Đảo chìm - Phần I - Chương 08 - 09
08 – NGƯỜI LÍNH GÁC ĐẢO CHÌM
Mãi đến sâm sẩm tối, biển mới lặng dần. Nhưng những đám
mây xám đục vẫn tướp táp bay trên nóc đài chỉ huy. Chật vật mãi, con tàu mới
buông được neo. Giờ thì nó chỉ còn lảo đảo, ngật ngưỡng trên sóng như người vừa
mới ốm dậy, vẫn chưa hết váng vất. Nhưng đám lính trẻ đã tỉnh queo như sáo tắm.
Họ ùa cả ra tàu. Xuồng chật thì lóp ngóp bơi bộ. Bức thư của tiểu thư công
nương Mộng Tương lập tức được chuyền tay khắp lượt đám trai trẻ. Hóa ra tụi
lính tàu không bịa. Tiểu thư vẫn còn đang đái dầm. Hai ùm cười sùng sục:
– Hay! Tha hồ là tương lai!
– Tương lai cái khỉ gì!
– Thì em Tương càng trẻ chứ sao? Cậu thích gái già à?
Rồi Hai ùm toác miệng ứng tác luôn hai câu thơ mà cu cậu
rất lấy làm khoái chí:
– Tội gì mê gái đảm đang, Chúng ta chờ lấy cháu ngoan Bác
Hồ. – Này! Đứa nào muốn lọt vào mắt cháu ngoan Bác Hồ thì phải có phiếu bé
ngoan của bố Thuận nhé. Con xin đăng kí làm bé ngoan đây!
Thế là đám lính trẻ lại vây lấy bố Thuận. Xứ đảo chìm
nhộn nhạo như một vườn trẻ. Tư Xồm có vẻ buồn. Cu cậu không tham gia cuộc vui,
chỉ nhếch mép cười gượng gạo. Khi Hai đánh xuồng về lều bạt thì Tư đã lên
giường nằm. Chẳng biết nghĩ ngợi gì mà cậu chàng cứ trằn trọc mãi, thỉnh thoảng
lại đưa tay gãi bụng sồn sột. Căn lều bạt hoang lạnh không một ánh lửa. Trong
đêm, trông nó rờn rợn như hang động người tiền sử. Bầy chim biển chao chát quần
lượn trên nóc lều. Không biết trở trời hay sắp có bão mà chúng lại về hành hạ
thế này? Hai thấy mắt díp lại. Mấy đêm thức trắng đợi tàu. Giờ người cứ bẫng
lẫng. Hai chọc chọc báng súng vào tấm lưng to bè như mai vích của Tư Xồm. Cái
thằng lạ thật! Có gì mà phải đai nịt lỉnh kỉnh thế này. Tối mò còn làm đỏm. Chỉ
tổ cho rệp chim nó rúc. Thảo nào cu cậu gãi khiếp thế. Hai càm ràm:
– Vô lí thật! Thằng được ngủ thì cóc ngủ được. Thằng
không được ngủ thì lại buồn ngủ trĩu mắt. Này, thằng khỉ, gác hộ tao chút. Khi
nào mày buồn ngủ thì trả lại tao. Tao sẽ làm cho mày hai bài báo tường. Được
chưa? Bây giờ ngồi ôm súng nhớ em là tuyệt nhất đấy! Lúc nào buồn ngủ thì đánh
thức tao nhé!
Hai ghệch khẩu súng lên thành giường, rồi chui luôn vào
chăn. Trước khi cất tiếng ngáy như sấm, cậu ta còn dậm doạ:
– Này, nhớ gác cho cẩn thận! Tư lệnh ra đấy. Bố già rất
hay chơi cái trò bất ngờ đột nhập đảo. Lần trước ông cụ đã “cạo” thằng Thiêm
một mẻ tơi bời đấy!
Chuyện ấy xảy ra cách đây đã mấy tháng rồi. Đêm đó đến ca
Thiêm gác. Nhưng mấy ngày liền trằn trọc chờ tàu ra, giờ thì mệt quá, cu cậu
ghệch súng vào lan can lều bạt, rồi cứ ngồi gục thế mà ngủ. Ngủ như chưa bao
giờ được ngủ. Ngoài mép san hô, tàu đang chiếu phim. Cánh lính đảo dồn hết lên
boong xem phim. Con tàu cũng không xa căn lều, ánh sáng của ngọn đèn trên nóc
đài chỉ huy còn rập rềnh rọi qua cửa sổ bạt soi rõ từng tấm chăn rách của lính.
Làm sao có thằng địch nào dám lẻn vào đảo. Thiêm biết vậy nên cứ yên tâm đánh
thẳng một giấc đến sáng. Khi mở mắt, thì quái lạ, khẩu súng AK của cu cậu đã
không cánh mà bay. Thiêm tìm khắp không thấy. Lính mất vũ khí thì toi rồi. Kỉ
luật là cái chắc. Mà không khéo còn phải ra hầu tòa án binh nữa. Bụng Thiêm cồn
cào như lửa đốt. Trong lúc đang bối rối như thế thì Tư lệnh Giáp Văn Cương đánh
xuồng vào. Vừa thấy Thiêm, ông hỏi ngay:
– Mày mất súng phải không? Tao nhặt được đấy. Súng tao
cất ở ngoài tàu kia kìa! Ra đó mà nhận!
Thiêm nhảy lên mừng rỡ. Hóa ra đêm qua, Tư lệnh đột nhập
đảo, thấy Thiêm ngủ khò trong lúc trực chiến, ông quyết định thu súng mang ra
tàu. Phải cảnh cáo cu cậu thôi. Không thể khác được. Gương mặt Tư lệnh thoáng
buồn rượi.
– Lính tráng gì mà lạ. Canh gác kiểu ấy thì chỉ cần một thằng
người nhái vớ vẩn cũng chiếm được đảo!
– Con mệt quá, bố ạ! Mấy hôm vừa rồi không ngủ được!
– Mệt thì sao không báo đơn vị để thằng khác gác thay
cho. Có ai bắt người ốm làm việc đâu?
– Con xin lỗi bố...
– Mày cũng như con cháu tao thôi. Nỡ lòng nào mà tao đày
đọa chúng mày. Nhưng khổ nỗi đây lại là Tổ quốc. Tổ quốc thì không thể bỏ được!
– Tư lệnh cười buồn. – Nếu mày thấy làm lính mệt quá thì vào đất liền làm Tư
lệnh, để tao gác thay cho. Mày làm được Tư lệnh không?
Thiêm bàng hoàng trước câu hỏi đột ngột của Thượng tướng
Giáp Văn Cương. Làm sao con làm được Tư lệnh? Thiêm cười gượng gạo. Thượng
tướng ứa nước mắt. Giọt nước mắt của một ông già ngót bảy mươi tuổi khiến Thiêm
bủn rủn chân tay.
– Con xin lỗi bố!
– Thôi, ra tàu mà nhận súng đi!
Tư lệnh bỗng quát to, như để giấu nỗi xúc động. Có lẽ
thằng bé cũng chỉ bằng tuổi ông khi ông mới nhập ngũ, mới tham gia trận đánh
đầu tiên ở chân đồi A1 Điện Biên Phủ. Cái tuổi ấy đang khỏe ăn, khỏe ngủ. Nó có
vứt súng đi thì cũng chẳng có gì lạ. Ông định cứ để mặc cho thằng bé tìm kiếm
bã bời ra đã rồi sẽ gặp nó sau, để ít ra cu cậu cũng thấy sợ mà chừa cái thói
đểnh đoảng chết người ấy đi. Nhưng rồi ông lại lo cậu ta tưởng súng rơi xuống
biển, lại lao xuống biển mò thì khổ nó mà cũng nguy hiểm nữa. Thế là không kìm
được, vừa rạng sáng, ông đã đánh xuồng vào.
Bây giờ thì Thiêm đã thành người thiên cổ rồi. Không biết
rảnh xương tàn của cậu ta trôi dạt về đâu? Biển cả mênh mông mù mịt thế này.
Tất cả chỉ tại cái lũ ó biển chết tiệt! ở những hòn đảo
lớn, bầy chim giũ xuống cát hàng triệu triệu con rệp. Ngày nóng, lũ rệp lặn sâu
dưới cát. Đêm xuống, đảo nguội dần thì chúng ngoi lên, rồi cứ nhè lính mà đốt.
Đốt rất ngọt, không đau đớn gì, nhưng sau đó thì ngứa. Ngứa khắp người. Da thịt
mẩn đỏ, rồi mưng mủ. Lính không biết chạy đâu cho thoát rệp. Họ như bầy chim
cánh cụt, không có lông bao phủ, che chắn, nên bầy rệp tha hồ mở đại tiệc trên
da thịt lính. Tổng cục Hậu cần đã cử một đoàn bác sĩ ra đảo, chỉ làm mỗi một
việc là tìm cách diệt rệp chim. Thuốc phun chưa tới được mặt cát thì những trận
gió biển cấp 5, cấp 6 đã cuốn bay sạch. Đảo chìm không có cát, rệp lặn vào chăn
chiếu, biến chăn chiếu thành hang ổ kiên cố. Mấy đêm liền, lính đảo không ngủ
được. Thiêm đem chăn xuống biển giặt. Rồi một đợt sóng bất ngờ ào đến, cuốn chiếc
chăn ra xa. Thiêm nhào theo vớt. Nước chảy rất xiết. Thấy Thiêm chới với bên
mép san hô, Tư Xồm vội lao ra. Rồi Tư Xồm cũng bị sóng cuốn nốt. Thế là Hai ùm
nhảy xuống cứu bạn. Nhưng rồi ngay lập tức, con cá kình ấy cũng lại bị biển
nhấn chìm. Đảo khẩn cấp báo động. Tàu trực chiến rú còi, rồi tức tốc cắt sóng
tìm những người bị nạn. Chật vật mãi đến gần nửa đêm, cánh thủy thủ mới tìm vớt
được Hai ùm và Tư Xồm. Còn Thiêm thì chẳng thấy đâu cả. Có lẽ cậu ta bị sóng
quật vào đá ngầm, rồi mắc lại ở một hốc đá nào đó. Mấy ngày sau cũng không tìm
thấy xác.
Suốt một tuần liền, cái chết đột ngột của Thiêm thành bầu
không khí nặng nề trùm khắp hòn đảo. Đến cả tháng sau cũng vẫn thế. Bởi ở đây,
ngày dài lê thê, đêm lại ngắn choặn. Nhiều khi chưa kịp chợp mắt cho khuây thì
đã sáng mất rồi. Bữa nay cũng vậy. Chưa đầy bốn giờ, mặt trời đã hắt nắng lên
tận nóc bạt. Nắng rọi qua cửa sổ. Nắng tỏa từ dưới mặt nước lên. Chính những
luồng nắng rừng rực ấy đã đánh thức Hai dậy. Hai dụi mắt nhìn ra cửa bạt. Rồi
bàng hoàng. Ai như Tư lệnh Cương? Mà đúng là Thượng tướng Giáp Văn Cương. Ông
già đang ôm AK ngồi trước cửa lều. Mái tóc xổ bạc trắng.
– Ối chết, sao, sao lại thế này?
Hai thảng thốt kêu lên, rồi nhảy ào xuống sàn lều.
– Thằng Tư đâu rồi thủ trưởng?
– Tư nào?
– Tư Xồm! Cái thằng cu gác đêm qua ấy mà!
– Chẳng có Tư nào cả. Chính cậu đã trao gác cho tớ.
Hai sửng sốt nhìn Tư lệnh. Chết chửa, hóa ra là bố già.
Mà sao bố đột kích đảo sớm thế, lại nằm ngay trên chính cái giường của Tư Xồm.
Ừ, mà quả thật lúc đó, mình cũng ngờ ngợ vì bộ quân phục nghiêm chỉnh quá,
nhưng lại nghĩ chắc cậu chàng muốn làm đỏm trước mặt bố Thuận nên mới “quàn”
trong bộ cánh diêm dúa như thế. Ai ngờ bố già! Thảo nào đêm qua, chim biển bay
loạn xạ trên nóc bạt. Vậy mà tại sao lúc ấy mình lại không nhận ra nhỉ?
– Bố tha tội cho
con! Chết thật! Con cứ tưởng thằng Tư. Có lẽ đêm qua nó ngủ lại ngoài tàu mà
con thì lại không để ý. Con thành thật xin bố xá tội..
– Tội lỗi khỉ gì!
– Tư lệnh cười hiền hậu. – Cậu là lính. Tớ cũng là lính. Cậu gác mấy năm trời còn
được. Tớ gác mỗi một đêm thì nào có bõ bèn gì!
09 – TIẾNG CÒI TÀU ĐỘT NGỘT
Bây giờ thì chính
trị viên Thuận đã chính thức trở thành ông bố vợ của cả hòn đảo. Cánh lính trẻ
đều đồng loạt gọi anh bằng bố. Chỉ có Tư Xồm thi thoảng – vào những lúc tỉnh
táo nhất – có tính toán chi li hạ anh xuống một bậc thành anh phó bố vợ. Bởi lẽ
tiểu thư công nương Mộng Tương hiện giờ vẫn còn đang ở cái tuổi đái dầm. Nhưng
cánh lính gọi anh bằng bố quen rồi. Cứ nhí nháu thế lại vui, lại gần gụi, ấm áp
như trong một gia đình. Ở xứ đảo chìm mà không bố bố con con thì hoang lạnh
quá, man di mọi rợ quá, còn biết lấy gì ra làm văn vẻ. Thế là chính trị viên
Thuận nghiễm nhiên trở thành ông bố, mặc dù nếu tính tuổi quân, anh còn thua cả
cậu lính trẻ nhất đảo có bộ râu quai nón mà đám lính ở đây vẫn quen gọi là Tư
Xồm. Thuận mới nhập ngũ đầu năm 1979. Ấy là năm chiến tranh biên giới nổ ra ở
cả hai đầu đất nước. Nhiều người lính đã phục viên, giờ lại tái ngũ. Thuận
không phải lính cũ. Anh chuyển sang quân đội trong một đợt tổng động viên. Suốt
những năm chống Mỹ, anh là thuyền trưởng tàu đánh cá Hạ Long. Bao nhiêu năm
trời vật lộn với sóng gió, Thuận quen từng luồng lạch trên biển, thông thạo đến
mức chỉ cần nhìn mây, anh biết được thời tiết nắng gió, ngửi mùi nước bốc lên
vào lúc tinh mơ là phán đoán được luồng cá đi trong ngày. Một mình Thuận đã
thành một cái Đài khí tượng di động. Khi người ta hiểu được biển cả thì biển cả
không còn là nỗi bí hiểm đe dọa nữa. Đối với Thuận, dường như chẳng có gì bất
ngờ. Mọi việc xảy ra đều đã được báo trước, đã treo sẵn trong trời mây, sóng
nước kia rồi. Chỉ con người kiêu ngạo và lười nhác không thèm để ý đến thiên
nhiên nên mới không biết mà thôi.
Thuận rất mừng
khi vào quân đội, anh lại được về Bộ tư lệnh Hải quân, lại trở lại con tàu, ra
canh giữ một hòn đảo nhỏ. Thế là người của biển vẫn không rời xa biển. Suốt một
tháng ròng nằm chờ ở nhà khách Bộ tư lệnh, Thuận lần xuống thư viện, tìm những
cuốn sách, những bài báo viết về Trường Sa để nghiên cứu, tìm hiểu. Anh biết
Trường Sa là vùng đảo cát hoang dã. Thiên nhiên rất dữ dằn. Cát Trường Sa cũng
rất đặc biệt. Nó chính là đá san hô tan ra. Bởi vậy, cát mặn và sắc. Dường như
không cây nào chịu được. Ngay cả dừa và phi lao, từng quen với gió mặn, vậy mà
đến Trường Sa cũng lụi dần, rồi cháy táp, đến nỗi có cảm giác chỉ cần đánh rơi
một đốm tàn thuốc là chúng có thể cháy bùng lên thành những ngọn đuốc lớn. Ở
quần đảo bão tố này, chỉ có hai loại cây còn lay lắt sống được. Thực chất đó là
loài cây dại mà lính gọi là cây Phong ba và cây Bàng quả vuông. Nhưng chả lẽ
Trường Sa lại chỉ có thế thôi ư? Người ta có thể cải tạo được thiên nhiên
không? Cứ có đất là sẽ có tất cả. Thuận cho khuân xuống tàu, mang ra đảo mấy
chục bao đất, một cân hạt rau và một con lợn đã có chửa sẵn. Với số đất ấy,
trộn với cát và phân lợn, anh có thể nuôi được mấy vạt rau. Rồi trong tương
lai, Trường Sa phải có được những vườn khoai, vườn đỗ, rồi đàn lợn đàn gà.
Nghĩa là có một cuộc sống bình thường, như mọi miền quê nghèo nhất trên trái
đất.
Ra đến đảo, Thuận
mới biết cái ước mơ giản dị ấy chỉ là chuyện hoang đường. Hòn đảo còn chưa có
cả cát mặn. Nó vẫn chìm sâu trong nước. Theo cách tính của các nhà khoa học Hải
Quân, phải một trăm năm nữa, dải đá san hô ấy mới nhô lên khỏi mặt nước biển để
trở thành một hòn đảo bình dị. Nghĩa là phải một trăm năm nữa, hòn đảo mới
chính thức ra đời. Thuyền trưởng Nguyễn Hòa nhìn Thuận, cười hô hố:
– Này ông Thuận
ạ, ta cuốc bố nó cái nóc đài chỉ huy kia ra mà gieo rau!
Thuận dủm dỉm
cười. Nụ cười như muốn bảo: “Thì hãy cứ đợi đấy”. Ba ngày sau, có tàu ra đảo
Sinh Tồn, Thuận gửi tặng cánh lính biển ngoài ấy mấy bao đất và gói hạt rau.
Còn con lợn chửa thì anh giữ lại. Cứ như lời anh thì chỉ non tháng nữa là cô
nàng sẽ “mãn nguyệt khai hoa”. Nhưng rồi ngay hôm sau, cũng vì sóng dồi lắc dữ
quá, con lợn mửa mật xanh mật vàng và nửa đêm thì cô nàng chuyển dạ đẻ. Đẻ non.
Chỉ có thế mà thành một sự kiện trọng đại. Cánh lính đảo ào hết lên boong. Trên
đó, y sỹ Hà Huy đang lúi húi khoác áo choàng trắng, làm “bà đỡ” bất đắc dĩ. Còn
nhớ dạo tháng Mười năm ngoái, Huy đã lập được một kì tích mà không ai có thể
ngờ được: Cậu ta đã cứu Thiêm thoát căn bệnh hiểm nghèo. Bữa đó cũng vào tầm
nửa đêm như thế này, Thiêm bỗng đau bụng dữ dội. Đau đến vã mồ hôi, đến phát
điên, phát dại. Thiêm nhay nát cả góc chăn mà cơn đau ở vùng thắt lưng vẫn
không dịu ngớt.
– Có lẽ đau ruột
thừa rồi!
Huy bàng hoàng
kêu lên. Nếu ở đất liền, thì chỉ cần một ca phẫu thuật đơn giản. Nhưng ở đây
lại không đơn giản như thế. Bởi đảo chìm bấy giờ chưa có bác sĩ, mới chỉ biên
chế đến cấp... y tá. Chính trị viên Thuận đã điện về Bộ tư lệnh, điện cả ra đảo
Sinh Tồn và những hòn đảo lân cận. Nhưng nếu nhanh, bác sĩ có tới được cũng
phải mất hai ngày.
– Nguy lắm! Cậu
chắc chắn là chết. Ruột thừa vỡ thì đến bố bác sĩ cũng không cứu được. – Huy
nói thẳng với Thiêm. – Cậu toi là cái chắc rồi. Muốn thoát chết chỉ còn duy
nhất một cách là mổ. Mà mổ thì khả năng thoát chết cũng chỉ có 0,01%. Nghĩa là
hoàn toàn phụ thuộc vào tớ. Mà tớ thì... chưa từng mổ bao giờ...
Thế rồi rốt cuộc,
Thiêm đành phải bám lấy sự sống với niềm hi vọng chỉ có 0,01%. Cậu cắn răng kí
vào biên bản mổ, chấp nhận mọi sự rủi ro. Cánh lính trẻ trói chặt Thiêm vào
chiếc giường sắt chống sóng, lấy nước muối sát trùng và Huy đã mổ cho Thiêm
bằng... lưỡi dao cạo râu. Khi tàu cập được đảo thì mọi việc đã xong, Các bác sĩ
chỉ còn làm mỗi việc: Sát trùng và khâu lại bằng chỉ tự tiêu. Ca mổ đã thành
công. Nếu có chút sơ suất thì lại là chuyện sơ suất thẩm mỹ. Vết mổ không hề
đẹp. Lẽ ra chỉ nên chích một chút thì Huy kéo ra đến... gang tay. Cậu ta đã mổ
Thiêm như mổ... một con gà!
Sau ca mổ bất đắc
dĩ ấy, Huy được lệnh về đất liền, theo học một lớp y sĩ cấp tốc. Bây giờ thì cu
cậu đã trở thành một thầy thuốc chính hiệu, không còn là anh y tá chỉ mới biết
tiêm, biết bôi i-ốt và phát thuốc cảm cúm xuyên tâm liên, một thứ thuốc ai uống
cũng được. Huy nghe tim, bắt mạch, chẩn đoán bệnh. Bệnh nào thuốc ấy. Nói như
thi sĩ Hai ùm, bây giờ Huy đã là người sang của thiên hạ. Người sang trông
tướng mạo cũng khác. Nói năng thì đàng hoàng, đi đứng cũng ra tấm ra món. Chính
trị viên Thuận rất yên tâm khi người sang của thiên hạ làm “bà đỡ” cho cơn vượt
cạn của con lợn ỉ ở đảo chìm.
– Đấy, các cậu cứ
ngẫm mà xem. – Thuận cười – Đây không còn là chuyện vặt vãnh đâu nhé! Lợn đẻ ở
đảo chìm tự thân nó đã có một ý nghĩa rất sâu sắc...
– Vâng, đúng thế
đấy, bố Thuận ạ! – Hai đón lấy ý chính trị viên. – Con lợn của ta đã làm được
một việc phi thường, là chứng minh cho thế giới biết rằng, đảo chìm không phải
là một xứ sở hoang dã, mông muội. Đảo chìm đã có sự sống.
– Hoan hô!
– Hoan hô thì
phải vỗ tay đi chứ! Đề nghị đồng chí Tư Xồm mở đại tiệc bằng cách cấp thêm cho
anh em mỗi người một ca nước ngọt, uống ngay tại trận...
– Không được! –
Tư Xồm kêu lên. – Không thể cấp phát vô nguyên tắc như thế được! Lợn đẻ chứ có
phải các cậu đẻ đâu. Tớ sẵn sàng chi cho con lợn hai lít nước ngọt nếu có lệnh
của bố Thuận.
– Này, anh em tin
cậu, bầu cậu làm quản lí, chứ không phải làm cái thằng bủn xỉn, vắt cổ chày ra
nước đâu nhé!
– Thay ngay quản lí
đi!
– Bầu lại quản lí
đi!
– Không được đảo
chính, gây lộn xộn!
– Thôi được rồi,
tớ đồng ý mở đại tiệc. Nhưng đại tiệc tiết kiệm, không ảnh hưởng đến ngân sách
đảo. Đề nghị chi cho lợn một lít rưỡi nước ngọt để nấu một nồi cháo bồi dưỡng
đẻ. Còn tất cả chúng ta mặc quân phục. Không đứa nào được cởi truồng!
– Nhất trí hoàn
toàn!
– Hoan hô!
Hàng chục ngọn
đuốc rần rật bùng lên. Lửa reo ù ù trong gió biển. Con tàu tức tốc được nhổ
neo, lượn ba vòng xung quanh đảo chìm. Sau đuôi tàu, biển rực một vùng lân tinh
sáng choá. Trong đêm, nom nó quái dị và kì vĩ như một dải Ngân Hà đang cháy.
Và khi con lợn
con đầu tiên còn nhớp nháp ướt vừa nho nhoe tòi ra khỏi bụng mẹ thì Hai ùm đã
lậng cậng chạy lên đài chỉ huy. Rồi một lúc sau, đảo chìm đột ngột vang lên một
hồi còi chào nồng nhiệt:
– Ù... ủ... òa...
– Ù... ủ... òa...
òa... òa...
– Òa... òa... ủ... òa...