Bức thư tình cuối - Phần I - Chương 07 - Phần 2
Cửa sổ văn phòng ám đầy khói thuốc đến mức bất kì ai vô tình dựa vào chúng cũng khiến cánh tay áo vàng khè. Anthony lơ đễnh nhìn qua đống bàn giấy bừa bộn trong phòng làm việc. Hai ngày hôm nay anh thơ thẩn trong văn phòng với bức thư luôn giữ bên mình, tự hỏi có cách nào để có thể đưa tận tay cho cô. Lúc nào anh cũng mường tượng ra gương mặt cô, ánh mắt đau khổ tột cùng khi nhận ra những điều cô mong muốn chỉ là một sai lầm.
“Tony?”
“Sao cơ?”
“Tôi có tin tốt cho anh đây.”
“Ồ, thế hả?”
“Tôi đã nói chuyện với bộ phận Tin tức Quốc tế và họ muốn tôi cử một ai đó tới Baghdad. Công việc cần làm là bám theo một nhân viên làm tại sứ quán Ba Lan mà họ cho rằng có thể là một siêu điệp viên. Một phóng sự đầy khó nhằn đấy anh bạn. Anh có thể phải vắng mặt khoảng một hay hai tuần gì đó.”
“Tôi không thể đi ngay bây giờ.”
“Anh cần thêm một hay hai ngày?”
“Tôi có một vài công việc riêng phải giải quyết.”
“Tôi có cần phải bảo người Algieri ngừng bắn chỉ vì anh có vài việc cá nhân phải thu xếp? Anh có đùa tôi không đấy, O'Hare?”
“Vậy thì hãy cử người khác đi. Tôi rất tiếc, Don.”
Chiếc bút bi trong tay Don bắt đầu quay vòng không kiềm chế. “Tôi không hiểu. Anh đi lại như kẻ rỗi hơi trong văn phòng, phàn nàn là anh cần phải được đi thực tế để có một bản tin ‘thực sự’, vì thế tôi cho anh một cơ hội mà tôi cá là Peterson sẵn sàng chặt đứt cánh tay anh ta để có được cơ hội đó, vậy mà bỗng nhiên anh lại muốn ngồi tại bàn giấy viết tin.”
“Tôi đã nói rồi, tôi rất tiếc.”
Don há hốc mồm. Ông đứng dậy một cách nặng nề, đi ngang qua văn phòng và tiến về phía cửa ra vào. Sau đó ông quay lại chỗ ngồi. “Tony, đây sẽ là một phóng sự hay. Anh sẽ bị nó hút hồn ngay lập tức đấy. Hơn thế nữa, anh cần phóng sự này. Anh cần chứng tỏ cho họ thấy là họ có thể tin tưởng anh.” Rồi ông ghé sát mặt vào anh. “Anh không còn hứng viết nữa hả? Có phải anh muốn chuyển sang những đề tài nhẹ nhàng hơn?”
“Không phải thế. Tôi chỉ... Chỉ là hãy cho tôi thêm một hai ngày nữa.”
Don ngồi xuống, đốt thêm một điếu thuốc và rít lên một cách ồn ào. “Lạy Chúa tôi,” ông nói. “Đó hẳn là vì một mụ đàn bà.”
Anthony không nói gì.
“Chắc chắn rồi. Anh đã gặp một người đàn bà nào đó. Có chuyện gì vậy? Anh không thể đi đâu cho đến khi anh làm tình xong với cô ta ư?”
“Cô ấy đã có chồng.”
“Từ khi nào anh lại có suy nghĩ tử tế như vậy?”
“Cô ấy là... Đó là vợ của... Stirling.”
“Và?”
“Và cô ấy là một người quá tử tế.”
“Đối với anh chồng? Đừng nói với tôi điều đó.”
“Đối với tôi. Tôi không biết phải làm gì tiếp.”
Don ngửa mặt nhìn trần nhà.
“Ồ, một sự cắn rứt lương tâm? Hèn chi mấy ngày nay anh trông thật thảm hại.” Ông lắc đầu, nói như thể có ai đó đang cùng ngồi trong căn phòng nhỏ. “Tôi không tin điều đó. Với ai thì có thể, chứ không thể là với O'Hare.” Rồi ông để lại chiếc bút bi trên bàn bằng đôi bàn tay mũm mĩm. “Thôi được rồi. Đây là việc anh cần làm lúc này. Hãy tìm gặp cô ta ngay lập tức, hãy làm việc anh cần làm, hãy bày tỏ với cô ta anh ham muốn mãnh liệt như thế nào. Rồi đúng giờ có mặt trên chuyến bay xuất phát trưa mai. Tôi sẽ báo văn phòng là anh đã đi từ tối nay. Sao, anh thấy thế nào? Khi về hãy viết cho tôi một vài phóng sự cho tử tế.”
“‘Bày tỏ công khai ham muốn mãnh liệt’? Ông thật lãng mạn một cách cổ điển. Không còn cách diễn tả nào hay hơn ư?”
Anthony cảm nhận sự hiện diện của bức thư trong túi áo ngực. “Tôi nợ ông lần này,” anh nói.
“Anh nợ tôi tám mươi ba lần, con trai ạ,” Don gầm gừ.
Không mấy khó khăn để tìm ra địa chỉ nhà Stirling. Anh đã chụp lại trang thông tin Ai là Ai, và kia, ngay dưới cùng là vần “m: Jennifer Louisa Verrinder, sinh năm 1934”. Tối hôm đó, sau giờ làm việc, anh phóng xe như bay tới Fitzrovia và đậu tại bãi đỗ chỉ cách ngôi nhà sơn trắng vài bước.
Đó là một ngôi biệt thự theo kiểu kiến trúc thời nhiếp chính với hàng cột trụ đỡ mái vòm phía trước. Toàn bộ ngôi nhà toát lên vẻ sang trọng của một văn phòng tư vấn trên đường Harley. Anh ngồi trong xe và tự hỏi cô đang làm gì đằng sau những tấm rèm kia. Anh tưởng tượng cô cầm một tờ tạp chí trên tay, lơ đãng nhìn ra khoảng không trong phòng và nghĩ về giây phút cô hoàn toàn mất kiểm soát trong căn phòng khách sạn tại Pháp. Khoảng gần sáu giờ rưỡi, một người phụ nữ trung niên mở cửa và đi ra ngoài, khoác lên người chiếc áo choàng, bà ngước nhìn như thể muốn kiểm tra trời có mưa hay không. Bà buộc chặt chiếc mũ che mưa lên đầu và bước vội dọc theo phố. Những tấm rèm được kéo ra bởi một ai đó và buổi chiều oi ả đang dần chuyển tối, còn anh vẫn kiên nhẫn ngồi trong chiếc Hillman, nhìn chằm chằm vào căn nhà số ba mươi hai.
Anh vừa định bỏ đi thì cửa trước bật mở. Anh ngồi thẳng người khi thấy cô bước ra ngoài. Đã gần 9 giờ tối. Cô mặc một chiếc đầm trắng không tay, trên vai khoác hờ một chiếc khăn mỏng và cô cẩn trọng bước từng bước xuống bậc thang, như thể cô không tin vào đôi chân của mình. Stirling đi ngay sau cô, nói điều gì đó mà Anthony không thể nghe thấy, chỉ thấy cô gật đầu. Cả hai bước vào chiếc ô tô màu đen. Khi chiếc xe vừa lướt đi thì Anthony cũng nhanh tay khởi động xe mình. Anh bám sát theo họ, chỉ cách một chiếc xe.
Họ đi không xa. Chiếc xe đỗ ngay cửa sòng bài Mayfair. Cô sửa lại váy áo rồi bước vội vào trong, chiếc khăn choàng được bỏ ra khỏi vai. Khi chắc chắn Stirling đã bước vào trong, anh đánh chiếc Hillman tới đỗ ngay đằng sau chiếc xe màu đen. “Làm ơn tìm chỗ đỗ cho tôi,” anh vội vàng nói với người gác cổng có vẻ mặt đầy ngờ vực, vứt cho anh ta chùm chìa khóa và dúi vào tay anh ta tờ mười siling.
“Thưa ngài, làm ơn cho tôi xem thẻ thành viên?” Anh bị một người đàn ông mặc đồng phục sòng bài giữ lại khi đang cố lách người vào sảnh. “Thẻ thành viên thưa ngài?”
Nhà Stirling chuẩn bị bước vào thang máy. Anh chỉ có thể thấy cô thấp thoáng trong đám đông. “Tôi cần nói chuyện với một người. Chỉ hai phút thôi.”
“Thưa ngài, tôi e rằng tôi không thể để ngài vào mà không có -”
Anthony lôi tất cả những gì anh có trong túi áo ra, từ ví tiền, chìa khóa nhà, hộ chiếu - anh dúi tất cả vào tay người đàn ông đang cố giữ anh lại. “Hãy giữ lấy - giữ tất đi. Tôi hứa tôi sẽ quay trở lại trong hai phút.” Và khi người đàn ông ấy còn đang há hốc mồm chưa hiểu gì, anh đã lách mình qua đám đông và kịp nép mình vào thang máy ngay khi cửa thang máy đóng lại.
Stirling đứng ngay bên phải anh. Anh kéo vành mũ sụp xuống một chút đủ che mặt, và khi chắc chắn anh ta không thể nhận ra mình, anh len ra phía sau cho tới khi lưng chạm vào tường thang máy.
Tất cả mọi người đều quay mặt về phía cửa thang máy. Stirling, lúc này đang đứng trước mặt anh, mải mê nói chuyện với một ai đó có vẻ là người quen. Anthony nghe ông ta nói về thị trường, về khủng hoảng tín dụng và người kia thì thầm lại một cách đồng tình. Anh nghe rõ tiếng tim đập mạnh, mồ hôi túa ra sau lưng. Cô đeo một chiếc xắc nhỏ và đôi tay đeo găng trắng, mặt cô bất động, chỉ có vài sợi tóc tơ vàng rớt xuống vai từ búi tóc của cô là cho thấy cô là hiện thực chứ không phải là một thiên thần hiện hình nào đó.
“Tầng hai.”
Cửa thang máy mở, hai người bước ra và một người bước vào. Những người còn lại miễn cưỡng dịch chuyển để nhường chỗ cho người mới vào. Stirling vẫn nói chuyện, giọng ông lên xuống trầm bổng rất ấn tượng. Đó là một buổi tối ấm áp và trong không gian nhỏ hẹp của thang máy, Anthony có thể cảm nhận rõ hơi thở của những người xung quanh, mùi nước hoa và kem dưỡng thể Brylcreem vương vấn trong không khí.
Anh ngẩng đầu lên một chút và dán chặt mắt vào Jennifer. Cô chỉ cách anh chưa tới một bước, gần tới mức anh có thể cảm nhận mùi hương từ người cô tỏa ra và từng nốt tàn nhang lấm tấm trên cổ cô. Anh tiếp tục nhìn cô chăm chú, cho tới khi cô hơi ngoảnh lại - và thấy anh. Mắt cô mở to, má cô ửng đỏ. Chồng cô vẫn mải mê nói chuyện.
Cô nhìn xuống nền nhà, rồi lại nhìn Anthony, ngực cô phập phồng thấy rõ, chứng tỏ việc anh xuất hiện ở đây đã khiến cô sốc như thế nào. Mắt họ gặp nhau, và trong vài giây ngắn ngủi đó, anh đã nói với cô tất cả. Anh nói với cô rằng cô là vật thể đáng ngạc nhiên nhất anh từng gặp. Anh nói với cô rằng cô đã hiện về trong từng giờ khắc anh thức và rằng mọi cảm giác, trải nghiệm anh đã từng có trong cuộc đời này cho tới thời điểm anh gặp cô là vô nghĩa và chẳng có gì quan trọng so với việc anh được gặp cô.
Anh nói rằng anh yêu cô.
“Tầng 3”
Cô chớp mắt và họ rời khỏi mắt nhau khi một người đàn ông phía sau đi vào giữa họ và bước ra khỏi thang máy. Giữa họ lúc này hầu như không có khoảng cách. Anthony thọc tay vào túi áo lấy bức thư ra. Anh bước sang phải một bước rồi dúi bức thư vào tay cô từ đằng sau chiếc áo choàng to của một người đàn ông đang ho. Chồng cô lắc đầu không đồng tình điều gì đó với người đồng hành, rồi cả hai cười không có vẻ gì đùa cợt. Trong một khoảnh khắc, Anthony nghĩ có lẽ cô sẽ không đưa tay ra nhận bức thư của anh, nhưng rồi bàn tay đeo găng nhẹ nhàng luồn ra phía sau và bức thư biến mất vào chiếc xắc của cô.
“Tầng 4,” người trực thang máy gọi to. “Đã tới nhà hàng.”
Tất cả mọi người trừ Anthony bước ra ngoài. Stirling liếc sang phải, có vẻ giờ ông đã nhớ ra sự hiện diện của vợ, và ông nắm tay vợ, không phải một cử chỉ tình cảm lãng mạn gì mà chỉ để kéo cô nhanh ra ngoài. Anthony nhanh chóng nhận ra điều đó. Cửa thang máy đóng lại sau lưng cô, để lại anh một mình và người trực thang máy tiếp tục hô to “Tầng trệt,” thang máy từ từ đi xuống.
Anthony không hề hi vọng sẽ có một sự trả lời. Anh thậm chí không thèm kiểm tra hòm thư riêng cho tới lúc anh rời khỏi nhà vào tối muộn và phát hiện hai bức thư nhét dưới tấm thảm chùi ngoài cửa. Anh nửa đi nửa chạy trên vỉa hè đông đúc, chật cứng các bác sĩ và bệnh nhân vừa rời khỏi bệnh viện St Bartholomew, chiếc va li hành lí liên tục đập vào chân. Anh cần có mặt ở sân bay Hearthrow lúc hai giờ rưỡi và anh không biết làm sao có thể tới đó cho kịp. Những nét chữ viết tay của cô làm anh sững sờ và anh còn hoảng hốt hơn khi biết giờ đã là mười hai giờ kém mười, mà anh thì đang ở tít đầu bên kia của London.
Công viên Postman. Buổi trưa.
Taxi biến đi đâu hết. Một nửa quãng đường anh leo lên tàu điện ngầm, còn lại anh chạy bộ. Chiếc sơ mi anh mất công là phẳng phiu giờ bết chặt vào người, tóc rũ rượi trước trán. “Xin lỗi,” anh càu nhàu khi bị một người phụ nữ đi giày cao gót chắn đường. “Làm ơn cho tôi qua.” Một chiếc xe buýt xịt khói ngay trước mặt anh và anh nghe thấy người phụ lái rung chuông để xe chạy tiếp. Anh chần chừ khi thấy một dòng người đổ xuống vỉa hè, anh cố gắng thở và nhìn đồng hồ. Đã 12 giờ 15 phút. Chắc chắn là cô không còn kiên nhẫn đợi anh nữa.
Anh đang làm cái quái quỷ gì vậy? Nếu anh lỡ chuyến bay này, Don sẽ nghĩ anh tiếp tục chơi bời với những Đám cưới vàng và các Dịp lễ hội khác trong mười năm tới. Họ sẽ nghĩ anh không đủ khả năng đương đầu với những phóng sự khó và có lí do chính đáng để giao lại đề tài cho Murfett hay Phipps.
Anh chạy dọc theo phố King Edward, thở dốc. Anh đã ở khu ốc đảo yên tĩnh nhỏ xinh ngay giữa lòng thành phố. Công viên Postman là một khu vườn nhỏ, được xây dưới triều đại Victoria để tưởng nhớ những người anh hùng. Anh đi chậm lại về phía trung tâm của công viên, cố gắng nhớ lại.
Trước mặt anh là một làn sóng xanh di động. Bình tĩnh nhìn lại, anh nhận ra đó là những người đưa thư trong đồng phục xanh, người nằm dài trên cỏ, người tản bộ, người thì xếp hàng ngồi trên những chiếc ghế dài và thơ thẩn đọc những dòng chữ tưởng nhớ khắc trên đó. Những người đưa thư của thành phố đang tận hưởng một buổi trưa ngập nắng với vẻ chất phác bình dị đặc trưng, họ vừa ăn bánh mì kẹp vừa tán gẫu và thư giãn dưới bóng râm lốm đốm của tán cây.
Anh đã có thể thở đều. Thả hành lí xuống cạnh chân, anh rút chiếc khăn tay và lau mồ hôi trên trán, rồi anh chầm chậm nhìn quanh một vòng, ánh mắt anh vượt qua những bụi dương xỉ lớn, bức tường của nhà thờ và nhìn về phía bóng râm đổ xuống của toàn nhà văn phòng bên cạnh. Anh tìm kiếm chiếc đầm màu lục trang trí bằng ngọc quý, mái tóc vàng óng ánh.
Cô không có ở đây.
Anh nhìn đồng hồ. Mười hai giờ hai mươi. Cô hẳn đã đến và đi. Cũng có thể cô đã đổi ý. Có thể Stirling đã đọc được bức thư đó. Anh sực nhớ tới bức thư thứ hai anh đã tìm thấy dưới tấm thảm chùi chân, bức thư của Clarissa, mà anh đã đút vội vào túi áo khi rời khỏi nhà. Anh lôi ra và đọc lướt. Chưa bao giờ anh đọc những bức thư viết tay của Clarissa mà không nghe thấy tiếng thở dài não lòng của cô hay không tưởng tượng ra cảnh cô cài chặt nút áo choàng và khuy cổ mỗi khi nhìn thấy anh, như thể cô sợ anh có thể làm gì đó bậy bạ nếu thấy da thịt cô.
Anh Anthony,
Em muốn báo với anh rằng em sắp cưới chồng.
Anh cảm thấy hơi sốc với ý nghĩ Clarissa cuối cùng cũng có thể tìm thấy hạnh phúc với một người đàn ông khác. Anh đã từng nghĩ cô khó có thể sống chung với một ai đó.
Em đã gặp một người đàn ông tử tế, anh ấy là chủ một chuỗi cửa hàng bán vải và anh ấy vui vẻ chấp nhận cả em và Philip. Anh ấy là một người tốt bụng, anh ấy nói sẽ đối xử với Philip như con đẻ. Đám cưới dự định tổ chức vào tháng 9. Thật không dễ dàng gì khi đề cập tới chuyện này, nhưng chắc anh phải nghĩ xem anh muốn liên lạc với cậu bé ở chừng mực nào. Em muốn anh ấy có một cuộc sống gia đình bình thường, vì thế nếu anh vẫn tiếp tục giữ mối liên hệ thường xuyên với con trai thì có thể sẽ khó để anh ấy hòa nhập hoàn toàn vào cuộc sống của hai mẹ con em.
Hãy suy nghĩ kĩ và cho em biết.
Em sẽ không cần đến sự hỗ trợ tài chính từ anh nữa vì Edgar có thể nuôi gia đình anh ấy. Em gửi kèm theo đây địa chỉ mới của em.
Chào anh,
Clarissa
Anh đọc lại bức thư lần nữa, nhưng phải tới lần thứ ba anh mới hiểu những gì cô đang đề nghị: Philip, con trai anh, sẽ được nuôi dạy bởi một thương gia buôn vải tử tế và sẽ không cần đến người cha lang thang không đáng tin cậy này. Đất trời sụp đổ dưới chân anh. Đột nhiên anh thèm được nốc một li rượu và thấy trước mặt phía bên kia đường là một quán rượu.
“Ôi, Lạy Chúa,” anh nói to, đầu gối khuỵu xuống, đôi tay buông thõng và đầu cúi gập. Anh giữ nguyên tư thế trong vài phút, cố gắng suy nghĩ và cố gắng giữ nhịp tim trở lại bình thường. Rồi với một tiếng thở dài anh đứng thẳng dậy. Cô đứng ngay trước mặt anh. Cô mang một chiếc đầm trắng điểm những bông hồng đỏ to và một đôi kính râm quá khổ. Cô đẩy đôi mắt kính để lên đầu. Anh bất chợt thở ra một tiếng thờ phào nhẹ nhõm ngay trước mặt cô.
“Tôi không thể ở lại,” anh thốt lên. “Tôi phải bay đi Baghdad ngay bây giờ. Chuyến bay của tôi khởi hành lúc - tôi cũng không nhớ nữa -”
Cô quá đẹp, cô đang tỏa sáng ở độ tuổi thanh xuân rực rỡ nhất, cô hút hồn những người đưa thư, lúc này đã ngừng nói chuyện để ngắm cô.
“Tôi không...” anh lắc đầu. “Tôi có thể nói hết qua những bức thư. Rồi khi gặp cô tôi -”
“Anthony,” cô nói như thể anh là của cô.
“Tôi sẽ trở về trong vòng một tuần gì đó,” anh nói. “Lúc đó nếu cô đồng ý gặp tôi, tôi sẽ giải thích để cô hiểu. Có quá nhiều -”
Nhưng cô đã bước lên phía trước, đôi tay đeo găng áp lên đầu anh và kéo anh về phía cô. Một thoáng do dự, cô gắn chặt môi vào môi anh, miệng cô ấm áp và mãnh liệt đáng ngạc nhiên. Anthony quên hẳn chuyến bay. Anh quên mình đang đứng ở công viên, quên đứa con trai yêu dấu và cô vợ cũ. Anh quên luôn câu chuyện mà sếp anh tin có thể làm anh thích thú. Anh quên rằng cái cảm xúc anh đang có bây giờ còn nguy hiểm hơn cả súng đạn. Anh tự cho phép mình làm theo khao khát của Jennifer: trao anh cho cô, một cách tự nguyện.
“Anthony,” cô đã gọi anh như thế, và chỉ với một từ đó thôi, anh hiểu cô là của anh và anh đã bước vào một cuộc sống mới khác hẳn cuộc sống trước đây của anh.
Chuyện giữa chúng ta đã kết thúc
Tin nhắn của một người đàn bà
gửi cho Jeanette Winterson