Bức thư tình cuối - Phần III - Chương 26 - Phần 2 (Hết)

Ông ngồi đây từ lúc mười giờ bốn lăm phút. Giờ đã là mười hai giờ bảy phút.

Ông đưa đồng hồ lên tai và lắc nhẹ. Tự sâu thẳm trong tim ông vẫn không tin rồi điều này sẽ thành hiện thực. Sao có thể được? Nếu bạn đã từng làm lâu năm cho kho lưu trữ của một tờ báo, bạn sẽ thường xuyên được đọc những câu chuyện lặp đi lặp lại: chiến tranh, nạn đói, khủng hoảng tài chính, những mối tình tan vỡ, li hôn. Cái chết. Đau tim. Có một vài chuyện kết thúc có hậu. Tất cả những gì ông có đều đơn giản là phần thưởng, ông tự nhủ một cách chắc nịch khi kim đồng hồ tiếp tục dịch chuyển. Đó là điệp khúc quen thuộc khiến ông đau đớn.

Mưa bắt đầu nặng hạt và công viên trở nên vắng lặng. Chỉ còn ông ngồi lại trong chiếc chòi nhỏ. Ở phía xa là con đường lớn với những chiếc xe chạy ào ào trong mưa, bắn nước tung tóe lên hai bên đường.

Đã mười hai giờ mười lăm phút.

Anthony O’Hare tự nhắc mình về tất cả những gì ông đã biết ơn vì cuộc đời mang lại cho ông. Bác sĩ của ông cũng phải ngạc nhiên vì ông vẫn còn sống sót. Anthony ngờ rằng vị bác sĩ đó từ lâu đã sử dụng câu chuyện của ông như một minh chứng cho các bệnh nhân bị bệnh gan khác. Tình trạng sức khỏe tồi tệ của ông là một thách thức cho các bác sĩ và nền y học. Ông thoáng tự hỏi có nên làm một chuyến du lịch cuối đời không. Ông không muốn thăm lại Congo, nhưng Nam Phi có thể là một điểm đến hấp dẫn. Cũng có thể là Kenya. Ông sẽ về nhà và lên kế hoạch. Ông sẽ để mình bận rộn với những kế hoạch này.

Ông nghe tiếng phanh kít của một chiếc xe buýt, tiếng hét thất thanh đầy giận dữ của một người đi xe đạp. Chỉ cần biết bà đã từng yêu ông, thế là đủ rồi, đúng không? Chắc chắn một trong những món quà mà tuổi già mang lại chính là khả năng có thể sắp xếp mọi thứ trong một tổng thể hợp lí. Ông đã từng yêu một người đàn bà, người đã yêu ông hơn cả ông từng nghĩ. Bà vẫn ở đó. Thế là đủ cho ông.

Mười hai giờ hai mươi mốt phút.

Và rồi, khi ông vừa định đứng dậy, cuộn tròn tờ báo trong tay và đi về nhà, ông nhìn thấy một chiếc ô tô nhỏ xinh dừng ngay trước cửa công viên. Ông dừng lại, bị che khuất tầm nhìn bởi chiếc chòi nhỏ.

Hơi một chút lưỡng lự. Cửa xe bật mở và dưới chiếc ô vừa được mở xuất hiện một cặp chân chuẩn bị bước ra khỏi xe cúi xuống nói gì đó với người lái xe và đôi chân đó sải từng bước về phía công viên, theo lối mòn nhỏ về phía chòi.

Anthony O’Hare đứng thẳng dậy, vuốt lại chiếc áo choàng và mái tóc cho đỡ rối. Ông không thể rời mặt khỏi đôi giày và những sải chân dứt khoát dù bị chiếc dù che mất một phần. Ông tiến một bước về phía trước, không biết nên nói gì và làm gì. Tim ông thổn thức đập. Tai ông như nghe thấy những lời ca. Đôi chân, với chiếc tất sẫm màu, dừng lại trước mặt ông. Chiếc ô từ từ hạ xuống. Và bà đứng đó, vẫn như ngày xưa, khiến người đối diện phải choáng váng, vẫn nụ cười nơi khóe miệng khi mắt bà gặp mắt ông. Ông không thể cất lên lời. Ông không ngừng nhìn bà, khi trong tai ông vẫn văng vẳng tên của bà.

Jennifer

“Chào Boot,” bà nói.

Ellie ngồi trong xe, dùng tay áo lau hơi nước đọng mờ trên cửa xe. Cô đậu ngay ở khu vực cấm dừng đỗ, chắc chắn sẽ là mục tiêu cho cảnh sát giao thông, nhưng cô không quan trọng chuyện đó. Cô không thể lái đi chỗ khác.

Cô nhìn theo Jennifer bước dọc theo con đường nhỏ, thỉnh thoảng bà ngập ngừng như thể vẫn còn lo sợ. Đã hai lần bà nhất định đòi quay về, rằng họ đã tới quá trễ, rằng mọi thứ đã mất rồi, và vô ích thôi. Ellie giả đò như không nghe thấy gì. Cô còn hát lalalalalala cho tới khi Jennifer Stirling quay sang nói với cô, với sự bực tức hiếm khi thấy ở bà, rằng cô là một cô gái “kì quặc và dai như đỉa”.

Cô vẫn tiếp tục nhìn theo bóng dáng Jennifer mảnh mai dưới chiếc ô và chỉ sợ bà đổi ý và quay đầu chạy. Cô bỗng nhận ra rằng tuổi tác không phải là cản trở đối với một tình yêu đích thực. Cô đã nghe Jennifer tâm sự, thấy bà vô cùng bối rối giữa một bên có thể là kết thúc tốt đẹp và một bên là thảm họa. Rồi cô nghe thấy chính mình đang mổ xẻ những lời nói của John, niềm khao khát mãnh liệt để biến một điều sai sót thành điều đúng đắn.

Nhưng Anthony O’Hare là một người hoàn toàn khác.

Cô lau cửa kính lần nữa và thấy Jennifer bước chậm dần rồi dừng lại. Và ông bước ra từ trong chiếc chòi trú mưa, có vẻ cao hơn so với những lần cô gặp ông, ông cũng ngập ngừng dừng lại một lúc trên lối đi ra trước khi ông đứng ngay trước bà. Họ đối mặt nhau, người phụ nữ mảnh mai trong chiếc áo đi mưa và người phụ trách thư viện. Ngay cả từ khoảng cách này Ellie cũng có thể thấy họ dường như quên rằng họ đang đứng dưới mưa, ở một công viên nhỏ bé với rất nhiều ánh mắt hiếu kì xung quanh. Mắt họ gắn chặt vào nhau và họ đứng đó như thể họ sẽ đứng đó thêm một nghìn năm nữa. Jennifer thả chiếc ô xuống, đầu nghiêng sang một bên và rất nhẹ nhàng đưa tay lên rờ mặt ông. Anthony đưa tay lên và áp chặt bàn tay bà vào mặt ông.

Ellie Haworth dõi theo họ một lúc, rồi cô quay đi và để mặc cho cửa kính xe mờ đi vì hơi nước. Cô trở về sau tay lái, hỉ mũi và khởi động máy. Một nhà báo giỏi là người biết dừng câu chuyện đúng lúc.

Tòa nhà nằm trên một con phố với những ngôi nhà kiến trúc đặc trưng thời Victoria, cửa sổ và lối đi được lát đá trắng, những tấm rèm cửa chẳng hề giống nhau cho thấy tòa nhà có nhiều căn hộ được sở hữu bởi những người khác nhau. Cô tắt máy, bước ra khỏi xe và đi về phía cửa chính, dò tên trên những chiếc chuông gắn trên tường. Chỉ có duy nhất tên anh ở căn hộ tầng trệt. Cô hơi ngạc nhiên; cô vẫn nghĩ anh không thể có một căn hộ của riêng mình. Nhưng, thực tế là, cô đã biết gì về anh? Chẳng có gì cả.

Cô để bài báo mình viết trong một bao thư lớn màu nâu, đề tên anh ở ngoài. Cô đút bức thư qua cửa và quay ra phía cổng chính. Cô bước lên bậc thềm và ngồi trên một chiếc trụ gạch, quấn khăn choàng quanh mặt. Cô đã quá quen với việc ngồi và chờ đợi thế này rồi. Được ngồi yên tĩnh nhìn thế giới chuyển động quanh mình cũng có cái thú của nó. Đôi khi chúng thú vị ở ngay những điều mình không ngờ tới.

Ở bên kia đường, một phụ nữ cao lớn đang vẫy tay chào tạm biệt cậu thanh niên. Cậu ta kéo mũ trùm đầu, gắn tai nghe vào tai và không hề ngoái lại nhìn mẹ. Phía cuối đường, hai người đàn ông tựa người cạnh nắp capo của một chiếc ô tô lớn. Họ đang nói chuyện với nhau và chẳng có vẻ gì để tâm tới dàn động cơ xe. “Cô viết sai tên Ruaridh rồi.”

Cô liếc nhìn ra phía sau, anh xuất hiện ngay ở cửa xe với tờ báo trên tay. “Tôi đã làm nhiều việc sai.”

Anh mặc đúng chiếc áo thun dài tay mà anh đã gặp lần đầu tiên họ nói chuyện với nhau, chiếc áo đã khá cũ sau nhiều năm sử dụng. Cô nhớ là cô đã rất ấn tượng trước việc anh không quá chú ý tới chuyện quần áo. Cô cũng nhớ cảm giác những ngón tay của cô ở trên chiếc áo thun đó.

“Một bài viết hay,” anh nói và giơ tờ báo lên. “’John thân yêu, Những Bức Thư Cuối Cùng Của Một Mối Tình 50 năm’. Tôi thấy giờ cô đã trở thành cục vàng của ban Phóng sự rồi.”

“Chỉ là bây giờ thôi,” cô nói, “thực ra, có một tình tiết tôi đã dựng lên. Là một điều tôi chắc chắn sẽ nói. Nếu tôi có cơ hội.”

Hình như anh không nghe cô nói. “Vậy là Jennifer đồng ý để cô sử dụng bức thư đầu tiên đó?”

“Đúng vậy. Để nặc danh. Tôi kể cho bà tất cả và bà đã cư xử rất tuyệt.” Gương mặt anh không hề thay đổi.

Anh có nghe tôi nói không? Cô thầm hỏi anh. “Tôi nghĩ bà đã khá ngạc nhiên, nhưng sau tất cả những gì xảy ra, tôi không nghĩ bà quan tâm tới những gì tôi đã làm.”

“Anthony tới đây hôm qua. Ông hoàn toàn lột xác thành một người khác. Tôi không biết vì sao ông tới đây. Tôi nghĩ chắc ông cần một ai đó để nói chuyện.” Anh gật đầu, nhớ lại. “Ông mặc một chiếc áo sơ mi mới và thắt cà vạt mới. Với một mái tóc mới được cắt gọn gàng.”

Ý nghĩ đó khiến cô mỉm cười.

Im lặng một lúc, rồi Ruaridh bước về phía bậc thềm, hay tay để lên đầu.

“Cô đã làm được một việc có ý nghĩa.”

“Tôi hi vọng vậy,” cô nói. “Thật tuyệt khi biết một ai đó có được một kết cục hạnh phúc.”

Một ông già dẫn chó đi dạo ngang qua trước mặt họ, chóp mũi ông ửng đỏ vì lạnh, họ khẽ chào nhau. Cô ngẩng lên và thấy Ruaridh đang nhìn xuống chân. Cô nhìn anh, tự hỏi liệu đây có phải là lần cuối cùng họ còn nhìn thấy nhau. Em xin lỗi, cô thầm nói với anh.

“Lẽ ra tôi nên mời cô vào nhà,” anh nói, “nhưng tôi đang đóng gói. Có quá nhiều thứ phải dọn dẹp.”

Cô đưa một tay lên, cố không để lộ sự thất vọng. Cô bước xuống chiếc trụ gạch, vải quần của cô chạm nhẹ lên mặt thềm và cô khoác túi lên vai. Cô thấy như mình đang đứng không trọng lượng.

“Vậy... cô còn mong muốn gì nữa không? Ngoài việc là, cô biết đấy, một cô gái làm bàn giấy thích vui chơi?”

Trời bỗng rất lạnh. Cô nhét chặt tay vào túi áo. Anh nhìn cô kiên nhẫn và chờ đợi. Cô sợ phải nói ra. Nếu anh nói không, cô biết mình sẽ đau lòng như thế nào. Đó là lí do vì sao phải mất hàng tuần cô mới đủ can đảm tới gặp anh. Nhưng cô còn gì để mất? Cô sẽ không còn cơ hội gặp anh lần nữa.

Cô hít một hơi dài. “Tôi muốn biết... anh có thể viết thư cho tôi không.”

“Viết cho cô?”

“Những lúc anh đi xa. Ruaridh, em suy sụp. Em không thể đòi hỏi anh điều gì, nhưng em nhớ anh. Em thực sự rất nhớ anh. Em vẫn muốn nghĩ rằng chúng ta có thể làm gì đó. Chúng ta có thể...” Cô bối rối, lau mũi, “... viết thư cho nhau.”

“Viết thư.”

“Chỉ cần viết về... những chuyện lặt vặt. Anh đang làm gì. Mọi việc ra sao. Anh ở đâu.” Những từ ngữ bật ra một cách yếu ớt.

Anh dúi tay vào túi áo khoác và nhìn xuống đường. Anh không trả lời. Khoảnh khắc im lặng dài dằng dặc như con đường trước mặt. “Trời rét cóng,” cuối cùng anh cũng cất tiếng.

Cô thấy có cái gì đó trĩu nặng đè xuống tim cô. Câu chuyện của họ đã chấm hết. Anh thậm chí không còn gì để nói với cô. Anh liếc nhìn phía sau như một lời xin lỗi. “Tôi đã cắt toàn bộ hệ thống sưởi trong nhà.”

Cô không thể nói lời nào. Cô nhún vai và cố mỉm cười dù cô nghĩ nó trông giống như cô đang nhăn nhó hơn. Cô quay mặt đi và nghe giọng anh cất lên lần nữa.

“Tôi nghĩ cô có thể vào nhà và làm cho tôi một li cà phê nóng. Trong lúc tôi xếp đống tất của mình. Hình như nếu tôi nhớ không lầm, cô vẫn nợ tôi một li cà phê.”

Khi cô ngoảnh lại nhìn anh, mặt anh không còn sự lạnh lùng như trước nữa. Chưa hẳn là hoàn toàn rạng ngời nhưng đã có nét nào đó rất ấm áp. “Có thể cô liếc qua visa đi Peru của tôi, xem có lỗi chính tả nào không.”

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Cô đưa mắt nhìn anh, nhìn đôi chân đi tất của anh, mái tóc màu nâu hiếm khi nào gọn gàng của anh. “Anh chắc chắn không muốn nhầm lẫn giữa Patallacta với Phuyupatmarca,” cô nói.

Anh nhướn mắt nhìn lên trời, khẽ lắc đầu. Và, cố gắng giấu nụ cười tươi, Ellie bước vào nhà sau anh.

Lời cảm ơn

Mỗi chương trong cuốn sách này được lấy cảm hứng từ những bức thư cuối cùng mà những người tình gửi cho nhau, có thể là thư tay, thư điện tử hay một hình thức liên lạc tương tự nào đó, ngoại trừ bức thư trong chính cuốn truyện này.

Hầu hết những bức thư được chủ nhân của chúng hào phóng mến tặng tôi nhờ vào lời kêu gọi của tôi, và trong tất cả những bức thư chưa công bố trước đây tôi đã giấu danh tính của người gửi và người nhận, để bảo vệ những người không liên quan (hoặc không liên quan nhiều lắm).

Tuy nhiên, để tổng hợp những bức thư này tôi đã cần tới sự trợ giúp của một vài người và tôi rất vui mừng được ngỏ lời cám ơn họ ở đây. Xin gửi lời cảm ơn tới Brigid Coady, Suzanne Parry, Kate Lord Brown, Danuta Kean, Louise McKee, Suzanne Hirsh, Fiona Veacock và những con người hào phóng tuyệt vời khác nhưng không muốn nêu tên đã cung cấp cho tôi những bức thư tình cuối cùng của họ.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Jeanette Winterson, gia đình F. Scott Fitzgerald và trường Đại học Báo chí New England đã cho phép tôi trích dẫn những bức thư văn học dùng trong cuốn sách này.

Cám ơn đội ngũ làm việc tuyệt vời tại Hachetter: biên tập viên Carolyn Mays, Francesca Best, Eleni Fostiropoulos, Lucy Hale, đội ngũ tiếp thị sách và kĩ năng biên tập đáng nể của Hazel Orme.

Xin cảm ơn đội ngũ làm việc tại Curtis Brown, đặc biệt đại lí của tôi, bà Sheila Crowley. Xin được bày tỏ sự biết ơn Thư viện Báo chí Anh Quốc tại Colindate, một kho tàng tuyệt vời cho những nhà văn muốn đắm mình trong một thế giới hoàn toàn khác.

Cảm ơn bố mẹ tôi, Jim Moyes và Lizzi Sanders, và Brian Sanders. Cảm ơn hội đồng Writersblock, một nguồn động viên và khích lệ tôi liên tục và cũng là nơi tôi dành nhiều thời gian nhất.

Cuối cùng, lời cám ơn lớn nhất xin dành cho gia đình tôi, Charles, Saskia, Harry và Lockie.

Thực hiện bởi

nhóm Biên tập viên Gác Sách:

Ariko Yuta - Phục Sinh - H.y

(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3