Bên Bờ Thiên Mạc - Chương 3
Chương 3
Trong một buổi
sáng đã có hai người nói với Trần Bình Trọng nhiều điều có ích. Họ chỉ là người
lính, người dân bình thường, nhưng đều đã trải qua nhiều trận chiến đấu gay go.
Họ đã làm cho Trần Bình Trọng vui lòng và tin rằng họ sẽ làm tròn những công
việc ông giao cho. Kể từ khi đất nước có giặc xâm lược, Trần Bình Trọng đã mắt
thấy tai nghe nhiều sự việc chứng tỏ tài năng và lòng yêu nước của những người
không phải dòng dõi quý tộc. Ông đã được thấy những người lính bình thường lăm
lăm ngọn giáo ngắn trong tay, xông thẳng tới trước những tên tướng Nguyên và
dùng ngọn giáo ngắn ấy đánh ngã tướng giặc cưỡi trên lưng những con ngựa cao
lớn. Ông đã từng giao nhiều việc quân cho những người lính của mình.
Có những việc,
người được giao làm đều biết chắc rằng mình một đi là không trở lại. Nhưng họ
đều nhận lệnh với một vẻ kiêu hãnh khác thường. Ông cũng đã từng thấy những
người lính của mình nạo vết thương cho nhau. Không một tiếng rên la, không một
lời than vãn. Có một lần, một chiến sĩ của ông bị dao chém xả cánh tay. Lưỡi
dao phạt mất mảng thịt mang hai chữ “Sát Thát” thích chàm. Người lính đã chìa
cánh tay có vết thương cho bạn buộc hộ và lại sẵn sàng giơ tay còn lại cho
người bạn khác thích hai chữ “Sát Thát” mới... Những tháng chiến đấu trên biên
thùy phía bắc đã khiến Trần Bình Trọng biết đánh giá một con người trên những
mặt nào. Và ông cũng biết tự mình tìm hiểu mình. Cho nên, lo cho quân bắc bếp
xong, Trần Bình Trọng dẫn ông già Xuân Đình lên trên đê cao xem thế đất. Ông
hỏi nhiều câu mà trước đây không bao giờ ông đặt ra với những người không mang
ấn phong hầu như ông. Những câu hỏi - đáp nối tiếp nhau đã chứng tỏ bài học
lượm được trong cuộc đời mang lại cho Trần Bình Trọng khá nhiều bổ ích. Ông già
làng Xuân Đình chẳng những giảng giải cho Trần Bình Trọng nghe rất kĩ về thế
đất vùng Thiên Mạc, mà ông ta còn nhận xét rất đúng phép dùng binh: “Với thế
đất như thế, cách bày trận sẽ phải ra sao.”
Ông ta nói:
- Dải cát sa bồi
này chạy dài tít tắp, không rõ đâu là bến bờ. Mặt trước bãi cát là con sông
Thiên Mạc rộng mênh mông. Mặt sau lưng nó là bãi lầy Màn Trò ăn mãi vào sâu
hàng trăm dặm. Chỗ chúng ta đứng đây là địa thế làng Xuân Đình. Xuân Đình ở đầu
bãi lầy Màn Trò, nhưng cũng ở đầu dải cát sa bồi. Từ trước đến nay, ai cũng cho
rằng trong bãi lầy không có người ở. Giặc Nguyên hơn ta về quân cưỡi ngựa, ta
giỏi hơn chúng về tài đánh trên sông. Nếu như trận đánh xảy ra ở đây, giặc sẽ
tránh giao chiến trên sông Thiên Mạc với ta. Chúng sẽ rút lên dải cát sa bồi
này, lập thế trận dựa lưng vào bãi Màn Trò để quyết chiến với ta trên vùng đất
khô ráo quen với vó ngựa của chúng.
Trần Bình Trọng
suy nghĩ về lời nói của ông già:
- Có phải ông lão
cho rằng tướng giặc sẽ lấy dải cát sa bồi này làm đất quyết chiến không?
- Chính vậy đấy!
Nhưng ta có cách buộc chúng không thể quyết chiến ở đây mà phải chịu những đòn
ta đánh ở chỗ khác và ở những hướng, khác với ý muốn của chúng.
- Ông lão nói nốt
đi! - Trần Bình Trọng giục, rõ ràng câu chuyện đã khiến ông thật sự quan tâm.
- Đây nhé! Tướng
quân xem, chúng muốn đổ quân lên bộ cũng phải dùng những bến thuyền này. Bởi vì
ở đây bờ sông thấp, lại có những vụng nhỏ tránh được sóng gió. Nhưng chúng
không bao giờ nghĩ rằng chúng có thể bị đánh từ cửa Hàm Tử trở xuống, vì rằng
bên kia cửa Hàm Tử là bến Chương Dương thẳng đường về Thăng Long, giặc sẽ dễ dàng
ra cứu.
Trần Bình Trọng
khen thầm. Ông khẽ gật đầu và giơ tay chỉ về phía Màn Trò hỏi tiếp:
- Ông lão định
phục binh trong đó để đánh vỗ vào lưng quân giặc phải không?
- Ấy là nếu lão
cầm quân, chứ lão đã trên bảy mươi tuổi đầu rồi và cũng chẳng ai bái lão làm
tướng. Nhưng nếu lão cầm quân, lão sẽ bày trận như vậy đó!
Gương mặt Trần
Bình Trọng rạng rỡ hẳn lên. Ông nói to với ông già Xuân Đình:
- Ông lão nói rất
đúng. Ta cũng sẽ phục quân trong Màn Trò. Như thế, nếu giặc phải giao chiến
trên sông Thiên Mạc hay trên bãi sa bồi này chúng đều phải đánh trên thế đất
chết của chúng. Binh pháp cũng nói như vậy đấy!
Ông già Xuân Đình
nhận lời khen một cách im lặng. Ông ta kín đáo nhìn Trần Bình Trọng với một vẻ
quý mến. Trần Bình Trọng nói tiếp:
- Nhưng ngặt vì quân
ta tuyển dân binh phía bắc lộ Khoái nên chẳng có người thông thạo thế đất Màn
Trò. Ông lão chưa trả lời ta xem có tìm được người dẫn đường không.
- Chính để trả lời
câu hỏi đó mà lão nói về thế đất của cả vùng Thiên Mạc này. Biết rõ Màn Trò,
trị được Màn Trò nay chỉ còn có lão mà thôi. Chả là vì lão quanh năm ngày tháng
cứ lặn lội trong cái bãi lầy ấy mà. Cũng vì vậy mà người vùng này quen gọi lão
là ông già Màn Trò.
Ông già cởi hàng
khuy áo. Một chuỗi răng cá sấu đeo thõng trước ngực ông già.
- Chuỗi này đã
được chín mươi chín chiếc răng. Ngày trước lão định giết đủ một trăm con cá
sấu, lấy răng làm cho con trai lão một chuỗi. Nhưng đã gần một năm nay, lão bặt
tin nó. Lão không biết nó có còn sống không. Mà lão thì già rồi, việc nước đang
cấp bách. Thôi thì lão xin biếu tướng quân chuỗi răng này làm vật ra mắt và
cũng là để tỏ rõ rằng từ nay bãi lầy Màn Trò kia đã tôn tướng quân làm chủ.
Ông già gỡ chuỗi
răng choàng lên cổ Trần Bình Trọng. Chuỗi răng thật đẹp, chiếc nào cũng nhọn
sắc, nước men bóng như ngà chuốt. Trần Bình Trọng đang ngắm chuỗi răng thì có
tiếng vó ngựa giòn giã vẳng tới. Từ phía cửa Hàm Tử, một con ngựa phi đến rất
nhanh. Con ngựa chắc đã phải vượt một chặng đường khá dài nên bốn vó của nó run
lẩy bẩy khi dừng lại. Một người lính truyền tin đeo ống công văn bên sườn từ
lưng ngựa tụt xuống đất. Người lính vái chào Trần Bình Trọng rồi dốc trong ống
công văn ra một tờ giấy cuộn tròn. Anh ta đem tờ giấy dán lên cổng chính làng
Xuân Đình. Trần Bình Trọng hỏi:
- Giấy gì thế?
- Thưa tướng quân,
đây là tờ chiếu của triều đình.
Trần Bình Trọng
lẩm nhẩm đọc. Ông hỏi ông già Màn Trò:
- Ông lão có biết
chữ không?
- Khổ quá, lão
trước làm cấm vệ trong quân Thần sách. Lão không được học văn. Giá có thằng con
trai lão ở đây thì nó đọc được.
- Ta muốn cho đọc
to tờ chiếu này để trăm quân đều hiểu.
Trong lúc ông già
cúi đầu nhớ đứa con, Trần Bình Trọng gọi lớn vào trong làng ra lệnh:
- Ai biết chữ lên
ngay đây!
Tiếng quân lính
lại truyền đi khắp vùng đóng quân: “Ai biết chữ lên hầu chủ tướng!... Lên ngay
hầu chủ tướng!” Người lính biết chữ trong đạo quân của Trần Bình Trọng chính là
Hoàng Đỗ. Đó là điều làm cho Trần Bình Trọng kinh ngạc vô cùng. Cậu bé nô tì
chăn ngựa bướng bỉnh vừa bước tới đã chợt “a” lên một tiếng rồi sụp lạy nhưng
không phải lạy Trần Bình Trọng, mà là sụp lạy cung kính, thiết tha ông già kì
dị làng Xuân Đình.
- Bố ơi! Đứa con
này thật không có hiếu. Con đã chẳng đỡ chân đỡ tay được cho bố lúc tuổi già.
- Con... con có tội gì đâu!
Ông già ôm lấy con trai, nâng nó lên, nhìn mãi mấy chữ “Quan trung khách”
thích chàm trên trán.
Trần Bình Trọng không được thấy cảnh chia tay của hai cha con ông già Màn
Trò. Nhưng ông được thấy cảnh gặp gỡ này, một cuộc gặp gỡ nói rõ được cảnh chia
tay trước đây. Ông giả vờ ngoảnh mặt đi để cha con người nô tì hỏi han nhau.
Ông già Màn Trò hỏi con:
- Mày có khỏe không?
- Con khỏe lắm! Bố xem này!
Cậu bé vén tay áo, nhịn thở, lên gân làm nổi lên mấy cái thăn chuột trên
cánh tay gầy nhom cho cha xem.
- Nom thế nhưng mà cứng lắm đấy bố ạ.
- Ờ... ờ, mày có nhớn lên đấy.
- Bố có khỏe không?
- Tao thì bao giờ chẳng vậy. Nhưng mà mày đã lập được chút công nào chưa?
Ông già trợn mắt nhìn con. Cậu bé nhoẻn cười:
- Bố thử xem con có cái gì đây.
Cậu bé gỡ dải thao xanh cho bố xem.
Ông già Xuân Đình kêu lên:
- Ngân tiền à? Ngày xưa đến tao cũng không được thứ này đấy!
Cậu bé chăn ngựa chỉ về phía Trần Bình Trọng, ý nói chính ông là người đã
thưởng cho cậu. Ông già Màn Trò kéo con trai lại trước mặt ông tướng Thánh dực:
- Mày lạy ân nhân đi.
Cậu bé bướng bỉnh quỳ gối sụp lạy. Trần Bình Trọng đỡ chú bé dậy. Ông chẳng
biết nói gì với hai cha con ông già Màn Trò. Cuộc gặp gỡ đột ngột này đã nói
tất cả những điều họ mong muốn. Một lát sau, tiếng của Hoàng Đỗ từ trong làng
đã vọng lên đê cao lời chiếu từ trung doanh thảo ra:
“... Phàm các quận, huyện trong nước, hễ có giặc ngoại xâm kéo đến, thì
phải liều chết cố đánh; nếu sức địch không nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng
núi, chứ không được đầu hàng.”
- Thế là từ nay ta có tới hai người thuộc thế đất Màn Trò. - Trần Bình
Trọng nói, vẻ mãn nguyện.
Ông già Màn Trò cũng hào hứng hẳn lên:
- Màn Trò thế rất hiểm. Ta muốn tiến thì tiến, muốn lùi thì lùi. Lão nguyện
theo tướng quân giữ lấy đất này đánh giặc, kì đến khi chúng không còn một mống
nhỏ.
***
Từ một gia nô mặc áo lính, cậu bé chăn ngựa được Trần Bình Trọng tin dùng,
giữ luôn ở bên ông. Còn ông già Màn Trò được tự do ra vào quân doanh của Trần
Bình Trọng. Vị tướng trẻ tuổi coi ông cụ như một bậc thầy. Khi quân lính ninh
nhừ cháo khoai bưng lên, Trần Bình Trọng nài ông già Màn Trò:
- Ông lão ngồi đây ăn với ta.
Trần Bình Trọng ép bằng được ông già phải ngồi cùng mâm với mình. Ông có vẻ
tiếc:
- Giá mà ta được gặp ông lão sớm hơn nữa nhỉ!
- Cũng thế thôi tướng quân ạ. Bởi vì khi đó tướng quân sẽ coi lão như bất
cứ một người lính cấm vệ nào khác. Mà thật ra lão cũng chỉ là một lính cấm vệ
đã về già.
Ông già cười. Trần Bình Trọng im lặng. Câu chuyện của hai người bị ngắt
quãng vì một người lính vội vã tới báo tin ngoài sông có một đoàn thuyền từ
phía Thăng Long xuôi xuống. Trần Bình Trọng vội buông bát, lên đê… Đoàn thuyền
to dần. Màu cờ, hiệu phướn đã phân biệt được. Sắc mặt Trần Bình Trọng bỗng thay
đổi. Ông bồi hồi nhận ra hiệu cờ Long phụng cắm trên mũi chiếc thuyền nhẹ sơn
son đi chính giữa. Long phụng là hiệu cờ của nhà vua! Trần Bình Trọng lập tức
ra lệnh cho quân Thánh dực lên đê bày trận. Khi đoàn thuyền cập bến, Trần Bình
Trọng cho phất cờ hiệu. Quân Thánh dực cùng giơ khiên giáo lên, múa rất đều bài
mừng quen thuộc của họ trước đây ở trường bắn kinh thành. Những đường khiên múa
xoáy tròn, những làn giáo đưa nhanh, rung tít ngù bông nhuộm đỏ. Khi những
người lính uốn mình, dải áo lượn mềm quấn quanh người họ... Thuyền Long phụng
cập bến. Nhân Tông bước lên trước. Gương mặt nhà vua có xanh đi chút ít, vẻ lo
nghĩ đọng ở quầng thâm khóe mắt, nhưng Nhân Tông đang nở một nụ cười tươi.
- Quan gia muôn
tuổi! Quan gia muôn tuổi!
Tiếng các chiến sĩ
tung hô vang dậy bến sông Thiên Mạc. Trần Bình Trọng cảm thấy say sưa, chuếnh
choáng. Ông hô lên thật to:
- Múa lên! Múa cho
tròn ngọn cờ Thánh dực!
Một người lính cầm
ngọn cờ Thánh dực tiến lên ba bước đứng trước hàng quân. Người lính vung mạnh
cho lá cờ lớn giũ hết nếp rồi cầm thu hai tay vào giữa cán, múa xoáy tròn.
- Trống đâu? Đánh
lên!
Hàng chục cỗ trống
đồng cùng được nâng lên khỏi mặt đất. Cứ mỗi cỗ trống là bốn người đánh. Tiếng
trống trận trầm rền bùng binh... bùng binh loang mãi ra, ù ù như tiếng sấm
truyền qua mặt sông động sóng. Theo điệu trống, quân Thánh dực say sưa múa bài
khiên giáo tuyệt diệu của những người lính túc vệ thượng đô. Nhân Tông sung
sướng bước lên đê cao. Theo sau nhà vua là một vị tướng già mặc áo chiến may
chẽn nhưng ống tay phải lại rất rộng. Trần Bình Trọng bồi hồi nhận ra vị tướng
già mặc áo nửa văn nửa võ ấy chính là Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn. Trần
Bình Trọng sụp lạy.
- Bảo Nghĩa hầu
hãy đứng lên. Ta miễn lạy cho. Hầu ra lệnh cho các nghĩa sĩ ngừng múa đi. Hãy
dẹp bớt nghi lễ để dành sức trăm quân cho chiến trận sau này.
Nhân Tông truyền
ôn tồn nhưng cũng rất cương quyết. Trần Bình Trọng vội tuân theo. Khi nhà vua
và Trần Quốc Tuấn đi qua trước hàng quân, tiếng tung hô lại vang dậy bến sông
Thiên Mạc. Nhân Tông nhìn những khuôn mặt nghiêm nghị, dày dạn khói lửa chiến
chinh. Trần Bình Trọng cung kính đi theo sau nhà vua và Quốc công Tiết chế. Ông
cũng nhìn những người lính của mình. Ông thấy trên nhiều vầng trán có thích
chàm ba chữ... Trần Quốc Tuấn bảo vị tướng trẻ tuổi:
- Bảo Nghĩa hầu
xem kìa. Chúng ta thật hạnh phúc được chỉ huy những người lính như thế này.
Câu nói của Trần
Quốc Tuấn đã gợi cho Trần Bình Trọng nhiều suy nghĩ. Ông im lặng đưa nhà vua và
Tiết chế về nghỉ tạm trong một căn nhà cuối làng Xuân Đình. Tới nơi, Trần Quốc
Tuấn sai sắp ngay ngựa. Ông bảo Trần Bình Trọng lấy người dẫn đường đưa ông đi
xem xét thế đất trong vùng. Chỉ một lát sau, Trần Quốc Tuấn đã phi ngựa trên
đê. Sau lưng vị tướng già là Trần Bình Trọng và mười người lính cưỡi ngựa,
trong đó có Hoàng Đỗ. Lúc bấy giờ trời đã xế chiều, từng đàn ngỗng trời đang
bay về Màn Trò. Trên bãi lầy đầy lau sậy xanh rờn, sương chiều buông xuống, bay
la đà, nhẹ và trong suốt. Nằm kẹp giữa Màn Trò và sông Thiên Mạc, dải cát sa
bồi bắt ánh nắng xiên khoai, trắng lấp lánh. Trần Quốc Tuấn gò cương ngựa
chiến, rướn mình trên bàn đạp. Ông ngắm rất lâu bến Chương Dương mờ ảo bên kia
sông xa tít. Ông chau mày nhìn cửa Hàm Tử hầu như không có bờ. Ông phóng ngựa
xuống bãi sa bồi. Đoàn người ngựa càng dấn sâu vào dải sa bồi, vó ngựa càng chuệnh
choạng trên cát lỏng. Như muốn thử sức ngựa, Trần Quốc Tuấn ra roi thật mạnh.
Con ngựa chiến chồm lên nhưng chỉ trong chốc lát đã mỏi gối, chùn vó lại... Khi
quay về, Trần Quốc Tuấn cho ngựa đi bước một. Ông không xem xét thế đất nữa mà
luôn luôn đặt ra những câu hỏi về những bí ẩn của bãi lầy Màn Trò. Mỗi câu trả
lời của cậu bé chăn ngựa lại gợi cho vị tướng già nhiều ý mới và ông lại hỏi
tiếp Hoàng Đỗ. Khi về tới cổng làng Xuân Đình, Trần Quốc Tuấn bảo Trần Bình
Trọng:
- Bảo Nghĩa hầu có
thằng bé dẫn đường ngoan lắm!
Lời khen của vị
Tiết chế đầu bạc làm cho cả Trần Bình Trọng lẫn Hoàng Đỗ cùng sung sướng cảm
động.