Dặm Xanh - Chương 51 - Phần 2

Vào giữa tháng năm, khoảng một tháng trước vự cướp giật và những vụ giết người đã kết thúc sự nghiệp sống ngoài vòng pháp luật của Wharton, Klaus Detterick sơn lại vựa cỏ của ông ta (và ngẫu nhiên, sau đó là chiếc cũi chó của con Bowser). Ông ta không muốn con trai mò mẫm trên giàn giáo, vả lại cậu bé bận đi học nên ông ta đã thuê người làm. Một gã khá tốt. Rất ít nói. Công việc tiến hành trong ba ngày. Không, gã không ngủ trong nhà. Detterick không điên rồ đến mức tin rằng tốt bụng và ít nói có nghĩa là an toàn, đặc biệt vào thời đó, khi có quá nhiều bọn vô lại lang thang ngoài đường phố. Một người đàn ông cùng gia đình anh ta phải thận trọng. Dù thế nào thì gã thanh niên cũng không cần nơi ở; gã bảo Detterick gấ đã thuê phòng trong thị trấn, tại nhà trọ Eva’s Price. Quả có một bà tên Eva Price ở Tefton và bà ta thật sự cho thuê phòng, nhưng không có khách trọ nào vào tháng năm khớp với nhân dạng của gã làm thuê cho Detterick. Chỉ là những người bình thường mặc áo kẻ carô, đội nón quả dưa, kéo những vali hàng mẫu - những người chào hàng, nói một cách khác. McGee kể cho tôi nghe được vì anh ta đã đến nhà Bà Price và kiểm chứng trên đường từ nông trại của Detterick trở về - anh ta bồn chồn là vì thế.

- Thậm chí nếu có - Anh ta nói thêm - Cũng không có luật chống người ngủ trong rừng, ông Edgecombe ạ. Bản thân tôi đã ngủ như thế một, hai lần.

Gã làm thuê không ngủ ở nhà Detterick nhưng ăn tối với họ hai lần. Hẳn gã đã gặp mặt Howard. Hẳn gã đã gặp mặt hai bé gái, Cora và Kathe. Hẳn gã đã nghe chúng ríu rít, một phần câu chuyện có lẽ nói về sự mong đợi mùa hè sắp đến, bởi nếu chúng ngoan ngoãn và thời tiết tốt, má sẽ thỉnh thoảng cho phép chúng ngủ ngoài hiên, ở đó chúng có thể tưởng tượng mình là vợ của những di dân đầu tiên đang vượt qua vùng Great Plains trên những chiếc xe ngựa Conestoga.

Tôi hình dung anh ta đang ngồi tại bàn, ăn gà rôti và bánh mì lúa mạch đen do bà Detterick nướng, lắng nghe, che dấu đôi mắt chó sói của anh ta, gật đầu, mỉm cười một chút, ghi nhận mọi tình tiết.

- Paul, chi tiết này nghé không giống gã thanh niên hung bạo anh kể cho em nghe khi gã đến Dặm Đường Xanh lần đầu. - Janice nghi hoặc nói. - Không giống chút nào.

- Thưa bà, bà đã không thấy nó tại Bệnh viện Indianola. - Harry nói. - Đứng ì ra đó, miệng há hốc và mông phơi ra sau quần. Mặc kệ cho chúng tôi thay quần áo cho nó. Chúng tôi tưởng nó say thuốc hoặc khùng. Phải vậy không, Dean?

Dean gật đầu.

- Hôm sau ngày gã thanh niên sơn xong vựa cỏ và ra đi, có một kẻ bịt mặt bằng tấm khăn rằn đánh cướp văn phòng hãng vận tải Hampey ở Jarvis. - Tôi kể cho họ nghe. - Tẩu thoát cùng với 70 đôla. Kẻ đó cũng cướp di đồng đô la bạc phát hành năm 1892 mà viên đại lí hãng mang trên người để cầu may. Đồng đôla bằng bạc đó được phát hiện trên người Wharton khi nó bị bắt, mà Jarvis chỉ cách Tefton có ba mươi dặm.

- Vậy tên cướp đó... gã hung bạo đó... anh nghĩ gã dừng lại ba ngày để giúp Klaus Detterick sơn lại vựa cỏ. - Vợ tôi nói. - Ản tối với họ, nói làm ơn đưa hộ đĩa đậu như mọi người bình thường.

- Điều đáng sợ nhất ở những kẻ như gã là không thể đoán trước. - Brutal đáp. - Có thể gã đã vạch kế hoạch thủ tiêu gia đình Detterick và cướp của, rồi thay đổi ý đồ vì một đám mây kéo đến che khuất ánh mặt trời vào lúc không thích hợp, hoặc điều gì đó tương tự. Nhưng có khả năng hơn cả là gã để ý hai bé gái và mưu đồ quay lại. Anh nghĩ thế không, Paul?

Tôi gật đầu. Tất nhiên tôi đã nghĩ đến tình huống đó.

- Và còn cái tên gã khai với Detterick.

- Tên gì? - Jan hỏi.

- Will Bonney.

- Bonney? Em không...

- Tên thật của Billy the Kid.

- Ồ. - Rồi mắt nàng mở to. - Ồ! Vậy là anh có thể gỡ tội cho John Coffey! Cảm ơn Chúa! Anh chỉ cần cho ông Detterick xem ảnh của William Whartoa, ảnh trong hồ sơ cảnh sát là đủ.

Brutal và tôi trao đổi ánh mắt bốì rối. Dean có vẻ hi vọng một chút nhưng Harry lại nhìn xuống bàn tay, như thể đột nhiên hết sức quan tâm đến những móng tay.

- Có chuyện gì? - Janice “hỏi. - Tại sao các anh nhìn nhau như vậy? Chắc chắn ông McGee sẽ phải...

- Rob McGee gây ấn tượng cho anh là người tốt, anh nghĩ anh ta là một nhân viên công lực tuyệt vời. - Tôi trả lời. - Nhưng anh ta không có kí lô nào ở Hạt Trapingus. Quyền lực ở đấy nằm trong tay Cảnh sát trưởng Cribus, cái ngày mà lão ta mở lại hồ sơ vụ án Detterick dựa trên những gì anh phát hiện sẽ là ngày tuyết rơi dưới địa ngục.

- Nhưng... nếu Wharton đã ở đó... nếu Detterick có thể nhận diện ảnh chụp nó và họ biết nó đã ở đó...

- Nó ở đó vào tháng năm không có nghĩa là nó đã quay lại và giết những bé gái vào tháng sáu. - Brutal giải thích. Anh ta nói bằng giọng thấp, dịu dàng, cách mà bạn dùng để nói với ai đó răng trong gia đình có tang. - Một mặt chúng ta có gã đã giúp Klaus Detterick sơn lại vựa cỏ rồi bỏ đi. Hóa ra gã gây ra tội ác khắp nơi, nhưng không có chi tiết nào chống lại gã trong 3 ngày tháng năm, khi gã còn quanh quẩn ở Tefton. Mặt khác, ta có tên da đen to xác kia, tên da đen khổng lồ mà chúng ta phát hiện trên bờ sông, ôm hai bé gái đã chết không mảnh vải trên tay.

Anh ta lắc đầu.

- Paul nói đúng, Jan ạ. McGee có thể nghi ngờ, nhưng McGee không là gì. Cribus là người duy nhất có thể mở lại hồ sơ, nhưng Cribus không muốn lôi thôi với cái lão nghĩ là kết thúc có hậu - “thủ phạm là một thằng da đen”, lão nghĩ thế, ‘và không phải người da trắng phe ta. Đẹp lắm, ta sẽ lên tận Cold Mountain, tự thưởng một miếng beefsteak và một li bia hơi ở quán Ma’s, rồi xem gã bị nướng, thế là xong.

Janice lắng nghe đầy đủ với vẻ khủng khiếp rõ dần trên nét mặt, rồi quay sang tôi.

- Nhưng McGee tin vào chi tiết đó, phải không Paul? Em thấy điều đó trên nét mặt anh. Cảnh sát phó McGee biết anh ta đã bắt lầm người. Anh ta dám đứng lên chống lại cảnh sát trưởng không?

- Tất cả những gì anh ta có thể làm khi chống đối là mất việc làm. – Tôi trả lời. - Phải, anh nghĩ trong thâm tâm, anh ta biết thủ phạm là Wharton. Nhưng anh ta tự nhủ rằng, nếu anh ta kín miệng và diễn xuất cho đến ngày Cribus hoặc là nghỉ hưu, hoặc tham ăn mà chết, anh ta sẽ được thăng chức. Và lúc ấy mọi việc sẽ khác. Anh hình dung đấy là điều anh ta tự nhủ để có thể ngủ ngon. Và có lẽ anh ta cũng không khác hơn Homer ở một điểm. Anh ta sẽ tự nhủ: “Dù sao cũng chỉ là một thằng da đen. Dường như không có chuyện đốt người da trắng vì phạm tội đó”.

- Vậy anh phải tìm đến với họ. - Janice nói và tim tôi chết cóng trước giọng nói quả quyết, không còn gì để nghi ngờ nữa.

- Anh hãy đi báo cho họ biết những gì anh đã phát hiện.

- Làm sao chúng tôi có thể khai báo rằng chúng tôi đã tìm ra sự thật, Jan? - Brutal hỏi nàng, vẫn bằng giọng thấp. - Chúng tôi có nên khai báo Wharton đã vồ lấy John như thế nào trong khi chúng tôi đưa gã ra khỏi trại giam để ban phép lạ cho vợ của giám thị?

- Không... tất nhiên là không được, nhưng... - Nàng thấy lớp băng trước mặt quá mỏng bèn trượt sang hướng khác. - Vậy thì nói dối. - Nàng kết luận. Nàng nhìn Brutal, vẻ bướng bỉnh, rồi quay sang nhìn tôi. Ánh mắt nàng đủ nóng để đốt thủng một mười lăm trên tờ báo, hẳn bạn sẽ nói vậy.

- Nói dối. - Tôi lặp lại. - Nói dối về điều gì?

- Về điểm khiến anh phải lên đường, trước là đến hạt Purdom, rồi xuống đến Trapingus. Xuống dưới đó gặp lão Cảnh sát trưởng già nua, to béo và nói rằng Wharton kể cho anh nghe gã đã hãm hiếp rồi giết chết hai đứa bé gái. Rằng gã thú nhận. - Nàng chuyển ánh mắt nóng bỏng sang Brutal trong một thoáng. - Anh có thể hỗ trợ anh ấy, Brutus. Anh có thể khai anh đã có mặt khi thằng nhóc thú tội, anh cũng nghe được. Có lẽ Percy cũng nghe được, và có lẽ sự kiện đó làm hắn kích động. Hắn bắn Wharton vì hắn không chịu đựng nổi khi nghĩ đến tai họa mà Wharton đã gây ra cho hai bé gái. Vụ việc đã làm hắn phát điên. Chỉ là... cái gì? Nhân danh Chúa, bây giờ lại chuyện gì nữa đây ĩ

Không chỉ tồi và Brutal, Harry và Dean cũng đang nhìn nàng, vẻ kinh hãi.

- Chúng tôi chưa bao giờ báo cáo sự việc nào như thế, thưa bà. - Harry nói. Anh ta nói như thể với một đứa trẻ. - Trước hết người ta sẽ hỏi tại sao chúng tôi đã không báo cáo. Chúng tôi có bổn phận báo cáo bất cứ điều gì các bé cưng trong xà lim nói lộ ra về những tội ác đã gây ra trước kia. Tội của chúng hoặc của bất cứ ai khác.

- Mà chúng tôi cũng không tin nó. - Brutal xen vào. - Một thằng như Wild Bill Wharton hay dối trá bất cứ chuyện gì, Jan ạ. Tội ác nó đã gây ra, những tai to mặt lớn nó quen biết, những người phụ nữ ăn nằm với nó, ghi bàn thắng bóng đá ở trường Trung học, thậm chí cả thời tiết chết tiệt nữa.

- Nhưng... nhưng... - Gương mặt nàng hiện nét đau đớn. Tôi bước đến quàng tay ôm nàng nhưng nàng thô bạo đẩy tay tôi ra. - Nhưng nó đã ở đấy! Nó đã sơn cái vựa cỏ đáng nguyền rủa của họ! Nó đã ăn tối với họ!

- Càng thêm lí do khiến nó có thể bị nghi ngờ phạm tội.

- Brutal nói. - Xét cho cùng, có hại gì đâu? Tại sao không khoác lác? Rốt cuộc chúng ta không thể nướng chín hai lần một con người.

- Để tôi nói xem đúng không. Chúng ta ngồi tại bàn này biết rằng John Coffey không những không giết các bé gái, anh ta còn tìm cách cứu sống. Cảnh sát phó McGee không biết tất cả, dĩ nhiên, nhưng anh ta quả có ý nghĩ kẻ bị kết án tử vì giết người không phải là thủ phạm. Thế mà... vẫn... các anh vẫn không thể xin mở lại phiên tòa mới. Thậm chí không thể mở lại hồ sơ.

- Vâng. - Dean trả lời. Anh ta đang giận dữ chùi bóng cặp kính. - Khả năng là như thế.

Vợ tôi ngồi cúi đầu, suy nghĩ. Brutal dợm nói điều gì đó nhưng tôi giơ tay, ra hiệu im lặng. Tôi không tin Janice nghĩ ra cách giúp John thoát khỏi cái hộp giết người, nơi gã đang ở, nhưng tôi cũng không tin là không được. Nàng, vợ tôi, là một quý bà thông minh đáng sợ. Quả quyết đáng sợ nữa. Một sự kết hợp đôi khi có thể lấp biển dời non.

- Được rồi. - Sau cùng nàng nói. - Vậy thì các anh phải tự giải thoát cho anh ta.

- Thưa bà? - Harry sửng sốt. Hoảng sợ nữa.

- Các anh có thể làm được. Đã từng một lần rồi, phải không? Các anh có thể làm lại một lần nữa. Có điều lần này sẽ không đưa anh ta trở vào.

- Bà muốn là người giải thích cho con cái tôi hiểu lí do tôi ngồi tù không, thưa bà Edgecombe? - Dean hỏi. - Bị buộc tội tiếp tay cho một kẻ giết người vượt ngục?

- Sẽ không có chuyện đó, Dean ạ, chúng ta sẽ vạch ra kế hoạch. Ngụy trang như một cuộc vượt ngục thật sự.

- Bảo đảm kế hoạch sao cho một gã thậm chí không nhớ nổi cách buộc dây giày tiến hành thành công. - Harry lên tiếng. - Người ta sẽ phải tin như thế.

Nàng ngập ngừng nhìn họ.

- Không ăn thua gì. - Brutal nói. - Dù chúng ta có nghĩ ra cách nào đó cũng chẳng ăn thua gì.

- Tại sao không? - Nàng cãi lại, nghe như thể sắp khóc. - Khốn kiếp, tại sao lại không được?

- Vì gã là một tên da đen hói đầu, cao 6 feet 8 inch, không có trí khôn để tự nuôi sống. - Tôi trả lời. - Em nghĩ bao lâu sau thì gã sẽ bị bắt lại? hai giờ? sáu giờ?

- Trước kia anh ta đã hòa mình vào xã hội, không lôi kéo nhiều chú ý. - Nàng đáp.

Một giọt nước mắt nhỏ xuống má, bị nàng gạt đi bằng cườm tay.

Điều đó quả có thật. Tôi đã viết thư cho một vài người bạn và thân nhân ở miền Nam, hỏi họ có đọc được trên báo chi điều gì phù hợp với nhân dạng John Coffey không. Không có gì. Janice cũng làm như thế. Chúng tôi chỉ tìm được một chi tiết có thể, xảy ra tại thị trấn Muscle Shoals, tiểu bang Alabama. Một con lốc quét qua ngôi nhà thờ trong lúc dàn đồng ca đang luyện tập - sự kiện này xảy ra năm 1929 - và một người da đen to lớn đã lôi hai nạn nhân ra khỏi đống đổ nát. Thoạt đầu đám đông hiếu kì tưởng họ đã chết, nhưng hóa ra thậm chí không ai bị thương nặng. Giống như phép lạ là lời của một nhân chứng thuật lại. Người da đen đó, một gã lang thang được ông Mục sư thuê làm việc vặt trong ngày, đã biến mất trong lúc náo động.

- Chị nói đúng, gã đã hòa mình. - Brutal nói. - Nhưng chị nên nhớ gã hòa mình trước khi bị tuyên án hãm hiếp và giết hai bé gái.

Vợ tôi ngồi yên, không trả lời. Nàng ngồi như thế đến gần một phút, rồi làm một điều khiến tôi bị sốc mạnh, cũng như dòng nước mắt của tôi đã gây sốc cho nàng. Nàng vung tay ra, gạt văng tất cả mọi thứ trên bàn - đĩa ăn, li tách, dụng cụ bằng bạc, tô cải xoăn, tô bí ngô, đĩa ăn trên có khoanh thịt heo, sữa, bình trà lạnh. Tất cả văng ra khỏi bàn và rơi xuống đất, vỡ tan.

- Khiếp quá! - Dean la to, ngả người tránh ra sau mạnh đến mức gần ngã ngửa.

Janice làm ngơ. Nàng chỉ nhìn Brutal và tôi, nhất là tôi.

- Các anh cố ý giết anh ta phải không, đồ hèn? - Nàng hỏi.

Các anh cố ý giết người đã cứu mạng Melinda Moores, người đã cố gắng cứu mạng hai bé gái chăng? A, ít nhất cũng bớt đi một gã da đen trên đời chứ gì? Các anh có thể tự an ủi bằng điều đó. Bớt đi một gã mọi đen.

Nàng đứng dậy, nhìn chiếc ghế của mình rồi đá nó văng vào tường. Chiếc ghế nảy ngược ra, rơi vào đống bí ngô bị đổ. Tôi nắm lấy cổ tay nàng nhưng vợ tôi giật ra.

- Đừng đụng vào tôi. - Nàng nói. - Vào giờ này tuần sau, anh sẽ là kẻ giết người, chẳng tốt đẹp gì hơn gã Wharton kia, vậy đừng đụng vào tôi.

Nàng bước ra hiên sau, kéo tạp dề lên che mặt rồi bắt đầu khóc nức nở. Cả bốn người chúng tôi nhìn nhau. Sau một khoảnh khắc, tôi đứng lên dọn dẹp. Brutal tham gia với tôi trước, rồi đến Harry và Dean. Họ ra về khi căn phòng ít nhiều đã có vẻ gọn gàng. Hai chúng tôi không nói với nhau một lời. Thật sự không còn gì để nói. Đêm ấy tôi nghỉ trực. Tôi ngồi trong căn phòng khách ngôi nhà bé nhỏ của chúng tôi, hút thuốc, lắng nghe radio và ngắm nhìn bóng đêm tỏa lên khỏi mặt đất, nuốt chửng bầu trời. Truyền hình cũng tốt, tôi không có gì phản đối, nhưng tôi không thích cách nó làm chúng ta quay lưng với thế giới còn lại, không hướng đến điều gì ngoài chính bản thân vô hồn của nó. Về mặt đó thì chí ít nghe radio vẫn tốt hơn.

Janice bước vào, quỳ xuống bên ghế và nắm tay tôi. Trong một thoáng, cả hai đều không nói gì, chỉ để yên như vậy, lắng nghe chương trình Kiến thức Âm nhạc của Kay Kyser và ngắm sao trời lấp lánh. Tôi cảm thấy yên ổn.

- Em rất hối tiếc đã gọi anh là đồ hèn. - Nàng lên tiếng. - Em cảm thấy tồi tệ về lời lẽ đó hơn bất cứ lời nào em đã nói với anh từ khi chúng mình lấy nhau.

- Kể cả khi chúng ta đi cắm trại và em gọi anh là lão Sam Già Hôi Thối chứ? - Tôi hỏi, rồi chúng tôi bật cười và hôn nhau, rồi tình cảm trở lại tốt đẹp giữa chúng tôi. Nàng quá đẹp, Janice của tôi, và tôi vẫn còn mơ thấy nàng. Già nua và mệt mỏi vì cuộc sông như tôi, tôi vẫn sẽ mơ thấy nàng bước vào phòng tôi ở chốn cô đơn bị lãng quên này, nơi các hành lang ngập mùi nước tiểu và cải bắp hâm lại, tôi mơ thấy nàng trẻ trung xinh đẹp với đôi mắt xanh; bộ ngực cao, mỹ miều mà tôi hầu như không rời nổi tay ra, và nàng nói, Anh yêu, em không bị tai nạn xe đó. Anh phạm sai lầm, thế thôi. Thậm chí bây giờ tôi vẫn mơ như vậy và đôi khi tỉnh giấc, biết rằng đấy chỉ là một giấc mơ, tôi đã khóc. Tôi, người không bao giờ khóc khi còn trẻ.

- Hal biết không? - Sau cùng nàng hỏi.

- Biết John vô tội? Anh không thấy ông ấy có cách nào biết được

- Ông ấy giúp được chứ? Ông ấy có ảnh hưởng nào đối với Cribus không?

- Không chút nào, em yêu.

Nàng gật đầu như đã biết trước sự thể.

- Vậy anh đừng nói cho ông ấy biết. Nếu ông ấy không giúp được, hãy vì Chúa mà đừng nói.

- Không nói

Nàng nhìn tôi với ánh mắt vững vàng.

- Và đêm ấy anh đừng xin nghỉ bệnh. Không ai trong các anh làm thế. Các anh không thể.

Không, bọn anh không thể nghỉ. Nếu có mặt ở đấy, ít nhất bọn anh cũng có thể kết thúc nhanh cho gã. Bọn anh có thể làm được nhiều. Sẽ không như trường hợp của Delacroix. - Trong một thoáng - ngắn ngủi thôi, tạ ơn Chúa, tôi nhìn thấy chiếc mặt nạ đen bằng lụa bừng cháy trên khuôn mặt Delacroix, để lộ ra hai hột mứt vốn là mắt của gã.

- Không có lối thoát cho anh, phải không? - Nàng cầm tay tôi, cạ nó vào làn da nhung mịt màng trên má. - Tội nghiệp Paul. Anh chàng tội nghiệp thân yêu.

Tôi không nói gì. Trước đó hoặc sau này trong đời, chưa bao giờ tôi lại thèm khát chạy trốn một sự thể nào như thế. Chỉ đem theo Janice thôi, cả hai chúng tôi với một túi vải hành lí ở giữa, chạy trốn đến bất cứ nơi nào.

- Anh chàng tội nghiệp của em. - Nàng nhắc lại, rồi nói thêm. - Hãy nói chuyện với anh ta.

- Ai? John ư?

- Vâng. Hãy trò chuyện với anh ta. Tìm hiểu anh ta muốn gì.

Tôi suy nghĩ, rồi gật đầu. Nàng nói đúng. Nàng thường nói đúng.

Báo cáo nội dung xấu