Những kẻ điên rồ phải chết - Chương 23 phần 1
Chương 23
Tôi
nhận công việc mà Osano đề nghị vì nhiều lí do. Công việc này hợp sở thích của
tôi và cũng có chút danh giá. Từ khi Osano được bổ nhiệm chức chủ bút của tờ
phụ trang văn học có ảnh hưởng nhất nước, mấy năm trước đây ông đã gặp rắc rối
với những người cộng tác và tôi sẽ làm trợ lí cho ông. Thu nhập rất khá và công
việc sẽ không cản trở chuyện tôi viết tiểu thuyết. Và nhất là tôi vẫn được ở
nhà. Tôi đang trở thành một ẩn sĩ giữa chốn thị thành. Tôi hạnh phúc nhưng cuộc
sống hơi tẻ nhạt. Tôi khao khát một vài hứng khởi, đôi chút nguy cơ.
Có
những hồi tưởng mơ hồ, thoáng qua về cuộc chạy trốn đến Las Vegas thuở nào và
việc tôi đã thực sự say mê nỗi cô đơn và tuyệt vọng mà tôi cảm thấy lúc ấy.
Chẳng phải là điên rồ hay sao khi hoài niệm nỗi bất hạnh với biết bao thích thú
và khinh thường hạnh phúc bạn đang nắm trong tầm tay?
Nhưng
nhất là tôi nhận công việc vì chính Osano, hiển nhiên ông đang là nhà văn danh
tiếng nhất ở Mỹ.
Được
ca tụng do hàng loạt quyển tiểu thuyết thành công, nổi danh vì những vụ rắc rối
với pháp luật và thái độ cách mạng đối với xã hội, cũng bị ô danh vì những hành
vi tình dục lệch lạc, các phương tiện truyền thông khai thác bêu riếu rùm beng.
Ông đã chiến đấu chống lại mọi người và chống lại mọi chuyện. Thế nhưng trong
buổi party mà Eddie Lancer đưa tôi đến để gặp ông ta. Osano vẫn thu hút và mê
hoặc được mọi người. Những người dự buổi party hôm đó đều là thành phần tiêu
biểu của giới văn học và không dễ gì mà mê hoặc họ vì họ rất khó tính và nghĩ
mình có quyền khó tính.
Và
tôi phải thừa nhận rằng Osano cũng đã mê hoặc cả tôi. Trong buổi party hôm đó,
ông ta bỗng dây vào một cuộc tranh luận gay gắt với một trong những nhà phê
bình văn học ở Mỹ; vị này cũng là một bạn thân và một người hậu thuẫn mạnh mẽ
cho các tác phẩm của ông.
Nhà
phê bình này dám đưa ra luận chứng rằng các nhà văn phi hư cấu cũng sáng tạo
nghệ thuật và có một số nhà phê bình cũng là nghệ sĩ. Osano liền hét lên, át
giọng ông ta:
-
Anh là đồ, hút máu! - Một tay đong đưa li rượu, tay kia nắm lại như thể sẵn
sàng vưng ra nắm đấm. - Anh kiếm ăn từ những nhà văn thật sự và anh bảo rằng
anh là nghệ sĩ? Anh đếch biết nghệ thuật là cái gì. Một nghệ sĩ sáng tạo từ
chính mình chứ không dựa vào cái gì khác, có hiểu điều đó không, hở anh bạn ưa
chơi bậy? Nghệ sĩ giống như con nhện, những sợi tơ nhện được rút ra từ thân
hình nó. Và các anh chỉ đi theo và dùng chổi đuổi chúng đi sau khi chúng nhả tơ
ra. Các anh chỉ giỏi tài dùng chổi quét các anh là những thằng tồi? Bọn phê
bình chỉ là thế?
Người
bạn đó sửng sốt bởi vì ông ta vừa mới khen các tác phẩm phi giả tưởng của Osano
và cho rằng đó là những tác phẩm nghệ thuật.
Rồi
Osano bỏ đi, đến với một nhóm phụ nữ đang chờ để đề cao ông là con sư tử trong
giới cầm bút. Trong nhóm có vài người thuộc phong trào nữ quyền và chỉ trong
vài phút ông đến với họ là nhóm đó lại trở thành trung tâm của sự chú ý. Một
trong các phụ nữ đang giận dữ hét vào mặt ông trong khi ông nghe nàng ta nói
với vẻ trịch thượng giễu cợt đôi mắt xanh láo liên ranh mãnh của ông ánh lên
như mắt mèo. Rồi ông phải pháo tới tấp.
-
Này các bà, các chị, các em phụ nữ? Mấy người muốn được bình đẳng với các bậc
tu mi nam tử là chúng ta đây, nhưng mấy người lại chẳng hiểu cái đếch gì về trò
chơi quyền lực cả! Con át chủ bài của các em đó là “chim” của các em mà các em
không biết giữ kín con bài tẩy, lại đem phô ra, chơi bài lật ngửa với các đối
thủ. Hoài của quá đi mất. Các em sao dại thế? Bởi nếu không biết tận dụng lợi
thế của con “chim” các em sẽ chẳng còn quyền lực tí nào đâu. Hãy biết rằng mấy
cấi thằng đàn ông có thể sống không cần cảm tình nhưng không sống nổi nếu thiếu
sex?
Ông
vừa nói đến đó cả đám phụ nữ đều nhao nhao lên, phản đối ông ầm ĩ.
Thế
nhưng ông trấn áp được ngay với công phu “sư tử hống” của mình:
-
Đàn bà các người cứ than phiền về chuyện hôn nhân trong khi lấy chồng và các
người thành công trong cuộc mặc cả được món hời nhất đời. Hôn nhân giống như
những cổ phiếu mà người ta mua. Có lạm phát và có giảm giá, mệnh giá cứ tiếp
tục xuống và xuống đến mức thể thảm đối với đàn ông. Mấy người biết tại sao
không? Phụ nữ càng lúc càng kém giá trị đi cùng với năm tháng chất chồng tuổi
tác lên họ. Và lúc đó, chúng tôi bị vướng víu bởi họ giống như với một chiếc xe
cũ. Cứ đụng vào là trục trặc đủ thứ đến là phát nản. Nhưng vất cả đi lại không
đành. Đàn bà lớn tuổi không giống như đàn ông. Mấy người có thể tưởng tượng một
chị đàn bà năm mươi tuổi còn đủ khả năng để mồi chài một chàng trai hai mươi
tuổi lên giường với mình không? Và rất ít phụ nữ có đủ quyền lực kinh tế để mua
sinh lực tuổi trẻ như đàn ông vẫn làm.
Một
chị sồn sồn la tớn lên:
-
Tôi có một người tình hai mươi tuổi đây nè?
Chị
ta trạc tứ tuần nhưng trông hãy còn khá mướt.
Osano
cười nhăn nhở với nàng, có vẻ xảo quyệt:
-
Xin có lời chúc mừng cô bạn. Nhưng mà, khi cô bạn đến tuổi năm mươi thì chưa
biết sự thể sẽ ra sao nhỉ? Với các cô gái trẻ hiện nay sẵn sàng “tình cho không
biếu không” mà vẫn xí phần được một cậu tình nhân mới hai mươi tuổi, kể ra cũng
cao tay nghề đấy. Nhưng cô nghĩ rằng những chàng tình nhân trẻ say mê cô giống
như các thanh nữ say mê đàn ông lớn tuổi à? Quí vị không vận dụng được hình ảnh
ông bố Freud để phục vụ cho mục đích của mình như đàn ông chúng tôi vẫn làm. Và
tôi phải lập lại rằng một anh đàn ông bằng độ tuổi bốn mươi trông lại càng hấp
dẫn hơn cả lúc hai mươi. Ngay cả đến tuổi năm mươi nhiều người đàn ông vẫn còn
hấp dẫn chán. Điều đó thuộc về sinh học!
-
Chuyện nhảm, - Chị bốn mươi nhưng còn hấp dẫn nói. - Mấy đứa con gái trẻ làm
các thằng già các anh mê lú và tin vào những chuyện bịa đặt ủy mị của chúng.
Khi già đi thì mấy người cũng đâu còn hấp dẫn nữa, mà chỉ có nhiều quyền lực
hơn thôi - kinh tế hay chính trị. Và mấy người có đủ thứ mọi luật lệ đứng về
phía mình. Khi chúng tôi thay đổi luật lệ, chúng tôi sẽ thay đổi mọi thứ.
-
Chắc thế rồi, - Osano nói. - Các chị sẽ vận động để thông qua những bộ luật
buộc đàn ông phải chịu những cuộc phẫu thuật phải thẩm mĩ để làm cho họ xấu đi
khi họ lớn tuổi. Nhân danh cuộc chơi sòng phẳng và quyền bình đẳng. Phải vậy
không? Các chị cũng có thể dựa trên cơ sở pháp lí, cho cắt phăng hai quả cà dái
dê của chúng tôi đi. Dù như thế nữa, điều ấy cũng chẳng hề thay đổi được sự
thật, ở đây và bây giờ.
Ông
dừng một lúc và nói:
-
Chị có biết câu thơ cực dở này chưa? Của Browing ấy. Em hãy già đi cùng với ta,
tuy nhiên điều tốt nhất vẫn là…
Tôi
chỉ đi lòng vòng và nghe ngóng. Những gì Osano đang nói đập vào tai tôi như là
những điều cực kì nhảm nhí. Vì một điều là chúng tôi dị biệt quan điểm về
chuyện viết lách. Tôi ghét những cuộc phiếm luận văn chương, mặc dù tôi đọc tất
cả các bài phê bình điểm sách và mua tất cả các tạp chí lí luận phê bình văn
học.
Vậy
thì, làm một nghệ sĩ là cái quái gì đây? Đó không phải là cảm tính. Không phải
là trí tuệ. Không phải là nỗi ưu tư trăn trở. Không phải là cơn xuất thần đê
mê. Toàn là chuyện nhảm nhí.
Sự
thật là bạn giống như một kẻ cố gắng mở trộm tủ sắt để tìm châu báu, cứ mày mò
hoài với ổ khóa và lắng nghe tiếng tách của cái lẫy khóa, cái tiếng tách nhiệm
màu sau câu thần chú “Vừng ơi, hãy mở ra!” Sau cả vài năm mày mò, cánh cửa có
thể mở bung ra và bạn có thể bắt đầu viết. Nhưng khốn nạn thay, rất nhiều khi
những gì chứa đựng trong tủ sắt đó lại chẳng mấy giá trị.
Một
việc làm vất vả với đớn đau dằn vặt trong cuộc mặc cả kia. Đêm bạn mất ngủ.
Ngày bạn lơ ngơ như người ngoài hành tinh. Bạn mất lòng tin con người và thế
giới bên ngoài. Bạn trở nên một kẻ nhút nhát, giả ốm để trốn việc trong cuộc
sống thường ngày. Bạn lẩn tránh trách nhiệm của đời sống cảm tính, nhưng xét
cho cùng, đó là điều duy nhất bạn có thể làm. Và có lẽ đó là lí do tại sao tôi
vẫn tự hào về tất cả những thứ tạp nham tôi đã viết cho các tạp chí linh tinh,
hay những bài điểm sách. Đó là một tài khéo của tôi, nói của đáng tội, cũng là
một cái nghề đấy chứ. Tôi đâu phải là thứ nghệ sĩ nhếch nhác chẳng ra gì.
Osano
chẳng bao giờ hiểu điều ấy. Ông vẫn luôn phấn đấu để trở thành một nghệ sĩ và
khước từ một vài nghệ thuật khác hay cận nghệ thuật. Cũng như nhiều năm sau đó,
ông chẳng bao giờ hiểu được những chuyện của Hollywood; ông không chịu hiểu
rằng điện ảnh là một nghệ thuật còn non trẻ nên ta không thể trách những biểu
hiện lệch lạch do bệnh ấu trĩ của nó.
Một
trong những vị phụ nữ nói:
-
Này Osano, ông đã lập được kỉ lục đáng nể trong bộ môn chinh phục phụ nữ. Đâu
là bí quyết thành công của ông?
Mọi
người cười rộ lên, kể cả Osano. Tôi lại càng ngưỡng mộ ông hơn, một anh chàng
từng có đến năm “cựu bà xã” mà vẫn còn cười được, kể cũng lạ!
Osano
nói:
-
Tôi nói với họ là phải một trăm phần trăm theo cách của tôi và không có phần
trăm nào theo cách của họ, trước khi họ dọn về ở với tôi. Họ hiểu vị thế của
mình và chấp nhận. Tôi vẫn luôn nói với họ rằng khi nào họ không còn thỏa mãn
với sự dàn xếp đó thì họ được quyền cút! Không phải lí luận, không giải trình
thuyết minh, không thương lượng mặc cả gì sất. Đơn giản là bước! Và cho đến nay
tôi vẫn chưa đủ khả năng để hiểu sự thế này là cái sự làm sao? Họ nói vâng khi
họ bước vào và rồi họ lại xé rào, phá vỡ luật lệ. Họ ngoan cố muốn kì kèo mười
phần trăm theo ý họ. Nhưng đời nào tôi chịu. Quân tử nhất ngôn mà? Và khi không
dành được phần nào, họ cảm thấy “quê độ,” thế là họ khởi động cuộc chiến gà mái
đá gà cồ. Nhưng làm sao đá lại con gà cồ “ác chiến” này!
-
Gớm! Một đề xuất hay ho quá nhỉ? - Một chị đàn bà khác góp ý. - Thế còn bù lại,
họ được hưởng gì nào?
Osano
đảo tròn mắt nhìn quanh khắp lượt và với khuôn mặt thẳng băng một cách hoàn
hảo, ông long trọng phán:
-
Một cú chơi cực đẹp!
Các
chị đàn bà bèn nhao nhao cả lên.
Khi
tôi quyết định nhận lời làm việc với ông tôi quay lại đọc tất cả những cái ông
đã viết. Những tác phẩm đầu tay của ông thuộc hàng số một với những cảnh tượng
chính xác, sắc nét như những bức tranh khắc acide. Những quyển tiểu thuyết có
kết cấu liền lạc trong nhân vật và cốt chuyện với những ý tưởng phong phú, mới
lạ. Những quyển sau của ông thâm trầm hơn, lắng đọng suy tư nhiều hơn, lời văn
cũng óng ả, trang trọng hơn, giống như một nhân vật mang nhiều huân, huy chương
lấp lánh trên ngực. Nhưng mọi quyển tiểu thuyết của ông đều mời đón những cây
bút phê bình nhập cuộc, cho họ nhiều chất liệu để làm việc, để diễn giải, để bàn
luận và cả để công kích. Nhưng tôi nghĩ ba quyển sách sau cùng của ông thì hơi
tệ. Nhưng các nhà phê bình lại không nghĩ như thế?
Tôi
bắt đầu một cuộc đời mới. Hàng ngày tôi lái xe đến New York và làm việc từ 11
giờ sáng đến hết buổi chiều, Các văn phòng của tờ báo rất rộng lớn với nhịp độ
làm việc bề bộn, sôi nổi, quay cuồng. Trong lúc làm việc, Osano thực sự tử tế
với mọi người đang làm cho ông. Ông vẫn luôn hỏi thăm tôi về quyển tiểu thuyết
mà tôi đang viết và tình nguyện đọc nó trước khi in và sẽ cho tôi vài lời
khuyên nhưng tôi quá tự hào nên không đưa cho ông xem. Dù ông đã nổi danh như
cồn, còn mình chưa có tiếng tăm gì, tôi vẫn nghĩ tôi là một tiểu thuyết gia tài
năng hơn.
Sau
những buổi chiều dài làm việc về những quyển sách phải giới thiệu và phê bình,
Osano sẽ uống Whisky mà ông để sẵn nơi bàn làm việc và thuyết giảng về văn học
cho tôi nghe, về cuộc đời của một nhà văn, các nhà xuất bản đàn bà và về bất kì
cái gì khác chợt hiện ra trong đầu óc ông lúc đó. Ông đang xây dựng quyển tiểu
thuyết lớn của mình, tác phẩm mà ông nghĩ sẽ giúp ông đoạt giải Nobel văn
chương, từ năm năm qua. Ông đã nhận được số tiền ứng trước rất lớn cho tác phẩm
đó và nhà xuất bản đang suốt ruột và giục ông hoài. Osano thực sự bực bội về
chuyện đó:
-
Cái đồ tồi, - Ông nói. - Hắn bảo tôi đọc các tác phẩm cổ điển để tìm cảm hứng.
Cái thứ dốt nát đó biết gì mà cũng đòi làm tài khôn lên mặt dạy đời. Anh đã
từng bao giờ thử đọc lại các tác phẩm cổ điển chưa? Ôi dào, ba cái anh “phất
cờ” già nua như là Hardy, như Tolstoi, như Galsworthi ấy mà. Họ dành cả ba bốn
chục trang để mô tả tỉ mỉ một quả đánh rắm. Anh biết tại sao không? Vì họ đã
đánh bẫy được dộc giả. Không ti vi, không radio, không phim ảnh. Không có thú
du lịch trừ phi bạn muốn bọng đái của bạn bị nhồi óc ách vì những cú dằn xóc
của xe ngựa trên những con đường khúc khuỷu gập ghềnh. Ở Anh ngay cả việc lâu
lâu buồn tình muốn đi đổi đĩa một bữa cũng khó. Có lẽ vì vậy mà các anh nhà văn
Pháp có vẻ quân bình hơn. Ít ra là người Pháp cũng được thoải mái hơn về chuyện
đó so với các vị “thẩm du tiên sinh” người Anh dưới thời Victoria. Bây giờ tôi
hỏi anh, tại sao một người có sẵn ti vi và một căn nhà trên bãi biển còn đọc
Proust làm chi. Tôi chưa hề đọc Proust, mà đọc cũng không vô, vì thế tôi gật
đầu. Nhưng hầu hết đã đọc các tác giả lớn khác và không thể thấy ti vi hay một
căn nhà nơi bãi biển sẽ thế chỗ họ.
Osano
nói tiếp:
-
Người ta vẫn cho Anna Karenina là một tuyệt tác. Tôi cho là một quyển sách toàn
chuyện nhảm. Một anh chàng học thức ở tầng lớp trên chiếu cố đến phụ nữ với
thái độ trịch thượng. Anh ta không bao giờ cho bạn thấy thực sự cô gái ấy cảm
gì, nghĩ gì. Ông ta chỉ cho chúng ta một biểu nhất lãm quy ước về thời đại và
nơi chốn.
Và
rồi ông ta làm một lèo ba trăm trang về việc quản lí một trang trại ở Nga như
thế nào. Ai cần biết chuyện đó làm quỷ gì? Và cái anh chàng Vronsky với linh
hồn khốn khổ của anh ta? Lạy Chúa, tổi không biết ai tệ hơn, người Nga hay
người Anh. Mấy anh chàng mắc dịch Dickens và Trollope, đối với họ năm trăm
trang sách chi chít chữ vẫn chưa là cái gì. Rảnh lúc nào là họ viết tuôn ra
tràng giang đại hải, tưởng chừng không lúc nào dừng. Người Pháp ít ra cũng ngắn
gọn hơn. Nhưng còn cái anh chàng Balzac chơi nhiều đẻ lắm kia? Tôi dám cá? Tôi
khẳng định? Ngày nay chẳng ai thèm đọc cái lão rườm lời nghe phát mệt ấy nữa
đâu.
Ông
tu một ngụm Whisky rồi thở ra:
-
Không ai trong bọn họ biết sử dụng ngôn từ như thế nào. Không ai, trừ Flaubert
nhưng ông ta không phải là thiên tài vĩ đại. Nói thế không có nghĩa là người Mỹ
đã khá hơn đâu. Như cái anh chàng Dreiser mắc dịch còn không biết các con chữ
có nghĩa gì nữa kìa. Tôi muốn nói thẳng anh chàng ấy dốt. Một anh dân bản địa
học hành cà lơ phất phơ, chữ tác đánh chữ tộ, vậy mà cũng đẻ ra những quyển
sách tám, chín trăm trang để tra tấn người ta. Ngày nay, không có sách nào của
những anh chàng ấm ở này còn có thể được tái bản và nếu còn chường mặt ra, đám
phê bình cũng đập cho bỏ mạng. Này cậu, cái đám đó tiêu đời rồi. Không còn sợ
cạnh tranh nữa.
Ông
dừng lời và thở ra, vẻ mệt mỏi:
-
Này Merlin thân mến, chúng ta là một giòng giống đang tuyệt chủng, những nhà
văn chân chính như chúng ta ấy mà. Hãy tìm một nghề nào khác để kiếm ăn đi.
Viết kịch bản truyền hình chẳng hạn. Hay viết chuyện phim đi. Cậu làm chuyện đó
dễ như bỡn mà.
Rồi
mệt lả, ông buông người xuống trên chiếc giường con để nơi văn phòng để đánh
một giấc ngủ trưa.
Tôi
thử động viên tinh thần ông:
-
Đó có thể là một ý tưởng rất hay cho một bài báo của tờ Esquire đấy, - Tôi bảo
ông. - Lấy ra khoảng năm hoặc sáu tác phẩm cổ điển rồi hành hình chúng. Giống
như bài ông viết về tiểu thuyết gia hiện đại.
Osano
cười:
-
Ôi giời, chuyện tiếu lâm thật. Tôi đùa thôi và chỉ muốn dùng nó cho một vở kịch
quyền lực để cho tôi nhiều “nước cốt” hơn và mọi người lại nổi giận. Nhưng vậy
mà được việc. Nó làm cho tôi lớn hơn và họ nhỏ đi. Và đó là trò chơi văn
chương, chỉ mấy thằng cha khốn khổ kia không biết điều đó. Chúng ngồi trong
tháp ngà, thủ dâm đến mệt lả và nghĩ rằng thế là đủ.
-
Như vậy thì quả này càng dễ ãn hơn, - Tôi nói. - Ngoại trừ chuyện các nhà phê
bình hàn lâm kinh viện sẽ nhảy bổ vào ông.
Osano
thấy có hứng với gợi ý quá hay của tôi. Ông bật dậy khỏi giường và đi đến bàn
giấy:
-
Anh ghét tác phẩm cổ điển nào nhất? - Ông hỏi tôi.
-
Silas Mamer, - Tôi đáp. - Họ vẫn còn dạy quyển đó trong nhà trường.
-
Của George Elid một kẻ đồng dục nữ, - Osano nói. - Mấy anh thầy giáo thích nàng
ta. Ok, quyển đó. Tôi ghét nhất là quyển Anna Karenina. Nhưng Tolstoi vẫn khá
hơn Eliot. Chẳng còn ai quan tâm đến Eliot nữa, nhưng các ngài giáo sư sẽ xuống
đường phản đối rầm trởi khi tôi xô ngã tượng đài Tolstoi.
-
Còn Dickens? - Tôi hỏi.
-
Tất yếu rồi, - Osano nói. - Nhưng không đụng đến David Copperfield. Tôi phải
thừa nhận rằng tôi yêu quyển đó. Anh chàng Dickens quả thật là tếu. Tuy nhiên
tôi có thể tấn công ông ta về mặt tình dục. Ông ta có vẻ đạo đức giả bộ làm như
mình không hề biết ngủ với đàn bà là gì. Và ngoài ra ông ta còn viết khối
chuyện nhảm nhí!
Chúng
tôi bắt đầu lên danh sách. Chúng tôi cũng dủ “hiền thục đoan trang” để không
xúc phạm đến Flaubert và Jane Austen. Nhưng khi tôi nói đến quyển tình sầu của
chàng Werther của Geothe, ông vỗ vào lưng tôi và reo lên:
-
Một quyển sách kì cục nhất từng được viết ra. Từ quyển đó tôi có thể chế biến
ra một khúc hamburg Đức.
Cuối
cùng chúng tôi có một danh sách:
Silas
Mamer
Anna
Karenina
Tình
sầu của chàng Werhter
Dombeyt
là con trai
Nét
chữ ô nhục
Lord
Jim
Moby
Dick
Proust
(toàn bộ tác phẩm)
Hardy
(bất cứ quyển gì).
-
Chúng ta cần một mục nữa cho tròn mười. - Osano nói.
-
Shakeaspeare, - Tôi gợi ý
Osano
lắc đầu:
-
Tôi vẫn còn yêu Shakeaspeare. Anh biết chuyện đó hơi hài hước; ông ta viết vì
tiền, viết nhanh, ông ta xuất thân từ dòng dõi thấp kém, ít học, thế nhưng
không có ai có thể với tới ông ta. Và ông không hề bận tâm những điều mình viết
ra có đúng hay không mà chỉ cần viết sao cho hay để tạo được hiệu ứng mĩ cảm,
làm cho người đọc, người xem xúc động. Điều đó mới quan trọng và khiến cho ông
vĩ đại. Mặc dù tôi vẫn ghét nhân vật Macbeth rởm đời và anh chàng Othello mù
quáng vì ghen tuông.
-
Ông vẫn còn một mục nữa, - Tôi nói.
-
Ờ, - Osano nói cười khoan khoái. - Để xem nào. Dostoievsky. Đích thị miếng mồi
ngon. Ta đem anh em nhà Karamazov ra hành hình hết. Nên chăng?
-
Chúc ông gặp may, - Tôi nói.
Osano
nói, vẻ trầm tư:
-
Nabokov nghĩ rằng ông ấy viết nhảm
-
Thế thì tôi cũng chúc cho Nabokov may mắn, - Tôi nói.
Thế
là chúng tôi bị nghẽn và Osano quyết định tiến hành “xử bắn” chín người thôi.
Vả chăng làm thế sẽ tạo ra sự khác biệt với số mười theo thông lệ, dù tôi vẫn
thắc mắc tại sao chúng tôi không thể đạt đến cho tròn số mười.
Tối
đó ông viết bài phê bình sát phạt nhằm đốt cháy cả một dãy đền đài lăng miếu
kia. Hai tháng sau bài viết được ném ra và nổ tung như một quả bom chứa hàng
tấn TNT! Với lời văn ngời ngời tia chớp, vang rền tiếng sấm, ông mổ xẻ không
thương tiếc những hà tì khuyết tật của những danh tác cổ điển trên và xuyên qua
đó ông hé lộ bằng cách nào mà quyển tiểu thuyết tối ưu vĩ đại mà ông sắp hoàn
tất sẽ không phạm vào những vết xe đổ trên và sẽ thay thế cho tất cả, vì nó
hoàn hảo hơn tất cả!
Bài
viết khởi động nên cả một dây chuyền phẫn nộ như điên. Khắp nước, bao nhiêu bài
báo rộ lên, khai hỏa tưng bừng nhằm thiêu ra tro cái kẻ mới có chút tài đã vội
ngông cuồng lếu láo, đồng thời đập cho tơi bời quyển tiểu thuyết chưa ra đời
kia, cho nó dập nát bét từ trong trứng nước!
Trúng
kế ta rồi, Osano lặng lẽ xoa tay cười ruồi, gật gù cái đầu, vênh vênh cái mặt,
trông thấy ghét!
Đúng
là một lão đĩ điếm thúi ngoại hạng, đáng mặt sư phụ của anh chàng Culli điếm cờ
bạc nữa. Và tôi ghi vào “bị vong lục” để nhớ sắp xếp cho hai tay quái kiệt này
gặp nhau trong một ngày nào đó.
Trong
vòng sáu tháng, tôi đã trở thành phụ tá đắc lực nhất của Osano. Tôi yêu công
việc mình làm. Tôi đọc sách rất nhiều và cho những ghi chú để Osano đưa cho
những cây bút cộng tác viết bài. Các văn phòng của chúng tôi là cả một biển
sách, trùng trùng điệp điệp muôn ngàn lớp sóng, sừng sững nguy nga vây bọc như
hàng hàng cổ thụ trong rừng, làm tôi nhiều lúc choáng ngợp và thấm thía câu cổ
thi Trung Quốc: “Thư sơn hữu lộ hành thiên lí, Học hải vô nhai độc vạn gia.”
Tôi
rất mê đọc, đặc biệt là tiểu thuyết và tiểu sử. Tôi không hiểu lắm các sách
giáo khoa hay triết học hoặc những quyển phê bình khảo luận thông thái; nên
Osano đẩy chúng qua cho những phụ tác chuyên môn khác. Ông ta thích đấu với
những tay phê bình văn học nặng kí, chọc tức cho họ bốc lên để họ phải luôn
luôn nhắc nhở đến tên ông, dù nhắc để chửi, ông cũng chẳng ngán vì ông đang
được đông đảo người đọc ái mộ mà. Nhưng luôn nhớ đến giải Nobel, ông vẫn đặc
cách trọng thị một số nhà phê bình có uy tín lớn, dành nhiều chỗ cho các bài
báo hay những quyển sách của họ. Nhưng có rất ít biệt lệ.
Ông
đặc biệt ghét các tiểu thuyết gia Anh và các triết gia Pháp. Và theo thời gian,
tôi có thể thấy rằng ông ghét công việc và càng ngày càng tỏ ra tắc trách, làm
qua quýt cho xong. Và ông không hề ngần ngại khi lợi dụng địa vị của mình. Các
cô giao tế nhân sự của các nhà xuất bản nhanh chóng nhận ra rằng nếu có một
quyển sách “nóng” muốn được giới thiệu sớm, họ chỉ mời Osano đi ăn trưa và vuốt
ve xưng tụng ông vài câu. Gặp cô nào trẻ và xinh ông ta sẽ ve vãn và làm cho họ
hiểu theo một cách dễ thương rằng ông muốn ăn bánh trả báo. Một bài báo giới
thiệu ngon lành, xứng đáng. Ông khá thắng thắn khi đề nghị chuyện đó. Một điều
vẫn gây sốc cho tôi. Tôi vẫn nghĩ chuyện này chỉ xảy ra trong giới điện ảnh.
Ông cũng sử dụng những kĩ thuật mặc cả đối với những cô gái muốn tìm việc cộng
tác với tạp chí. Nếu họ hiểu, ông cũng hiểu. Trong thời gian tôi đến, ông có
một dãy dài các bạn gái đã tiếp cận được với tờ tạp chí văn học có ảnh hưởng
nhất ở Mỹ nhờ vào sức mạnh của sự hào phóng tình dục. Tôi thích nét tương phản
của chuyện này với giọng điệu tri thức và luân lí có phần cao đạo của tờ báo.
Tôi
thường ở lại trễ với ông ta tại văn phòng vào những đêm đáo hạn (phải duyệt
xong hết mọi bài vở trước khi đưa in) và chúng tôi sẽ cùng ra ngoài ăn tối và
uống vài li sau đó ông sẽ đi đánh quả. Ông vẫn luôn muốn kéo tôi theo, nhưng
tôi cứ nói với ông rằng tôi thích đồ thiệt hơn là đồ sơn.
-
Cậu vẫn chưa ngán khi ăn mãi mỗi cái bánh đa ở nhà? - Ông hỏi.
Giống
như Culli đã từng hỏi tôi. Tôi không trả lời, làm bộ lờ đi. Đâu phải chuyện của
ông. Ông sẽ lắc đầu và nói:
-
Cậu là kì quan thứ mười trên thế giới đấy. Có vợ cả trăm năm rồi mà vẫn còn
thích cô vợ ấy.
Đôi
khi tôi nhìn ông có vẻ giận và ông sẽ trích dẫn mấy câu thơ của một anh thi sĩ
ấm ớ nào đấy. “Chơi đi kẻo phí hoài - Tuổi xuân không trở lại - Thời gian là
bạo chúa - Tàn sát chẳng chừa ai.” Ông vẫn thích trích dẫn mấy câu thơ vớ vẩn
đó thể hiện biện minh cho chuyện chơi bời hoang đàng của mình.
Làm
việc tại đó tôi bén mùi với văn chương. Tôi vẫn luôn mơ ước được làm thành viên
trong văn giới. Tôi nghĩ về nó như là một nơi không hề có ai mặc cả hay cã cọ
về chuyện tiền bạc. Vì đây là những con người sáng tạo ra những nhân vật làm
bạn yêu thích trong những quyển sách, người sáng tạo hẳn phải giống những nhân
vật đó. Nhưng rồi, tất nhiên tôi cũng nhận ra rằng họ cũng giống như bất cứ
người nào khác, chỉ có điều là còn điên rồ ở mức độ nặng hơn! Và tôi phát hiện
rằng Osano cũng ghét họ. Ông thuyết lí cho tôi nghe.