Nhân chứng có ba bộ mặt - Chương 06 - Phần 1
NHÂN CHỨNG
CÓ BA BỘ MẶT
TOM
MCPHERSON
Shubert nhìn chiếc xe màu hồng dừng lại một cách
nhẹ nhàng ở đầu phố Front và đậu ngay ở bến xe buýt. Hắn mỉm cười và xem đồng
hồ tay.
Tám giờ hai mươi tám phút. Còn gần hai phút nữa,
Lewie. Vào đúng giờ này, cũng tại chỗ này, mỗi buổi sáng, trừ ngày chủ nhật.
Lewie! Từ hôm nay đời mày kết thúc.
Shubert sửa lại đôi găng làm bằng da sơn dương
đang mang trên tay, sau đó lấy trong ngăn đựng đồ trong xe ra một chiếc rìu phá
băng nhỏ. Hắn cho chiếc rìu vào ống tay áo khoác. Hắn biết lúc này Lewie đang
đóng cửa xe màu hồng và sắp đi ngang phố Front. Shubert cho xe của mình chạy
một đoạn rồi đỗ lại và ra khỏi xe rồi cúi xuống nhìn mui che như để kiểm tra
chiếc xe.
Đúng lúc Lewie đi phía sau hắn, hắn nhẹ nhàng xoay
gót, giơ tay trái bịt chặt lấy miệng Lewie đồng thời dùng tay phải ấn sâu chiếc
rìu phá băng vào lưng người này. Người mềm nhũn, Lewie ngã vào hắn. Hắn đặt xác
người xuống vỉa hè và chạy nhanh về xe của mình.
Hắn nhìn thấy cô ta khi hắn đặt tay vào vô lăng.
Cô đứng bất động ở góc phố, cách hắn chừng năm
mét, bên cái rãnh lề đường trên vỉa hè phía bên kia. Đầu đội mũ Cảnh sát, một
bộ mặt lạ lùng đang nhìn hắn. Những vòng tròn sặc sỡ xung quanh hai con mắt màu
nâu và sáng rực. Mỗi bên má màu xanh có ba hình tam giác đỏ chói vây quanh mũi
và miệng. Một vòng tròn trên mũi và một vòng nữa trên môi. Người cao khoảng một
mét sáu mươi, mặc chiếc áo choàng nặng nề, màu xanh, chân mang đôi tất dài màu
đỏ và đi đôi giày trượt tuyết rất lớn.
Cô kêu lên: "Trời!" rồi bỏ chạy, lưng
quay về phía Shubert. Cái lưng ư? Tuy nhiên không. Cái lưng cũng có vẻ bí ẩn
như bộ mặt. Shubert cố gắng xuống xe trong khi đó bóng người rẽ vào một phố
nhỏ.
Hắn tự rủa thầm mình vì quá sợ hãi nên tay chân
hắn đã gần như bị tê liệt. Rồi hắn chạy đến một góc phố. Đúng lúc ấy có những
tiếng người làm hắn giật bắn mình lên. Những nhóm trẻ con miệng đang cười đùa,
chân chạy đến góc phố đối diện. Hắn bối rối nhìn bọn trẻ một thoáng rồi chui
vội vào trong xe của mình ra khỏi phố Front và phóng nhanh ra xa lộ.
***
- Trời! Trời! - Elaine Wrigley lẩm bẩm trong khi
chạy dọc theo phố Venable.
Mặt đầy mồ hôi sau tấm mặt nạ đan bằng len của
người đi xe trượt tuyết và đôi giày nặng nề làm cô khổ sở. Chiếc áo khoác cũng
như sự sợ hãi làm cô vướng víu. Rồi cô vấp ngã. Cô cảm thấy hốt hoảng nhiều hơn
là đau đớn. Cô lồm cồm đứng lên và đôi chân cô trượt dài. Cô phải bò trên đường
như một con vật đang đi trên một bánh xe lăn. Bỗng cô thấy đôi cánh tay rắn
chắc đỡ mình lên.
- Nào, Elaine Wrigley. Chúng ta có ba ngày để đón
năm mới, đúng không? Đứng lên từ từ! Hoan hô!
Cô nhìn với vẻ biết ơn cặp mắt đầy lo lắng của ông
Henri Landru và lẩm bẩm:
- Hắn đã giết Lewie. Thật kinh khủng. Hắn đã đâm
chết. Tôi biết rõ cái đó. Ông Henri!
Cảnh sát trưởng Henri quàng lấy vai cô và đưa cô
về đồn Cảnh sát. Ông đặt cô ngồi bên bàn và mở ngăn kéo lấy ra một chai úych-ky
và rót chừng hai đốt ngón tay vào một chiếc cốc bằng nhựa đưa cho Elaine.
- Nào uống đi. Uống thế này thì không đúng nội quy.
Nhưng cháu chưa phải là một Cảnh sát thực sự.
Ông nhìn cô vừa uống, vừa run rẩy. Ông thấy cần
vài phút nữa để cô tỉnh trí lại. Bàn tay của người đàn bà trẻ gỡ chiếc mặt nạ
của những người Inca (Một dân tộc ở Perou- ND) và đặt nó lên bàn. Ông Henri cao
gần một mét chín mươi, tóc vàng, cắt ngắn tương phản với tóc của Elaine mà
hung, rối bù. Cô cố gắng uống hết chỗ rượu rồi nhìn ông Henri.
- Hắn đã giết Lewie bằng một vật như chiếc rìu phá
băng. Ngay trước cửa hàng của ông ta. Một việc làm nhơ bẩn. Tôi không phải là
Cảnh sát. Tôi không bao giờ đến ngã tư ấy nữa.
Ông Henri đặt chai rượu lên bàn.
- Hãy đợi ở đây, Elaine. Và không rời khỏi ghế cho
đến khi ta quay về.
Ông ra khỏi cửa và lên xe đi về hướng phố Front.
Elaine rót thêm một chút úych-ky nữa và nhấp từng
ngụm nhỏ. Cô nhắc lại là mình không thể làm nhân viên Cảnh sát đứng gác ở ngã
tư được. Cô không cần đến loại việc làm này, nhất là vì tiền công quá ít. Cô
rất bối rối khi ra đứng ở đây, người cóng lên vì giá rét. Vì là mùa đông nên cô
không thể rời chiếc áo khoác nặng nề của người anh trai và chiếc mặt nạ của
những người trượt tuyết đan từ Ngày lễ Các Thánh từ hồi còn trên ghế nhà trường
được. Nhưng sự khó chịu về mặt tinh thần vẫn dằn vặt cô.
Mỗi khi định xin thôi việc, cô lại nhớ đến lí do
khiến cô xin vào ngành Cảnh sát. Cô đã hoảng hốt khi biết tin người chồng bị
bắt giam về tội ngộ sát. Chỉ có hai lần cô thấy Harold say rượu. Lần thứ nhất
là ngày diễn lại cuộc đưa tang cuộc sống độc thân của anh. Lần sau là ngày diễn
lại cảnh Những tên cướp đánh thang Những tên Mẽo. Tối hôm ấy Harold say khướt lên
xe trở về nhà. Học sinh lớp tám rời khỏi trường sau trận đầu bóng ném. Harold
đã đâm sầm vào chúng làm chết một cậu bé mười ba tuổi và một cô bé mười bốn
tuổi.
Ngay đêm hôm đó Harold đã treo cổ tự tử trong nhà
giam và hai ngày sau đó đứa con mới sinh của cô qua đời. Cô đã sống trong tấn
thảm kịch ấy mà không biết tại sao. Cô ngừng mọi hoạt động, người ta không làm
thế nào để cô trở lại những buổi khiêu vũ hàng tuần nữa. Sau đó ông Henri nói
cần phụ nữ đứng gác ở ngã tư. Ông nhấn mạnh đứng gác ở ngã tư là để bảo vệ trẻ
con khi rời khỏi trường học. Đây cũng là một kiểu điều trị bệnh cho cô. Nhưng
Elaine đã hiểu đứng gác ở ngã tư là thế nào rồi.
Việc nhớ lại kỉ niệm xưa làm cô quên đi sự sợ hãi
trong vụ giết người, mà mỗi khi nhớ lại cô lại run rẩy cả tay chân. Cánh cửa
nặng nề của đồn Cảnh sát, nó càng nặng hơn vì những lớp sơn trên mình nó, bỗng
bật mở và Paul, anh trai cô, bước vào. Ông Henri đi theo anh. Elaine chạy đến
với Paul. Người anh ôm đầu người em gái trong khi cô ta đang khóc nức nở. Nhưng
rồi cô quay về phía ông Henri.
- Lewie thế nào...
Cô không kịp hỏi hết câu.
- Ông ta chết rồi. Chết trước khi cháu chạy trốn,
Elaine. Cháu đã chứng kiến công việc của kẻ đâm thuê, chém mướn là không bao
giờ nửa chừng bỏ việc cả.
Ông ngồi xuống ghế bên bàn giấy. Hai người đều
không hỏi câu "tại sao" vì họ cũng đang rất bối rối. Và sau đó ông
Henri giải thích:
- Một bọn người tống tiền Lewie dưới chiêu bài
chống lại sự độc quyền về đồ uống trong thành phố. Lewie đã báo tin cho cảnh
sát về kẻ trung gian và nói rằng ông có thể thương lượng với bọn găng tơ với
một số tiền ít hơn so với đòi hỏi của những kẻ tống tiền. Tuy thấy Lewie có thể
gặp nguy hiểm nhưng người ta đã không kịp thời cho người đi theo để bảo vệ ông.
Sẽ biết rõ hơn nếu chúng ta lấy tin của Cảnh sát thành phố và của người vợ ông
Lewie.
Nói xong ông Henri nhấc máy điện thoại lên.
***
Shubert
thở dài vì đã được an ủi. Hắn đã ra đến xa lộ mà không bị bám theo và hắn biết
rằng mình có thể lẩn vào đám xe cộ chạy trên đường được. Mẹ kiếp! Hắn tự nhủ.
Tại sao ta không nghĩ đến dịp nghỉ lễ Nô-en kia chứ? Ta đã bỏ ra hơn một tuần
lễ để quan sát đường phố ấy, nhưng ta đã không lường trước được thời gian chơi
bóng của học sinh và việc có một nữ Cảnh sát đang đứng gác ở ngã tư. Có trời
mới biết con bé ấy là ai. Mày thất bại rồi, Shubert, mày thất bại rồi! Ta biết
mỗi vỉa hè của đường phố ấy. Mỗi buổi sáng, vào lúc tám giờ hai mươi tám phút,
ta thấy người đàn ông đỗ xe, đi qua đường và bước vào cửa hiệu của mình. Pháp
luật yêu cầu mở cửa hàng trước chín giờ sáng. Người đàn ông ấy vào cửa hiệu và
đúng chín giờ thì mở cửa. Trước chín giờ rưỡi, có khi mười giờ, thường không có
khách. Trong suốt một tuần lễ, ta bỏ ra một tiếng đồng hồ để làm công việc quan
sát ấy và thấy không có ai xung quanh ta cả...
***
-
Có thể là chúng ta đã gặp may - Ông Henri nói - Thật không thể tưởng tượng nổi.
Hắn đã đi bất cứ đâu trong các phố chính của chúng ta mà không ai để ý và cả
Elaine cũng không nhìn rõ kẻ giết người. Các thầy cô giáo đang hỏi học sinh
trong trường xem có ai nhìn thấy Lewie không. Chúng ta không nói với họ về
Elaine, như cô ấy không đứng gác. Có thể học sinh cũng không chú ý đến cô ấy
nữa.
- Nhưng
kẻ giết người đã nhìn thấy tôi.
-
Có thể là chúng ta không thấy hắn ở đâu nữa, Elaine. Có thể là hắn đã cách xa
đây năm chục ki-lô-mét với ý định không trở lại đây nữa. Mong rằng cấp trên sẽ
tha lỗi cho ta, ta muốn rằng hắn xa đây mãi mãi.
Cô
hiểu ông già muốn nói gì, không chỉ với cách ông nhìn cô. Nhưng cô nghĩ: ta
không còn là một nhân chứng nữa. Ta là mối đe dọa đối với hắn, làm cho hắn phải
biến mất.
Ông
Henri cũng bảo cô:
-
Ta không có quyền tách khỏi Cảnh sát thành phố. Nhưng ta không thể nói về
Elaine với báo chí được. Của khỉ! Một người đứng gác ở ngã tư trước một trường
học và một người gác đêm. Phải cần tới hai Cảnh sát. Cần đặc biệt chú ý đến
Elaine.
Nhưng
Paul gợi ý:
-
Cần vẽ chân dung hắn theo sự mô tả của Elaine rồi gửi cho các cơ quan trong
thành phố. Chỉ có bảy phần trăm số kẻ giết người chạy thoát thôi.
Elaine
nắm cánh tay người anh.
-
Paul, bây giờ đưa em về nhà. Anh có muốn vậy không?
Ông
Henri đến chỗ mắc áo.
-
Mặc chiếc áo này vào, Elaine - Ông nói và đưa cho cô chiếc áo của mình thay vì
chiếc áo nặng nề của Paul - Và Elaine, đừng bao giờ mang chiếc mặt nạ ấy nữa,
dù cho giá lạnh đến như thế nào.
Khi
cho tay vào chiếc áo khoác của ông Henri cô thấy ấm người lên, Còn ông Henri
thì nghĩ: Tuy hơi chậm chạp nhưng anh ta cũng hiểu ra thôi.
-
Tất nhiên! - Paul nói - Hắn không muốn thấy một nhân chứng đang sống. Do đó,
ông không nên nói với Elaine về chuyện này.
Henri
lên xe đi dự đám tang của Lewie. Ông ra lệnh cho Elaine không ra đứng gác cũng
như không đi đưa ma. Ông cho rằng sẽ dễ nhận ra kẻ lạ mặt trong nghĩa trang.
Nhưng thân nhân người qua đời và những kẻ tò mò tới đây quá đông mà không chú ý
đến thời tiết. Ông quay về phố Front và tự hỏi có nên về nhà để dùng bữa hay là
đến cửa hàng của ông Guido để ăn bánh mì kẹp thịt.
***
Nhưng
khi cách ngã tư phố Venable chừng sáu chục mét, ông thấy một bóng người mặc
chiếc áo khoác màu xanh - đây là áo mà Paul đã mua để trả lại cho ông Henri -
chân đi đôi tất dài màu đỏ. Ông nhìn những thao tác của người Cảnh sát khi ngăn
đoàn xe cộ để tốp học sinh nhỏ qua đường. Đây có phải là một phụ nữ không? Ông
tự hỏi.
Với
vẻ mệt nhọc, ông nhìn những hàng xe đậu hai bên đường trên phố Front. Trước
hết, rất nhanh, ông điểm từng chiếc một. Ông bỏ qua những chiếc mà ông đã biết
rõ mà chú ý vào những xe có biển số lạ. Ông chú ý những hoạt động trong xe.
Cuối cùng ông xuống xe tới bên người đứng gác ở ngã tư.
-
Paul, tôi hi vọng rằng anh đã mặc áo chống đạn.
-
Chào ông Henri. Ông yên tâm, tôi đã có khẩu súng này.
-
Thì sao? Không đủ đâu.
Paul
có mỉm cười không? Người ta không thể thấy mặt của anh ta sau chiếc mặt nạ ma
quái này. Anh chỉ tay vào một vài em nhỏ học lớp mẫu giáo đi một cách lộn xộn.
- Xin
tin tôi, ông Henri. Ông có thấy chiếc xe chở hoa đậu trước nhà hàng Monoprix
kia không.
Ông
Henri đã chú ý đến chiếc xe ấy. Đây là chiếc xe tải loại nhỏ đang đậu ở phố
Front. Thùng xe dài hơn một mét, khác hẳn những chiếc xe khác.
-
Ông Henri, một người em họ tôi đang theo dõi chiếc xe ấy - Paul giải thích -
ông đã biết nó. Nó làm Cảnh sát ở quận Milbank. Tôi đứng đây nhưng biết rõ
những gì đang diễn ra ở xung quanh.
Ông
Henri đi dạo ra vẻ làm cho người ấm lên nhưng thực ra ông đang quan sát xe cộ
và người bộ hành qua lại. Trẻ con đã vào lớp. Thông thường thì chúng nghỉ học
vào bữa ăn trưa. Một số ăn ngay ở trường, một số về nhà chúng rồi đi lang thang
cho đến ba giờ chiều lại vào lớp.
-
Về thôi, Paul. Không còn việc gì phải làm ở đây nữa. Ở lâu sẽ bị chú ý
-
O.K. Tôi sẽ tới chiếc xe của người em họ, thằng Bud, ra hiệu cho nó rằng chúng
ta đã trở về để đi ăn sáng.
***