Hoa Tư dẫn - Phần II - Chương 1 - Phần 1
Phần 2: Thập Tam Nguyệt
Nhìn bóng cô khuất dần dưới ánh
trăng, chàng muốn gọi tên cô, Oanh Ca, cái tên đó đã vang lên trong lòng cả
trăm lần, chỉ là chưa bao giờ chàng thốt ra với cô, “Oanh Ca”, chàng thì thầm.
Nhưng cô đã đi xa.
Chương
1
Hôm đó trời nắng đẹp, chúng tôi rời Khương quốc, vượt qua
dãy núi Thương Lan vào biên giới Trịnh quốc.
Mộ Ngôn định hôm sau sẽ đi, chàng nói nhà có việc gấp gọi
về, ân tình nợ tôi ngày sau chàng sẽ trả.
Thực ra, Mộ Ngôn không nợ nần gì tôi, nếu còn nhớ, chàng sẽ
hiểu ra món nợ giữa chúng tôi là như thế này: Tôi nợ chàng trước, nợ hai tính mạng,
vừa rồi cứu mạng chàng một lần, coi như đã đền được một mạng, vẫn còn nợ chàng một
mạng nữa, là tôi phải trả chàng, chứ không phải chàng phải trả tôi, nhưng rõ ràng
chàng không nhớ. Thực ra điều đó cũng chẳng có gì, nữ đại thập bát biến(*), tôi
hôm nay khác hẳn ba năm trước, lại luôn đeo mặt nạ, chàng không nhận ra cũng là
chuyện thường.
(*)
Nữ đại thập bát biến là chỉ thời kỳ dậy thì của một thiếu nữ, bước qua tuổi bé gái
thành một cô gái thời kỳ thanh xuân. Tạm dịch: Thiếu nữ tuổi mười tám.
Tôi nghĩ, tôi yêu chàng ba năm, không ngờ đời này lại được
gặp chàng lần nữa, ông trời đã cho chúng tôi cơ hội trùng phùng, nhưng lại ở hai
đầu sinh tử, thật quá đau lòng. Nhưng như thế cũng tốt, đối với chàng coi như không
có chuyện gì xảy ra, cũng không có gì kết thúc, đối với tôi, tất cả đã xảy ra, tất
cả đã kết thúc. Chút tình giữ trong lòng hôm nay chẳng qua là hoài niệm của vong
hồn, không phải là thứ hiện hữu trên đời, lưu luyến mấy cũng chẳng ý nghĩa gì.
Chỉ có điều vẫn không thể nào quên, vừa nhắm mắt lại hiện
ra trong đầu, chỉ toàn hình ảnh chàng cúi đầu ôm cây đàn trong hang núi Nhạn Hồi,
mặt nạ màu bạc, áo dài đen, tay gảy dây tơ, tiếng đàn tuôn chảy dưới ánh trăng,
nhặt khoan như tiếng suối lúc êm đềm lặng trôi, lúc ào ạt trút đổ.
Tôi nghĩ, tôi phải để chàng lưu lại gì đó cho tôi, gì cũng
được, coi như là kỷ niệm.
Mùa hè ngày dài, mãi mới vào đêm. Tôi cầm một bình rượu, bồi
hồi đi tìm chàng giả bộ chẳng có gì suy nghĩ vẩn vơ, đi tìm chàng là do muốn uống
rượu ngắm trăng, còn chàng được lựa chọn, thuần túy là vì có lẽ đêm nay chúng tôi
tương đối có duyên.
Chàng ngồi hóng mát trong sân quán trọ, trên ghế đá có bình
rượu, tự rót uống một mình. Tôi đi đến, để bình rượu trong tay sang một bên, nhìn
chàng: “Uống một mình thật vô vị”.
Chàng ngẩng đầu: “Cô muốn uống cùng tôi?”.
Tôi nhìn cốc rượu bằng gốm trắng trong tay chàng: “Mộ Ngôn,
trước khi chia tay, huynh gảy một khúc đàn cho tôi nghe đi”.
Chàng ngạc nhiên nhìn tôi, không nói gì, để cốc rượu xuống
hỏi: “Muốn nghe khúc gì?”.
Tôi nghĩ một lát: “Cũng không có khúc nào đặc biệt muốn nghe”.
Chàng giơ tay vẫy Chấp Túc đứng phía xa, ngoái đầu nói với
tôi: “Vậy thì...”.
Tôi ngồi xuống, ngắt lời: “Vậy thì cứ chơi khúc nào huynh
biết”.
“...”.
Chấp Túc nhanh chóng mang đàn đến, để trong đình hóng mát
của quán trọ.
Xung quanh đình, bà chủ quán trọ trồng đầy hoa quỳ, từng đám
lớn tắm ánh trăng, từ màu trắng chuyển sang đỏ, lan tràn như mây trắng nhuốm ánh
hồng. Tôi cúi nhìn Mộ Ngôn, chàng ngồi giữa áng mây hồng đó, khuôn mặt không đeo
mặt nạ đẹp như thiên thần, ngón tay dài mảnh, nhàn tản đặt trên dây đàn, đầu hơi
ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười: “Nếu chơi hết các khúc tôi biết, e là đêm nay cô không
ngủ được”.
Tôi không nói gì, lòng thầm nghĩ, em có thể suốt đời ngồi
nghe chàng đàn.
Tiếng đàn vang lên, là một khúc tôi chưa từng nghe, tôi gục
đầu trên chiếc bàn tròn ba chân bên cạnh, tay chống cằm hỏi: “Mộ Ngôn, huynh chưa
lập gia thất chứ?”.
Khúc nhạc hơi ngừng, chàng khẽ nghiêng đầu, ậm ừ một tiếng:
“Chưa?”.
Tôi nói: “Huynh có muốn lấy một người đã chết làm vợ không?”.
Chàng dừng tay đàn, ánh trăng mờ tỏ chiếu lên khuôn mặt thiên
thần, đẹp đến sững sờ.
Tôi lấy hết can đảm nói với chàng: “Cô gái đó cũng khá đẹp,
tính tình cũng được, các vị trưởng bối đều thích cô ấy, cưới về nhà tuyệt đối không
có chuyện bất hòa mẹ chồng nàng dâu, hơn nữa, cầm kỳ thư họa cũng biết ít nhiều,
tuyệt đối không để huynh mất thể diện trước thiên hạ. Ngoài ra, nấu ăn tuy không
giỏi lắm nhưng cũng biết làm vài món, chỉ có điều... chỉ có điều... đã chết rồi...”.
Tôi tự khoe mình một hồi, thầm nghĩ sao mình có thể mặt dày
như vậy, càng tự khen càng thấy không ổn, chàng chống cằm nhẫn nại ngồi nghe, một
hồi lâu sau, dở khóc dở cười hỏi: “Cô định nói tới minh hôn(*) sao?”.
(*)
Minh hôn: Hôn nhân giữa người sống và người chết, còn được gọi là âm hôn.
Tôi không biết, giả sử tôi và chàng thành hôn liệu có gọi
là minh hôn, nhưng cũng không có định nghĩa nào chính xác hơn, đành ậm ừ gật đầu.
Chàng nhẫn nại nhìn tôi một lát, giơ tay đàn tiếp, lắc đầu
nói: “Không hiểu cô nghĩ gì, không phải cô định mai mối tôi cho một cô gái đã chết
nào đó chứ?”.
Tôi sáng mắt nói: “Chính là thế!”.
Dây tơ đàn phát ra thanh âm run run, chàng cười: “Đúng là
giống chuyện cô thường làm, nhưng Mộ gia chúng tôi không thể tuyệt hậu, cảm ơn thịnh
tình của cô”.
Tôi lại gục trên bàn ba chân, nhắm mắt lại, gió đêm ấm áp
là vậy, lại cảm thấy toàn thân lạnh toát. Mặc dù rất hiểu sinh tử khác nhau, âm
dương cách biệt, hôn nhân là không thể, nhưng bất chợt có lúc không tránh khỏi hy
vọng mong manh vào may mắn ngẫu nhiên nào đó, muốn thử một lần, biết đâu sẽ khác,
nhưng cuối cùng chỉ khiến mình càng thêm thất vọng mà thôi.
Tôi rất muốn nói với chàng, cô gái đeo mặt nạ chàng đi theo
để trả ơn chính là cô bé suýt bị rắn độc cắn chết ở núi Nhạn Hồi năm xưa, bây giờ
đã lớn thế này, luôn ước ao muốn lấy chàng, trên trời dưới đất tìm chàng, tìm suốt
ba năm. Nhưng sao có thể nói ra, cô gái đeo mặt nạ này quả thực là người chết.
Đêm đó tôi gục trên chiếc bàn ba chân, ngủ thiếp từ lúc nào
trong tiếng đàn của Mộ Ngôn. Nghe Quân Vỹ nói, lúc canh tư, Mộ Ngôn bế tôi vào phòng.
Nhưng khi tôi tỉnh dậy, chàng đã rời đi. Giống như cái đêm ở núi Nhạn Hồi ba năm
trước, chúng tôi luôn chia tay trong lặng lẽ, bất ngờ. Nhưng cũng không có cảm giác
đặc biệt gì, chỉ có nơi đặt viên giao châu dường như trở nên trống rỗng.
Nơi tôi định đến là thành Tứ Phương, quốc đô Trịnh quốc.
Thoạt nghe tên đó, cứ nghĩ thành này có lẽ được xây dựng theo
nguyên lý hình học không gian tinh thâm. Thực ra không phải tên thành là Tứ Phương,
chỉ là do dân chúng trong thành đa phần rất thích chơi mạt chược. Bầu đoàn ba thành
viên, tôi, Quân Vỹ và Tiểu Hoàng hân hoan nhằm thành Tứ Phương thẳng tiến, bởi vì
Quân sư phụ cho chim đưa thư báo, đã tìm được một vụ làm ăn cho tôi ở trong thành,
khách lần này nhân thân tương đối đặc biệt, là một quý phụ sống trong vương cung
Trịnh quốc.
Trịnh quốc nhiều sông nhiều núi, có nghĩa phần lớn hành trình
chúng tôi đều đi bằng thuyền, nhưng sự có mặt của Tiểu Hoàng khiến chúng tôi gặp
rất nhiều rắc rối, ngày càng ít chủ đò đồng ý chở chúng tôi, họa hoằn mới tìm được
một chủ đò hám tiền, nhưng thường đòi tiền công rất cao mới được bước lên con thuyền
rách của họ. Nghĩ đến chuyện không thể làm thịt Tiểu Hoàng nướng ăn như đối với
con ngựa, đành nghiến răng không còn cách nào khác.
Nhưng tiền mang theo mỗi ngày cạn một nhanh, như thế này khó
lòng đến được thành Tứ Phương theo dự kiến. Vạn bất đắc dĩ, tôi và Quân Vỹ đành
phải ép chủ đò: “Tiền không có, nhưng mạng thì có, nếu ông không chở, chúng tôi
sẽ thả con hổ, nó sẽ cắn ông chết tươi”. Không ngờ biện pháp đó lại rất hiệu quả.
Chúng tôi đi hoàn toàn thuận lợi, chỉ có điều, lúc gần đến thành có người báo quan,
bị quan phủ địa phương phạt món tiền lớn, đó lại là khoản tiền lộ phí cuối cùng
của chúng tôi.
Lúc này còn cách thành Tứ Phương năm mươi dặm, nhanh nhất
cũng phải ba ngày mới tới, nhưng trong người chúng tôi đã không còn một cắc bạc.
Quân Vỹ nói trên đường đi vừa rồi anh ta đã sáng tác xong một cuốn tiểu thuyết mới,
nói về sự bạc tình đang rất ăn khách, có lẽ sẽ bán chạy, có thể thử bán cuốn tiểu
thuyết này lấy ít tiền lộ phí. Tôi và Tiểu Hoàng đều rất vui, cảm thấy hết mưa là
nắng, phấn khởi bày sách bên đường rao bán, lòng đầy hy vọng.
Kết quả không bán được.
Về sau phân tích mới thấy, nguyên nhân chính là trong sách
không có những chỗ mô tả chuyện gối chăn. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa nhận ra điều
ấy, chỉ thấy rất bế tắc. Suy nghĩ rất lung, cảm thấy biện pháp duy nhất... chỉ có
để Tiểu Hoàng biểu diễn tài ăn cỏ, trái với bản tính của loài hổ.
Chính trong quá trình ép Tiểu Hoàng biểu diễn tài ăn cỏ, chúng
tôi gặp được Bách Lý Tấn lên núi hái thuốc trở về, đây là nhân vật vô cùng quan
trọng, mà lúc đó và rất lâu về sau, chúng tôi đều không biết anh ta thực ra xuất
thân từ một gia tộc thánh dược, là cháu ngoại duy nhất của thánh dược Bách Lý Việt.
Đương nhiên cũng có nguyên do, bởi vì anh ta xuất hiện với bộ dạng hoàn toàn không
xứng với họ tộc trứ danh của mình, trên tay không phe phảy chiếc quạt quý, thắt
lưng cũng không đeo trường kiếm, chiếc áo dài trắng mặc trên người lại loang lổ
chỗ đen chỗ trắng, lưng lại khoác chiếc gùi cũ, không hề có dáng một công tử thế
gia, khiến người ta liên tưởng “Oa, vừa nhìn đã nhận ra là bậc cao nhân”, hoặc “Oa,
vừa nhìn đã biết là hậu duệ của bậc cao nhân”.
Cảnh đó diễn ra vào đúng lúc mặt trời lặn, chim sẽ về tổ.
Chúng tôi chuẩn bị địa bàn mãi nghệ, hái một bó lớn rau dại và cỏ để bên đường,
Tiểu Hoàng đã được ý tứ buộc chặt vào chiếc cọc tre.
Nông dân đang lục tục vác nông cụ về nhà, đi qua nhìn thấy
cảnh đó tò mò đứng lại, chẳng mấy chốc đã quây kín một vòng lớn.
Dưới hàng vạn ánh mắt, Tiểu Hoàng dáng điệu khổ sở lép bép
nhai một củ cà rốt, các nông phu chặc lưỡi khen lạ.
Lúc đó Bách Lý Tấn vất vả chen vào trong, cúi xuống rất tự
nhiên lấy một củ cải trắng to đùng trong đống rau cỏ, ngẩng đầu nhìn Quân Vỹ: “Này,
củ cải bán thế nào?”.
Quân Vỹ: “?”.
Bách Lý Tấn ngắm nghía một hồi, không biết lý giải thế nào
biểu hiện đó của Quân Vỹ, lại cúi đầu lựa chọn một hồi, lấy ra một củ cà rốt: “Này,
tôi mua hai củ cải, anh có thể tặng thêm một củ cà rốt không?”.
Tôi giương mắt nhìn Quân Vỹ nhướn mày hai cái, sau đó thản
nhiên chỉ vào Tiểu Hoàng đang gặm cà rốt bên cạnh, tỏ ý chúng tôi đang biểu diễn,
không phải bán củ cải.
Bách Lý Tấn nhìn Tiểu Hoàng, nhảy dựng lên: “Chao, mua củ
cải còn được tặng hổ ư?”.
Tôi giương mắt nhìn Quân Vỹ lại nhướn mày hai cái, nhếch mép:
“Không tặng hổ, không tặng hổ”.
Bách Lý Tấn hiểu ý giơ củ cà rốt ở tay phải: “Ồ, không sao,
không tặng hổ thì tặng tôi một củ cà rốt vậy”.
Quân Vỹ lại nhếch mép: “Cà rốt cũng không tặng!”.
Bách Lý Tấn ngạc nhiên giơ củ cải ở tay trái: “Tôi không để
anh cho không đâu, tôi trả tiền, tôi mua nhiều không phải để anh kiếm tiền, mà là
muốn anh cho thêm một củ cà rốt nhỏ...”.
Tôi đoán Quân Vỹ sắp không chịu nổi rồi, còn chưa nghĩ xong
thì đã thấy một bóng trắng xám xám bay ra khỏi vòng người, Quân Vỹ nghiêm nghị nhìn
Bách Lý Tấn vừa bị ném đi, phủi tay vài cái rồi lau lên áo tôi.
Đó là cuộc gặp đầu tiên của chúng tôi với người cháu trẻ nhất
trong gia tộc Bách Lý, Quân Vỹ lần đầu tiên thể hiện rõ nhất dũng khí nam nhi.
Hai ngày sau, chúng tôi tích đủ lộ phí đến thành Tứ Phương,
tạm đủ tiền ăn ở dè sẻn. Tôi nghĩ, lúc này bất đắc dĩ phải kiếm ít tiền còn được,
không nên để Tiểu Hoàng mệt mỏi quá, chỉ cần vào được thành là chỗ nào cũng đầy
cơ hội kiếm tiền, chẳng hạn có thể để Quân Vỹ bán thân, nhưng lại một lần nữa bị
báo quan.
Quan phủ sau khi tra xét thấy đúng, bởi chúng tôi hoàn toàn
chẳng làm gì trái pháp luật, nên không thể ra tay, nhưng họ cũng không chịu tay
trắng ra về, cuối cùng phạt tiền chúng tôi với tội danh bắt hổ mãi nghệ, ngược đãi
động vật, số tiền phạt coi như vẫn còn nhân tính, vẫn để lại cho chúng tôi một ít
bạc lẻ làm lộ phí.
Quân Vỹ nói: “Đây nhất định là việc hay ho do gã tiểu tử nói
giọng đàn bà đó làm”. Anh ta đang nói tới Bách Lý Tấn, nhưng tôi thấy chuyện này
chẳng liên quan tới anh chàng đó, bởi tôi thật sự cho rằng, thực ra anh chàng đó
có thể cũng không biết hổ là loài thú hoang ăn thịt hay ăn cỏ, chưa biết chừng anh
ta lại tưởng thiên tính của hổ là ăn củ cải.
Vốn tưởng Bách Lý Tấn chẳng qua là người qua đường, tôi và
Quân Vỹ đều không chú ý, ai ngờ chập tối ngày thứ tư lại gặp nhau trong một quán
trọ duy nhất ở ngoại ô thành Tứ Phương, hơn nữa Quân Vỹ lại nằm cùng giường với
anh ta.
Có duyên như vậy kể cũng hiếm, bởi vì quán trọ đó quả thật
rất nhỏ, khi chúng tôi đến chỉ còn một phòng trống duy nhất. Vì thanh danh của tôi,
đương nhiên tôi và Quân Vỹ không thể ở cùng phòng, nhưng để anh ta nằm trong kho
củi hoặc dưới gốc liễu bên ngoài cũng thật tàn nhẫn.
Nghĩ đến nếu hủy hoại danh dự của tôi nhất định sẽ bị Quân
sư phụ đánh chết, Quân Vỹ mặc dù lòng vô cùng ấm ức cũng đành ôm chăn chiếu xuống
kho củi ngủ tạm một đêm. Tôi và Tiểu Hoàng nhìn anh ta với con mắt cảm thông. Không
ngờ vừa ôm chiếu đi qua cầu thang, một cái bóng trắng đột nhiên sấn đến: “Này? Cô
không phải là người bán củ cải mấy hôm trước ư? Các người sao vậy?”. Chúng tôi nhìn
kỹ, thì ra là Bách Lý Tấn.
Chủ quán trọ nép vào một góc tủ quầy, vừa chú ý động tĩnh
của Tiểu Hoàng vừa giải thích với anh ta. Bách Lý Tấn ngoái nhìn kỹ một hồi, vòng
qua Quân Vỹ đến trước mặt tôi: “Thì ra là thiếu phòng? Phòng của tôi rất rộng, hay
là cô ở tạm cùng tôi một đêm, tiền phòng chúng ta chia đôi, hi hi hi”. Tôi không
kịp cười, Quân Vỹ không biết dùng thân pháp gì, đã lặng lẽ đứng chen giữa chúng
tôi, hiền hậu cười hề hề với Bách Lý Tấn đang nhăn nhở: “Được, chúng ta chung phòng”.
Bách Lý Tấn thôi nhăn nhở.
Mọi người cùng ăn chung bữa cơm, vậy là quen nhau.
Ăn xong từng đôi về phòng.
Trước lúc ngủ, mí mắt tôi nháy liên tục, cảm thấy sẽ xảy ra
chuyện gì. Từ nhỏ đến giờ linh cảm của tôi luôn rất hiệu nghiệm, nếu dự cảm có chuyện
xấu xảy ra, bất luận thế nào cũng xảy ra chuyện gì đó thật.
Lòng tôi thấp thỏm, không thể ngủ được, mắt trừng trừng thức
đến tận bình minh ngày hôm sau, nhưng cả đêm yên tĩnh, không hề xảy ra bất cứ chuyện
gì đặc biệt, chỉ là khi dẫn Tiểu Hoàng xuống lầu ăn sáng, nhìn thấy Quân Vỹ và Bách
Lý Tấn ngồi bên cửa sổ, cảm giác thần thái hai người hơi kỳ quái. Bách Lý tiểu đệ
húp một miếng cháo ngẩng đầu nhìn Quân Vỹ mỉm cười, húp miếng nữa lại ngẩng đầu
nhìn Quân Vỹ mỉm cười, còn Quân Vỹ ngoài sắc mặt hơi trầm, không có biểu hiện gì
khác lạ.
Tiểu Hoàng vẫy đuôi quanh quẩn dưới chân tôi, ngẩn mặt nhìn
nửa bát cháo trước mặt, lát sau chớp chớp mắt nhìn Quân Vỹ vẻ tội nghiệp.
Quân Vỹ sốt ruột: “Hôm nay không có gà nướng cho mày ăn đâu,
chúng ta chẳng còn mấy đồng nữa”.
Tiểu Hoàng ngoẹo đầu không tin. Bách Lý Tấn cười hề hề ghé
lại gần tôi: “Cô có biết A Trăn là ai không?”.
Đôi đũa đang gắp dưa muối trong tay Quân Vỹ dừng lại, quay
về phía Bách Lý Tấn, hất hàm với Tiểu Hoàng: “Con trai, nếu quả thực con muốn ăn
thịt, ở đây đã có sẵn rồi đấy”.
Tiểu Hoàng đứng dậy liếm nanh thật, Bách Lý Tấn kêu thét một
tiếng nhảy lên bàn, run cầm cập, tay chỉ Quân Vỹ: “Một đêm vợ chồng, trăm năm ân
nghĩa, Quân Vỹ huynh là kẻ vong ân bội nghĩa”.
Miếng cháo trong miệng tôi bắn đầy ra bàn, đôi đũa trong tay
Quân Vỹ rắc một tiếng bị bẻ làm đôi.
Tôi nói: “Hai người…”.
Quân Vỹ thu đôi đũa gẫy, lườm Bách Lý Tấn, nghiến răng nói:
“Không có gì, đừng nghe hắn nói bậy”.
Bách Lý Tấn chặc chặc lưỡi, lắc đầu, ngồi xổm trên bàn, vẻ
mặt mờ ám ghé lại gần, tôi hứng thú ghé sát lại.
Anh ta ghé gần tai tôi: “Cô không biết, người này tối qua
nằm mơ, trong mơ huynh ấy...”. Lời chưa dứt bị một miếng bánh bao chay nhét vào
miệng.