc lại chữ của bất cứ ai, những chữ không bắt chước một bút
pháp nào, mà chỉ tùy thuộc vào sự sáng tạo. Bởi vậy nên Pasternak, không sợ đôi
khi mình có đến gần các nhà thơ cổ điển chăng; ông có thề cho phép mình đánh
liều, mà vẫn không rơi vào sự tầm thường, chọn làm đề tài ở đầu sách những câu
thơ rất quen thuộc như "Một làn mây vàng óng đã ngủ qua đêm trên ngực một
tảng đá khổng lồ", hay bắt đầu một bài thơ bằng: "Hắn đứng bên bờ
những con sóng hiu quạnh, chất chứa những ý tưởng cao quí". Gặp gỡ với
những hình ảnh cổ điển như thế đối với ông không phải là một điều nguy hiểm;
được đảm bảo không rơi vào những hồi tưởng văn học do sự tươi mát của cái nhìn
và sự tươi mát của phong cách mình, ông có thể tự cho phép, như trong Chủ đề và
Biển khúc, dùng một cách có cân nhắc những hình ảnh cũ mà vẫn không mất tí nào
tính độc đáo của mình.
Trong hoạt động thơ ca của mình, Pasternak luôn luôn duy trì tiếp xúc với
tất cả mọi thứ trào lưu và biểu hiện nghệ thuật của quá khứ và hiện tại. Mặc
dù, - nếu không bảo là do - tính cách cá nhân cao trong quan niệm của ông về
thế giới và phong cách của ông, ông chưa bao giờ có khuynh hướng đoạn tuyệt với
di sản văn hóa; trái lại, ông luôn luôn xác nhận sự tiếp nối lịch sử trong lĩnh
vực nghệ thuật. Những khuynh hướng ấy làm ông khác hẳn phong trào vị lai, là
phong trào chủ trương tuyệt giao với truyền thống và phá bỏ truyền thống.
Trả lời một cuộc điều tra về quan điểm của các tác giả đương đại đối với
văn học cổ điển (1927), Pasternak đã viết: "Tôi nghĩ là bây giờ hơn bao
giờ hết, chúng ta muốn nói những tư tưởng mà người nghệ sĩ có về bản chất của
nghệ thuật, về vai trò lịch sử của nghệ thuật và về chính trách nhiệm của mình
đối với nghệ thuật. Ở đây ông cũng nói về ảnh hưởng cụ thể của Pouchkin đối với
mình: "Mỹ học của Pouchkin rộng lớn và uyển chuyển đến độ mỗi thời đại có
thể cho nó một định nghĩa mới. Những hình ảnh mãnh liệt của ông cho phép ta
hiểu ông cách đây 15 năm, khi những hình ảnh ấy đáp ứng với những thẩm thức của
tôi và những khuynh hướng của mình, và đã đưa vào đó những yếu tố thuộc phạm
trù đạo đức học (*)".
(*) Na
Literaturnom Postu ("Bảo vệ văn học"), 1927, N° 5-6, tr. 62.
Tiểu sử văn học của Pasternak cũng cho chúng ta biết rằng, vào thời kỳ đầu
của phong trào vị lai, ông thuộc nhóm Centifuge, là nhóm đối lập với những
khuynh hướng hung hăng của trường phái lập thể - vị lai, tỏ ra khoan dung hơn
đối với truyền thống thơ thế kỉ XIX, và với các nghệ sĩ phái trừu tượng (**).
(**) V.
Brlostov có lưu ý rằng trường phái vị lai (ở nơi họ), "kết hợp với mong
muốn nối liền hoạt động của họ với nghệ thuật sáng tạo của những thế hệ
trước", và họ "gắn với những mong muốn và hứa hẹn của quá khứ nhiều
hơn", Russkaia Mysl, Tháng 6, 1914 (A.S).
Còn về những "quy tắc" của trường phái tượng trưng Nga, mọi thiện
cảm của Pasternak đều dành cho I. Annenski (7), A. Bely và, đặc biệt hơn là cho
Blok. Trong những tác phẩm của Blok, ông từng đi tìm trước tiên những
"hình ành mãnh liệt" ấy nằm trong một tinh thần ấn tượng, rất đặc thù
của bút pháp ông thời đó - bút pháp mà cái đang thắng thế chính là "một
tính tức thì tìm cách tạo động tác". Về sau này, trong một phác thảo tiểu
sử viết vào năm 1956, Pasternak thú nhận rằng, trong những phẩm chất khác nhau
của thơ ca Blok, những phẩm chất gần ông nhất và đã tạo ảnh hưởng lớn nhất nơi
bút pháp của ông, là "tính dữ dội điển hình của Blok", sự "căng
thẳng rời rạc" của cái nhìn của nhà thơ, tính "bất định" trong
những lối quan sát và những ký họa của ông.
(7)Annokenty Anneski (1856 -
1909)nhà thơ, dịch giả, liên hệ không rõ ràng với phong trào tượng trưng.
Andrei Bely (1880 - 1934), tên thật là Boris Bongaiev, nhà thơ và tiểu thuyết
gia thế hệ những người tượng trưng. Alexandre Blok (1880 - 1921)nhà thơ tượng
trưng lớn nhất của Nga.
Tính từ không danh từ, thuộc tính không chủ từ, những trò chơi ú tim, sự
khuấy động, những lối ẩn dụ hiển nhiên, những sự chuyển tiếp đột ngột… bút pháp
của ông hoàn toàn tương hợp với tinh thần thời đại, một tinh thần kín đáo và
che dấu, lén lút, khó dám ra khỏi những đường hầm, và được giải thích trong một
ngôn ngữ của những kẻ mưu phản, mà nhân vật trung tâm là thành phố và biến cố
chính là đường phố… Saint-Peterburg của Blok là thành phố có thật nhất trong số
những Saint-Peterburg được các họa sĩ thời ấy vẽ… Đồng thời, hình ảnh thành phố
được vẽ bằng một bàn tay nóng nảy và thấm đầy cảm hứng đến nỗi toàn bộ biến
thành một biểu lộ mê hồn thế giới nội tâm kỳ lạ nhất (*).
(*) Tài liệu
lưu trữ của B. L. Pasternak.
Như thế người ta hẳn nhận thấy Blok đã nhận ở đây một "lễ đặt
tên" điển hình Pasternak. Ý kiến rất cá nhân và diễn tả rất rõ ấy về thơ
ca của những người đi trước ông và những người đồng thời với ông, người ta lại
thấy lại trong những bài ông diễn giải về Shakespeare, về Verlaine, và Rilke,
về Tolstoi, về Tchekhov, về Maiakovski và về những tác giả thân thiết khác của
ông. Pasternak đã luôn luôn thiên vị, và đôi khi ngược đời, trong những nhận
định thẩm mỹ của mình. Chính ở chỗ đó mà người ta thấy xuất hiện tính độc đáo
tột bậc của bản chất nghệ sĩ của ông, độc đáo ở chỗ kết hợp những thẫm thức
truyền thống với tinh thần cách tàn bạo nhất. Trong Giấy thông hành, ông nói
với chúng ta về tuổi thanh niên của mình và về ảnh hưởng của những người đi
trước trực tiếp đối với ông.
Nghệ thuật ấy là gì? Đó là nghệ thuật mới của Sirialine, của Blok, của
Komissarievskaia (8), của Bely - một nghệ thuật vô song, một nghệ thuật lôi
cuốn và độc đáo. Điểm đáng chú ý nhất là, không những nó không gợi ra những tư
tưởng thay đổi nào, mà trái lại, nó lặp lại tất cả từ đầu, nhưng nhanh hơn và
với nhiều nhiệt tình và chân thành hơn. Nghệ thuật ấy muốn nói lại tất cả trong
một lần, là điều không thể nào tưởng tượng được nếu không có một sự đam mê hết
mực - và như vậy, nó sáng tạo ra một cái gì mới. Tuy nhiên, cái mới ấy không
nảy sinh từ chỗ phá bỏ cái cũ, mà ngược lại, là từ niềm vui thể hiện lại những
kiểu mẫu (*).
(8) Vera Flodorovna
Komissarievskala (1864 -1910), diễn viên nổi tiếng của Nga.
(*) Boris
Pasternak: Okhrannaia Gramota (Giấy thông hành), tr. 91 -92.
Khi thử nhìn thực tại và thơ ca với những con mắt mới, làm mới lại cách
hiểu thế giới theo mỹ học, và song song với công việc ấy, làm khuôn mẫu mới cho
cả một hệ thống nghệ thuật, Pasternak đã có rất nhiều cái chung với nhà thơ
từng tranh đấu giải phóng văn học khỏi những hình thức xưa cũ, liền ngay trước
hoặc sau cách mạng. Phong trào rộng lớn ấy, bao gồm toàn bộ nghệ thuật thế kỷ
20, đã trả giá đắt - rất nhiều những nỗ lực để đi đến tính độc đáo đã cho thấy
là vô ích - nhưng nó chứa đựng sức sống lành mạnh ấy, sức sống làm phấn chấn mà
không có nó thì người ta đã không thể biết được thứ nghệ thuật thật sự hiện
đại, cái đòi hỏi ấy của đời sống, vốn không thỏa mãn với những công thức và
những kiểu sáo mòn đã lỗi thời. Maiakovski từng viết về vấn đề này:
Và đột nhiên
Tất cả
Xông vào
Bằng một giọng
nói tan rã
Để ném bỏ rác
rưởi những chữ đã mòn.
Cùng tiếng thét ấy vang vọng trong những câu thơ Pasternak:
Cần gì trên vũ
trụ phải có một chiếc mặt nạ?
Cần gì trên vũ
trụ phải không có những vĩ tuyến?
Ở đâu người ta
có thế lấy mát tích
Bịt miệng lại
vào mùa đông?
Sự vật trút bỏ
hết những ngọn đuốc của mình,
Chúng mất hết
sức mạnh và danh dự
Khi chúng có lý
do để hát
Khi nguyên cớ
đổ ra trận mưa rào.
Ở đây, cái đổi mới thơ ca giả định rằng những sự vật tự giải phóng khỏi
tính khách quan của mình, lột bỏ chiếc mặt nạ sáo mòn văn học - là điều đúng
với Pasternak.