Người trong ảnh - Chương 24 - 25

Chương hai mươi tư

VỢ CHỒNG NHÀ CAYMAN

Bobby đang khó chịu khi thủ vai
tài xế thì thấy một mình Frankie xuất hiện.

- Hawkins! - Frankie nói to -
Chúng ta quay về Staverley thôi.

Đến một đoạn đường ngắn, Bobby
cho dừng xe lại.

- Thế nào, Frankie?

- Bobby, tình hình phức tạp rồi.
Moira đã đi rồi.

- Đi rồi ư? Ngay sáng hôm nay ư?

- Phải. Từ sáng sớm.

- Không để lại cho chúng ta một
chữ ư?

- Tôi không tin là có chuyện này.
Ông chồng nói dối... tôi tin chắc là như vậy.

Bobby tái mặt lẩm bẩm:

- Muộn mất rồi! Chúng ta ngốc
quá. Đáng lẽ hôm qua chúng ta không nên để cô ta trở về ngôi nhà ấy nữa.

- Anh không nghĩ là cô ta đã...
chết rồi ư?

- Không - Bobby nói to như để
trấn an mình.

Cả hai cùng yên lặng một lúc, sau
đó Bobby bình tĩnh phán đoán:

- Chắc chắn cô ấy còn sống vì
người ta chưa phát hiện ra xác chết. Người chồng sẽ tạo ra một cái chết hoặc tự
nhiên hoặc do tại nạn. Theo tôi, cô ấy hoặc đang bị săn đuổi, việc này là có
khả năng, hoặc vẫn còn trong lâu đài La Grange.

- Bây giờ chúng ta phải làm gì?

Bobby suy nghĩ một lúc.

- Tôi cho rằng sự có mặt của cô ở
đây không ích lợi gì nữa. Cô sẽ trở về Londres chứ? Cô đã nói cần tìm những dấu
vết của nhà Cayman. Cô nên bắt tay vào viêc này.

- Ô! Bobby!

- Bạn thân mến, cô không nên ở
lại đây. Mọi người đã biết cô, biết rất rõ nữa là khác. Cô đã nói mình sẽ về
Londres, cô không thể ở lâu đài Merroway mãi được, cũng không thể đến trọ ở
quán “Những người câu cá” được. Trong làng sẽ có những lời đàm tiếu. Không, hãy
tin tôi, cô nên đi khỏi nơi này. Chắc chắn là Nicholson đã ngờ vực, nhưng hẳn
là ông ta tin rằng cô chưa biết gì nhiều. Cô về Londres còn tôi thì ở lại đây.

- Vẫn ở quán “Những người câu cá”
ư?

- Không, người lái xe cho cô đã
biến mất rồi. Tôi sẽ tới Ambledever cách đây mười lăm ki-lô-mét và nếu Moira
vẫn còn ở trong ngôi nhà khủng khiếp ấy thì thế nào tôi cũng có dịp gặp cô ta.

- Bobby, anh hãy thận trọng.

- Tôi sẽ thận trọng như một con
rắn ấy.

Frankie đành phải đồng ý với anh.
Lập luận của Robby khá khôn ngoan. Cô hiểu vai trò của mình ở lâu đài Merroway
đã kết thúc. Bobby đưa cô về Londres và Frankie trở về ngôi nhà của gia đình ở
phố Brook Street. Cô cảm thấy mình quá đơn độc.

Nhưng vào ba giờ chiều hôm ấy,
một cô gái ăn vận sang trọng, mang kính kẹp mũi, tay cặp sách đi vào phố Saint
Leonards Gardens thuộc quận Paddington.

Frankie đi dọc trước những ngôi
nhà tồi tàn trên phố Saint Leonards Gardens, hầu hết đã đổ nát sau những ngày
tươi đẹp trước kia.

Tới nhà số mười bảy, cô thất vọng
khi nhìn thấy tấm bảng Nhà bán hoặc cho thuê treo trước cửa.

Ngay lập tức Frankie nhấc kính
kẹp mũi ra rồi đi thẳng. Người tuyên truyền cho Đảng bảo thủ không có lí do gì
ở lại đây nữa.

Cô đã kịp nhìn trên tấm bảng tên
hai nhà môi giới về nhà cửa và ghi vào sổ tay. Cô đã lập xong kế hoạch tác
chiến là bắt tay vào công việc thực hiện.

Trước hết Frankie đến Công ty
Gordon và Porter ở phố Praed Sreet.

- Chào ông. Ông có thể cho chúng
tôi địa chỉ mới của ông Cayman trước kia ở số nhà mười bảy, phố Saint
-Leonard’s Gradens, quận Paddington không ạ?

- Xin sẵn sàng, thưa cô - Người
nhân viên trẻ tuổi trả lời - Nhưng ông ấy chỉ ở đây trong một thời gian ngắn
thôi, cô hiểu cho. Ông Cayman chỉ ký một hợp đồng thuê nhà trong ba tháng, hết
thời hạn, ông ấy đã ra nước ngoài rồi.

- Vậy ông có địa chỉ mới của ông
ta không?

- Không, thưa cô.

- Nhưng trước khi thuê ngôi nhà
ấy, ông ta sống ở đâu?

- Ở khách sạn... hình như đó là
khách sạn Great Westem Railway ở gần ga Paddington thì phải.

- Ông còn giữ lại những giấy tờ
gì của ông ta không?

- Ông ấy đã thanh toán đủ tiền
nhà cùng tiền điện nước một lần cho ba tháng rồi, không có giấy tờ gì khác.

- Ô! - Frankie thở dài thất vọng.

Chàng trai nhìn cô với vẻ ái
ngại.

- Ông ấy nợ tôi một số tiền lớn-
Cô giải thích.

Ngay lập tức anh ta tỏ vẻ bất
bình. Anh bèn lục thêm trong các tập hồ sơ nhưng vẫn không thấy địa chỉ mới của
Cayman.

Công ty cho Cayman thuê nhà chưa
nghĩ đến việc tìm người thuê mới. Frankie yêu cầu được thăm ngôi nhà vì cô muốn
có một ngôi nhà nhỏ để tiếp tục việc học hành. Cô ra khỏi văn phòng Công ty với
chiếc chìa khóa trong tay và đến thẳng số nhà mười bảy, phố Saint- Leonards
Gardens, quận Paddington.

Đó là một ngôi nhà ít được giữ
gìn, tường dán loại giấy rẻ tiền, những lớp sơn bị tróc vảy, bẩn thỉu. Đầu tiên
Frankie xuống xem tầng trệt. Căn phòng không được quét dọn từ ngày chủ cũ dọn
đi; những đoạn giây thừng, những tập báo cũ, những mẩu gỗ vụn, những chiếc
đinh... nằm rải rác trên mặt đất... nhưng không có lấy một tài liệu, một lá thư
cá nhân nào.

Chỉ có một thứ có thể có giá trị
đó là tấm bản đồ đường sắt A.B.C để mở trước cửa sổ. Trên tấm bản đồ có ghi một
số tên người. Frankie chép những tên đó vào một cuốn sổ tay nhỏ tuy chưa biết ý
nghĩa của chúng ra sao.

Cô tự nhủ nếu chưa tìm ra vợ
chồng nhà Cayman thì chưa thể làm một việc gì khác được. Nếu phạm pháp thì họ
đã có những sự đề phòng cần thiết để không bị tóm cổ. Sự vắng mặt của họ cũng
có thể nói là một chứng cứ phạm tội.

Cô trả lại chìa khóa cho người
nhân viên và hứa sẽ gọi điện để trả lời sau đó đi ra công viên mà chưa biết
mình phải làm tiếp việc gì nữa. Sự suy nghĩ của cô bị cắt đứt bởi một trận mưa
rào. Xung quanh không có một chiếc tắc-xi nào. Gần đó có một ga xe lửa ngầm, cô
tới và mua một vé để đi Piccadilli Circus và lấy thêm hai tờ báo.

Vào giờ này xe lửa vắng khách,
trong toa chỉ có một mình Frankie. Cô có điều kiện suy nghĩ và đọc báo.

Cô đọc được những tin vặt: những
tai nạn xe hơi, những học sinh gái mất tích... dư luận xã hội, buổi tiếp khách
của phu nhân Petehampton ở Claridge, việc ngài John Milkington đã bình phục sau
tai nạn trên sông khi đang đi trên chiếc du thuyền nổi tiếng của ông John
Savage, một nhà tỉ phú quá cố. Chiếc thuyền đó đã mang tai họa đến cho ông này
ư? Người đóng thuyền đã bị giết một cách bi thảm; ông Savage đã tự sát; bây giờ
chủ nhân hiện tại của nó là ngài John Milkington suýt bị chết đuối.

Frankie đặt tờ báo xuống và cau
mày nghĩ ngợi.

Đã hai lần cô nghe nói đến cái
tên Savage: lần thứ nhất do bà Sylvia Bassington-ffrench khi nói về ông Alan
Carstairs và lần thứ hai trong cuộc nói chuyện giữa bà Rivington với Bobby.

Ông Alan Carstairs là bạn thân
của ông John Savage. Bà Rivington cũng nói đến sự có mặt ở nước Anh của ông
Alan Carstairs có quan hệ đến cái chết của ông John Savage. Nhà tỉ phú đã tự
sát vì cho rằng mình đã mắc bệnh ung thư. Nhưng nếu không tin vào lời giải
thích ấy, ông Carstairs trở về nước Anh để điều tra về cái chết của bạn mình
thì sao?... Tấn thảm kịch mà Frankie và Bobby chứng kiến có phải là khúc dạo
đầu trong câu chuyện về cái chết bí ẩn của ông Savage không?

Không có điều gì bác bỏ giả thiết
này, Frankie tự hỏi phải làm gì để có những chứng cứ. Cô không có thông tin gì
về người bạn của ông Savage cả.

Bất chợt một tia sáng lóe lên
trong óc cô: bản di chúc! Nếu cái chết của ông Savage có nghi vấn thì trước hết
phải nghiên cứu những mong muốn cuối cùng của nhà tỉ phú ấy.

Frankie đã nghe nói đến một văn
phòng ở Londres phục vụ cho việc nghiên cứu các bản di chúc miễn là người đọc
trả cho văn phòng một đồng xi-linh (tiền Anh - ND) một lần đọc. Nhưng cô không
nhớ địa chỉ của văn phòng này.

Xe lửa đỗ lại và Frankie thấy
mình đang đứng trước nhà Bảo tàng của nước Anh. Cô xuống xe và sau năm phút đi
bộ cô đến văn phòng luật sư Jenkin và Spragge.

Cô được ông Spragge, người cổ
đông chính của văn phòng, đón tiếp một cách niềm nở.

Ông Spragge là một người đáng
mến, có giọng nói dịu dàng khuyến khích khách hàng nói rõ những điều tế nhị.
Ông biết rất nhiều chuyện bí mật của Londres và nhất là những chuyện trong các
gia đình quý phái.

- Tiểu thư Frances, tôi rất lấy
làm hân hạnh được đón tiếp cô. Xin mời cô ngồi xuống. Ngài quận công
Marchington có được mạnh khỏe không?

Frankie trả lời và ông Spragge bỏ
chiếc kính kẹp mũi ra, từ lúc này ông là cố vấn pháp lí cho thân chủ của mình.

- Thế nào, tiểu thư Frances, cô
có việc gì mà tới văn phòng nghèo nàn của chúng tôi?

- Tôi muốn xem qua một bản di
chúc - Frankie nói - Nhưng không biết hỏi ai. Tôi nghe nói có một văn phòng mà
khách hàng chỉ cần mất một đồng xi-linh thì có thể đọc được mọi tài liệu.

- Phải, ở Somerset House - Ông
Spragge trả lời - Bản di chúc nào vậy? Tôi có thể cho cô biết nội dung mọi bản
di chúc của gia đình cô.

- Đây không phải là di chúc của
gia đình.

- A! - Ông Spragge nói.

Nhưng con người này rất mánh khóe
trong việc moi các bí mật của người khác khiến Frankie đã quyết định phải giữ
bí mật việc này cũng phải nói:

- Tôi muốn xem bản di chúc của
ông Savage... John Savage.

- Thế ư? - Vẻ tò mò thể hiện trên
mặt ông Spragge trước khi ông nói tiếp - Thật là lạ lùng... rất lạ lùng.

Frankie ngạc nhiên nhìn ông.

- Tôi không biết nói sao nữa -
Ông spragge nói - Tiểu thư Frances, cô có thể cho tôi biết lí do của việc này
không?

- Xin lỗi, thưa ông Spragge, cái
đó là không thể được.

Ông Spragge nhìn Frankie một cách
khác thường.

- Tôi thấy - Ông Spragge nói tiếp
- Cô phải đề phòng cẩn thận.

- Tôi phải đề phòng ư?

- Phải. Tôi có nhiều tin tức chưa
rõ ràng... tôi không muốn cô dính líu vào một công việc đang có nhiều nghi vấn.

Cô rất muốn trả lời rằng mình đã
chìm sâu, ngập tới cổ, vào việc này rồi, nhưng cô chỉ nhìn ông một cách dò hỏi.

- Theo tôi, đây là một sự trùng
hợp khác thường - ông Spragge - Tuy nhiên tôi thấy có một cái gì đó gian dối ở
trong bản di chúc đó. Lúc này thì tôi không thể nói gì hơn.

Frankie vẫn đưa mắt thăm dò ông.

- Tôi có trong tay một tài liệu
rất quan trọng - Ông Spragge nói tiếp với vẻ bất bình - Người ta đã đội tên
tôi, thưa tiểu thư Frances. Cô nghĩ thế nào về hành động bỉ ổi ấy?

Ngạc nhiên, Frankie đứng lặng một
lúc, không trả lời.

Cuối cùng cô lắp bắp:

- Làm thế nào mà ông biết được?

Ngay lập tức Frankie thấy hỏi như
vậy là ngu ngốc. Ông Spragge sẽ là một nhà pháp luật tồi nếu không hiểu lời thú
nhận ấy.

- Cô đã biết rõ việc này ư, tiểu
thứ Frances?

- Vâng.

Cô thở dài rồi nói thêm:

- Xin thú nhận thêm, tôi là kẻ
xúi giục - Thưa ông Spragge.

- Tôi ngạc nhiên về cô đấy.

Trong giọng nói của ông Spragge
có sự đấu tranh giữa người bảo vệ pháp luật với người cha chú của cô gái.

- Câu chuyện đã xảy ra như thế
nào?

- Đó là một trò đùa - Frankie nói
- Chỉ là để giết thời gian thôi.

- Nhưng ai là người đội tên tôi?

Frankie nhìn ông, rồi từ một cảm
hứng ngẫu nhiên, cô trả lời:

- Đó là ngài quận công trẻ...
Không, thưa ông Spragge, tôi không thể nói tên ông ấy ra đây. Đối với tôi đó là
một hành động không trung thành.

Ngay lập tức Frankie hiểu gió đã
xoay sang hướng có lợi cho cô. Chắc chắn ông Spragge sẽ kiên quyết đối với
người con trai của một ông mục sư, nhưng ông lại mềm yếu trước ông quận công
trẻ tuổi. Trở lại vẻ hiền lành, ông giơ một ngón tay lên:

- Ô! Tuổi trẻ tươi đẹp và đáng
khen. Cô chui đầu vào tổ ong vò vẽ nào vậy? Cô sẽ thấy nhiều chuyện phức tạp về
mặt luật pháp đối với sự tinh nghịch vô tư như vậy. Cô có biết mình có thể phải
ra trước tòa án không... nếu cô mang tên người khác chứ không phải là tên tôi?

- Ông rất đáng mến, ông Spragge.
Chỉ có một trong một ngàn người có hành động như ông. Thú thật tôi lấy làm
ngượng vì đã gây ra chuyện này.

- Không, không, tiểu thư Frances.

- Ô! Đúng thế, tôi xin cam đoan với
ông là như vậy. Chắc chắn là bà Rivington đã kể lại với ông. Bà ấy đã nói như
thế nào?

- Tôi vừa nhận được một bức thư.

Frankie giơ tay ra và ông Spragge
đưa lá thư cho cô với vẻ muốn nói: Để cô thấy rõ mình đã dại dột như thế nào!

“Ông Spragge thân mến - Bà
Rivington viết - Xin lỗi về sự quên lãng của tôi, nhưng lúc này tôi nhớ lại một
chi tiết để ông có thể xem xét sử dụng theo yêu cầu của ông khi đến gặp tôi bữa
nọ. Ông Alan Carstairs có cho chúng tôi biết ông ấy sẽ tới một nơi có tên là
Chipping Somerton. Tôi hi vọng tin mới này sẽ giúp ông tìm ra địa chỉ của ông
ấy hiện nay.

Những việc mà ông đã làm trong vụ
án Maltravers đối với tôi là rất thú vị.

Xin ông nhận ở đây những tình cảm
trân trọng của tôi.

Edith Rivington”

- Cô có thể tự nhận xét. Rất nghiêm
trọng - Ông Spragge nói nghiêm khắc tuy có đôi chút mềm dịu - Tôi có thể hiểu
đây là ý đồ gây ra một vụ om xòm liên quan đến vụ Maltravers hoặc thân chủ của
tôi là ông Carstairs...

Frankie ngắt lời ông.

- Ông Carstairs là một trong
những khách hàng của ông ư?

- Đúng. Ông ấy vừa đến hỏi ý kiến
tôi trong khi trở về Anh vào tháng trước. Cô cũng quen ông Carstairs ư, tiểu
thư Frankie?

- Có quen đôi chút.

- Một con người đáng mến. Khi ông
ấy tới văn phòng này, một bầu không khí tự do cùng vào với ông ấy.

- Ông ta tới hỏi về chuyện bản di
chúc của ông Savage, đúng không?

- A! Đây là chuyện cô muốn hỏi
tôi ư? Tiếc rằng tôi không thể giúp gì cho ông ấy cả.

- Ông ta đã hỏi ông những gì? Có
phải vì bí mật nghề nghiệp mà ông không thể trả lời tôi không?

- Trong trường hợp này thì không
phải như vậy. Theo tôi thì không thể làm gì trong vụ này được... trừ phi gia
đình ông Savage bỏ ra một số tiền rất lớn để theo đuổi kiện tụng. Tiểu thư
Frances, tôi khuyên bất cứ ai cũng không nên ra trước cửa công cả. Luật pháp sẽ
tung ra rất nhiều suy diễn làm hoang mang những người tinh thần không vững. Một
sự dàn xếp tồi còn hơn là một bản án tốt, đó là khẩu hiệu của tôi.

Frankie như đang ngồi trên đống
lửa. Cô rất sợ để lộ công việc mình đang làm.

- Đây là trường hợp hiếm thấy - ông
Spragge nói tiếp.

- Trường hợp tự sát ư?

- Không, không, tôi muốn nói đến
những chuyên bất chính. Ông Savage là một nhà kinh doanh có tài, nhưng ông ta
để mình bị mê hoặc bởi một người đẹp mới gặp lần đầu. Đây là một người đàn bà
giảo quyệt...

- Ô! Tôi rất muốn ông kể về người
phụ nữ ấy. Ông Carstairs thường nổi giận mỗi khi nói với tôi về người này mà
không cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện ra sao?

- Cũng đơn giản thôi. Tôi có thể
nói được nếu cô quan tâm.

- Ô! Vâng.

- Ông Savage từ Hoa Kì trở về
nước Anh tháng một năm ngoái. Như cô đã biết ông ấy là người rất giàu. Trong
chuyến đi ông ta làm quen với bà Templeton. Người ta không biết gì về người phụ
nữ này ngoài việc bà ta rất đẹp và người chồng đang ở nơi nào đó trên nước Anh.

“Vợ chồng nhà Cayman” - Frankie
nghĩ.

- Những chuyến đi biển thường
nguy hiểm - Ông Spragge nói tiếp - Bị mê hoặc bởi con người nghiêng nước
nghiêng thành ấy, ông Savage nhận lời sẽ đến thăm bà trong một ngôi nhà ở
Chipping Somerton. Ông ấy đã tới đây bao nhiêu lần thì tôi không rõ, nhưng rõ
ràng là ông ấy đã bị bà Templeton thống trị rồi.

Và sau đó thì tấn thảm kịch xảy
ra. Ông Savage lúc này kêu ca về tình trạng sức khỏe của mình. Ông sợ rằng mình
đã mắc một chứng bệnh nghiêm trọng...

- Ung thư ư?

- Vâng; ông ấy rất sợ chứng ung thư.
Sự sợ hãi ấy trở thành nỗi ám ảnh. Thời kì ấy ông Savage sống với vợ chồng
nhà Templeton. Họ khuyên ông nên mời một nhà chuyên môn ở Londres về khám bệnh.
Ông ấy làm theo. Tiểu thư Frances, đến đây thì tôi xin phép được tự do tưởng
tượng. Nhà chuyên môn ấy rất đặc biệt, trước tòa án ông ta đã thề mà nói rằng
ông Savage không hề mắc chứng ung thư. Ông ta đã nói với người bệnh như vậy,
nhưng ông này lại khẳng định điều ngược lại, không tin lời chuyên môn là
sai sự thật. Không được chứng kiến, tiểu thư Frances, nhưng theo sự hiểu biết
về cách chữa bệnh của mình tôi hiểu sự việc xảy ra có khác đi đôi chút. Nghe
những triệu chứng bệnh tật do ông Savage kể, nhà chuyên môn tỏ vẻ nghiêm trang
nói một cách mạnh mẽ, vừa an ủi ngưòi bệnh vừa ám chỉ bệnh tật của ông này là
nghiêm trọng. Ông Savage cho rằng nhà chuyên môn đã nói dối với mục đích làm
ông yên tâm... Nhưng ông thì ông hiểu rằng mình đã mắc chứng ung thư.

- Dù sao đi nữa thì ông Savage đã
tới Chipping Somerton trong tình trạng tinh thần suy sụp. Ông ấy hình dung ra
một cơn hấp hối đau đớn và kéo dài. Hình như đã có nhiều người trong gia đình
ông chết vì chứng ung thư và ông, quyết định không để tái diễn những cảnh đau
đớn mà ông đã chứng kiến. Ông Savage cho gọi người chưởng khế tới lập cho mình
một bản di chúc và ông đã ký vào đó và giao cho người đó giữ. Tới hôm ấy, ông
đã uống một liều lớn thuốc ngủ sau khi viết một bức thư giải thích về cái chết
nhanh chóng và không đau đớn của mình.

- Theo bản di chúc thì ông Savage
đã để lại hầu hết gia sản của mình cho bà Templeton và phần nhỏ còn lại cho
công tác từ thiện.

Hài lòng về chuyện kể của mình,
ông Spragge ngả lưng trên ghế bành rồi nói tiếp:

- Ông chánh án đã có bản kết luận
thường thấy: Tự sát trong lúc tinh thần không cân bằng; nhưng chúng tôi không
thể căn cứ vào đó để xác định tính chất hợp pháp của các chữ ký xác nhận trong
bản di chúc. Bản di chúc nói là đã được viết và được ký trước mặt một viên công
chứng trong lúc người qua đời trí óc minh mẫn. Chúng tôi không thể chứng minh
lúc ấy ông Savage đang bị một áp lực bên ngoài. Ông Savage không để lại cho
những người thân của mình chút gì... cha mẹ, anh chị em thì ông ấy phải nhớ chứ.
Tôi cho rằng họ đang ở Châu Úc.

- Và không ai lên tiếng bác bỏ
bản di chúc ấy sao?

- Như đã nói với cô, những người
thân của ông Savage không có mặt ở xứ sở này nên không biết gì về bản di chúc.
Chính ông Alan Carstairs khơi vấn đề này ra. Sau một cuộc khai thác ở Trung
Phi, sau khi biết mọi chi tiết của bản di chúc, ông Carstairs tới đây hỏi tôi
cách bác bỏ bản di chúc ấy. Tôi đã nói với ông ấy không có một giải pháp nào
cả. Với khả năng thành công chín phần mười theo pháp luật, bà Templeton sẽ
hưởng gia tài ấy. Hơn thế, bà này đã bỏ đi để sống ở miền bắc nước Pháp và từ
chối quan hệ với chúng tôi. Ông Carstairs hiểu rằng mình đã về quá chậm.

- Người ta không biết gì về bà
Templeton ấy ư?

Ông Spragge lắc đầu.

- Một người từng trải như ông
Savage đáng lẽ không nên để mình bị quyết rũ như vậy... nhưng...

Frankie đứng lên.

- Đàn ông thật lạ lùng - Cô nói.

Cô đưa tay ra cho ông luật sư.

- Tạm biệt ông Spragge. Ông rất
đáng mến, tôi lấy làm tiếc...

- Tạm biệt, tiểu thư Frances. Lần
sau nên cẩn thận hơn.

Cô bắt tay ông rồi rời khỏi văn
phòng của ông luật sư.

Ông Spragge ngồi trước bàn giấy
và nghĩ: “Vị quận công trẻ tuổi...”. Ông thấy không có ai là quận công ở nước
Anh lại tinh nghịch đến như vậy.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3