Những năm ảo mộng - Chương 3 phần 2

Tối hôm đó, anh có
hẹn đưa Anna đi nghe buổi hòa nhạc của dàn nhạc thính phòng. Nhưng sau khi gặp
Margaret, anh điện thoại cho bà Galt để nhắn với Anna là anh không đi
được.

Tuy thế, khoảng mười
giờ rưỡi, Anna bước vào phòng anh, không buồn gõ cửa. Chị quăng cái mũ xuống
sàn và ngồi phịch xuống ghế. Rồi, không buồn để ý đến anh, chị vớ lấy tờ báo
địa phương và chăm chú đọc.

Anh gượng hỏi:

- Buổi hòa nhạc hay
chứ?

- Tôi cũng không đi
nghe (giọng chị đầy hàm ý khác thường). Anh khỏi bắt mình phải giữ lịch sự với
tôi. Cứ việc tự do nghiền ngẫm về nỗi bất hạnh của anh.

Anna giả tảng không
để ý đến cái nhìn bực bội của Duncan và tiếp tục nói, không đổi giọng:

- Hãy nghe tiếng nói
địa phương này, tiếng vang của dư luận quần chúng: “Bạn bè của cô Margaret
Scott và bác sĩ Euen Overton sẽ vui mừng hay tin về lễ đính hôn của hai người,
được bà Inglis, dì của cô Margaret, công bố chiều hôm qua. Cô Scott rất nổi
danh trong câu lạc bộ của giới trẻ thanh lịch trong vùng, là con gái của đại tá
Scott, ở Stinchar Lodge.”

Chị ghê tởm vứt tờ
báo xuống sàn.

- Thật kinh tởm. Anh
chưa bao giờ thật sự yêu cô ta! Anh đã yêu một lý tưởng. Anh đã đặt cô ta lên
bệ thờ và lê dưới gối cô ta để tôn cô ta thành thần tượng. Ở đâu cũng thế, ở xứ
tôi, mỗi anh con tiều phu đều xây mộng quanh cô tiểu thư, con gái ông
Schloss.

Anh nhìn thẳng chị,
nhưng chị vẫn tiếp tục nói:

- Chẳng lẽ anh không
thấy cô ta chỉ là một cô bé làm đỏm, ích kỉ và hời hợt à? Làm sao anh lại có
thể nghĩ rằng mình có thể hòa hợp với cô ta, chịu đựng được những đòi hỏi không
ngừng, những ràng buộc xã giao xuẩn ngốc, những buổi tiếp tân nhàm chán của cô
ta?

- Anna!

Duncan chồm lên,
trắng bệch ra vì cơn giận điên người.

- Tôi biết, tôi biết
(chị đẩy anh ra với vẻ bất cần). Nếu tôi đã không mổ cánh tay anh thì ngay lúc
này anh đã giết tôi. Còn tôi, nếu tôi không nghĩ đến một điều gì tốt đẹp trong
anh, lẫn sau cái mớ tình cảm vụn vặt ấy thì ngay lúc này, tôi đã đứng dậy và
không bao giờ thèm nhìn mặt anh nữa.

Anh chịu đựng cái
nhìn của chị lâu hơn trước khi ngồi xuống ghế, bất lực.

- Đấy, như thế có
phải tốt hơn không? - Chị tiếp tục nói, giọng lạc đi, - tôi biết anh đang đau
khổ. Tôi hiểu anh cảm thấy gì khi nghĩ đến việc cô ta đã chọn Overton (nụ cười
ngạo mạn chậm chạp hiện lên môi chị). Anh đừng lo! Anh ta sẽ không hạnh phúc
lắm đâu. Và cả cô ta cũng thế.

- Anna, cô im
đi!

Anh đưa tay lên ôm
đầu.

- Cô y tá Damson đã
tự tử hồi tối.

- Sao?

Anh ngẩng đầu lên,
ngạc nhiên. Rồi ý nghĩa của tin này ập lên anh như một cú đấm.

Anna gật đầu:

- Phải! Một mớ bòng
bong. Anh có thể nào tưởng tượng nổi một cô y tá đầy kinh nghiệm lại chọn một
bệnh viện để nuốt năm chục viên thuốc ngủ không? Chúng tôi đã phải rửa ruột cho
cô ta như xả một cái máy bơm. Cô ta đã được gói ghém lại sạch sẽ và gởi trả về
gia đình ở Perth.

Duncan vẫn nhìn
chị.

- Sau chuyện này,
đương nhiên phòng cô ấy rối tung lên. Nhưng tôi cũng đã tìm được cái này, tôi
nghĩ giữ chúng lại sẽ có lợi cho chúng ta.

Chị ném tập thư cột
trong sợi dây lên gối Duncan. Anh chậm rãi mở ra. Tất cả bức thư đều do Overton
viết, chỉ cần vài phút cũng đủ hiểu nội dung của chúng.

- Đúng thế đấy, -
chị nhận xét khi anh ngẩng đầu lên nhìn chị. - Anh bạn quý, rất quý của anh
đang đứng trên miệng vực. Thật là thích thú khi thấy anh ta rơi xuống
đáy.

- Không!

- Tại sao không? Dẫu
sao, anh ta cũng không oan gì mà, sau khi đã thêu dệt tất cả những lời gièm pha
dối trá mà anh ta gieo rắc quanh chúng ta. Anh ta, con người được coi là tấm
gương đạo đức ấy, đã để các cô y tá yêu mình đến mức phải tự tử!

Anh nghiêm trang lắc
đầu:

- Tôi không thể làm
được, Anna ạ! Không bao giờ! Điều đó sẽ làm Margaret quá đau khổ. Tôi sẽ đấu
tranh với anh ta, nhưng không phải bằng cách ấy.

Anna chăm chú quan
sát Duncan, mắt hơi nheo lại và khéo léo đổi chiến thuật.

- Được rồi, anh có
thể có lí. Tôi ưng anh đập nát hắn ta nhưng tôi cũng sẵn sàng tin là có những
cách khác để làm điều ấy. Khi nào thì anh hết thời gian tập sự ở
Victoria?

- Đầu tháng 10, nếu
tôi không bị tống ra cửa trước đó.

- Tuyệt! Anh hãy đi
nghỉ mát vào ngày 15 tháng 10. Một chút gió mát sẽ đuổi mối tình vụn đó ra khỏi
tâm trí anh, anh bạn ạ. Và chỉ trong bốn tuần là anh sẽ hoàn toàn lành bệnh,
tôi đoán chắc như thế, và khi ấy…

- Khi ấy thì
sao?

- Khi ấy tôi sẽ sẵn
sàng trao công việc cho anh.

- Sẵn sàng cho
tôi?

- Hội đồng đề nghị
tôi ở lại Edimbourg, tất nhiên điều này chưa được chính thức công bố, nhưng đã
gần như chắc chắn. Tôi sẽ lãnh trách nhiệm về một trong những bệnh viện chính
và tôi sẽ hưởng tất cả những thuận lợi liên quan đến viện Wallace. Đương nhiên,
- chị nói tiếp, giọng đầy tự tin, - tôi có quyền chọn một đồng nghiệp để giúp
tôi trong cuộc kháo cứu cơ thể bệnh lý.

Mặt Duncan căng
ra:

- Cơ thể bệnh lý!
Nhà xác! Trời đất! Nhưng chị biết là tôi căm ghét việc ấy?

- Đừng có khùng! Tôi
rất có ảnh hưởng đối với hội đồng. Có thể tôi cũng đòi cho anh một ghế trưởng
khoa cơ thể bệnh lý. Hãy nghĩ lại đi, ghế trưởng khoa ở vào cỡ tuổi của anh. Và
hãy thử tưởng tượng xem Overton sẽ nghĩ gì khi điều ấy xảy ra.

- Quỷ tha ma bắt
chị! Tại sao chị cứ luôn khơi dậy những ý nghĩ xấu xa nhất của tôi?

- Bởi vì phần lớn
anh là sở hữu của tôi (chị nhẹ mỉm cười). Duncan rất quý mến ạ, bây giờ, hơn
lúc nào hết.

- Chị là người phụ
nữ ích kỉ nhất, khủng khiếp nhất mà tôi từng gặp.

Anna che một cái
ngáp và giơ tay nhìn đồng hồ:

- Đúng, khi nào liên
quan đến khoa học, thì tôi là như thế. Và cả hai chúng ta sẽ đi dưới lá cờ đó
(chị ném cho anh cái nhìn lạnh lùng). Thôi hãy ngủ ngon nhé, anh chàng tiều phu
trẻ tuổi, những ảo ảnh của anh về tình yêu đã chết rồi.

Khi đi ra cửa, Anna
cúi xuống nhặt tập thư. Khi đã về đến phòng, chị cẩn thận xếp lại chúng và cất
kĩ vào hộc bàn với một nụ cười bí hiểm trên môi.

oOo

Nôn nóng nhưng lại e
dè, Duncan cuối cùng cũng đã tới tuần chót của thời gian tập sự ở bệnh viện
Victoria.

Khí lạnh đã tràn tới
với những đám tuyết rơi dày đặc, những luồng gió rét căm căm làm cứng cả mặt
đất. Một buổi chiều, đúng lúc anh về sau khi đi rảo lần chót trong các trại,
thì chuông điện thoại vang lên trong phòng anh. Tưởng đó là cô y tá trưởng, anh
dửng dưng nhấc ống nghe lên.

Nhưng không phải
giọng cô y tá trưởng. Giọng nói, dù từ xa đến, vẫn rất rõ. Anh giật mình khi
nhận ra đó là giọng Jeanne Murdoch:

- Cha em bị
bệnh.

- Ông bị sao
thế?

- Viêm phế quản. Ở
đây tuyết rơi rất nhiều. Suốt ba đêm, ông bị gọi đến Strath, ông vẫn cứ đi mặc
dù đang bị cảm lạnh. Ông không chịu nằm nghỉ nhưng bây giờ, đành phải chịu
vậy.

- Thế còn bệnh
nhân?

- Đó chính là điều
làm em lo lắng. Lúc này bệnh nhân rất đông.

Chỉ trong chớp
nhoáng, anh đã có thể nhận ra tình trạng hiện tại ở khu làng hẻo lánh đó: bác
sĩ thì ốm, làng mạc thì phủ đầy tuyết, bệnh nhân thì ở rải rác từng nơi.

- Cô cần phải có
người thay thế?

- Vâng, ngay lập
tức. Anh có quen ai không?

Cô ngập ngừng, rồi
nói nhanh:

- Ôi! Duncan! Anh
không thể đến một vài tuần ư?

Anh đã quyết định
rồi. Thật ra nếu không có cuộc cãi vã giữa anh và bác sĩ Murdoch thì anh đã tự
đề nghị trước khi cô kịp hỏi. Anh nhanh chóng suy nghĩ. Trong trường hợp như
thế này thì chắc ông khoa trưởng cũng cho phép anh nghỉ trong những ngày cuối ở
bệnh viện Victoria. Anh hỏi Jeanne:

- Chuyến xe ca cuối
cùng khởi hành lúc mấy giờ?

- Chín giờ, ở Old Square.

- Tôi vừa kịp đủ giờ. Đợi tôi ở nhà khoảng 10 giờ.

Anh đặt máy xuống rồi gọi cho bác sĩ Inglis. Vài lời giải
thích rõ ràng và sốt sắng đã khiến ông cho phép anh nghỉ. Anh không kịp soạn
vali, chỉ kịp mang theo áo choàng và khăn quàng cổ, chụp cái mũ xuống tận mắt,
anh chạy vội ra. Anh chạy dọc theo những khoảng đường vắng tanh và đến kịp lúc
xe vừa chuyển bánh.

Bình thường thì xe đầy nghẹt người, nhưng tối nay, ngoài
anh ra, chỉ còn có hai hành khách. Một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi, vẻ
thanh lịch, với khuôn mặt đẹp kiêu kì, đang chăm chú đọc truyện. Duncan giật
nảy mình khi nhận ra người khách thứ hai ngồi ngay cạnh anh. Mặc dù đã không
gặp lại ông ta từ sáu năm nay, nhưng anh không thể lầm vào đâu được cái dáng
phục phịch ấy, cái khuôn mặt có chiếc hàm to bè, cặp mắt nhỏ láu cá với những
nếp nhăn hằn sâu, mái tóc thưa sắp xếp cẩn thận trên đầu ấy. Đấy chính là Joe
Overton “người lương thiện”.

Lão già tỏ ra là đã không quên Duncan:

- Anh đấy à? - Lão ta làu bàu. - Anh làm gì ở đây vào đêm
hôm thế này?

- Còn ông? - Duncan hỏi lại.

- Tôi ấy à? Tôi đi
thăm con trai. Tôi đã chẳng đi cái xe thổ tả này nếu xe tôi không bị hỏng. Tuột
ốc. Tôi mà bắt được thằng tài xế chết tiệt của tôi, tôi cứ là vặn cổ nó
ngay.

Lão ta lôi trong túi
ra điếu xì gà, cắn mẩu đầu và sửa soạn đốt nó:

- Anh đi còn xa
không?

- Tới Strath Linton, - Duncan trả lời.

- À thế! - Lão ta trả lời với một thoáng chú ý. - Một thung
lũng tuyệt thú! Chính tôi, tôi đã đi khá nhiều trong thung lũng ấy. Ở đấy tôi
có một công trình lớn nhất đời tôi đấy: một đập ngăn nước, tuốc-bin, máy phát
điện, vâng, tôi sẽ hoàn thành tất cả những cái đó và sẽ sử dụng trên một vạn
nhân công. Tất cả những người quen của anh trong Hội đồng tỉnh Levenford đều
đứng chung với tôi. Khi nào chúng tôi xong, chúng tôi sẽ cung cấp điện cho hết
phân nửa các xã bao quanh thung lũng. Chúng tôi gần như độc quyền khai thác, ấy
là chưa kể đến cái nhà máy đúc nhôm mà chúng tôi sẽ cung cấp điện luôn, một
công hai việc.

Duncan ngồi im. Ngoài những điều mà Jeanne đã kể anh nghe,
báo chí địa phương cũng đã bình luận rất nhiều về chương trình này. Một cuộc
tranh luận dữ dội đã bùng lên liên quan đến kế hoạch này, vì tuy nó có đem lại
lợi ích thật sự, nhưng sẽ hủy diệt vẻ đẹp của một thắng cảnh nổi tiếng đến hàng
dặm xa bao quanh.

- Anh thấy cái tên con ông cháu cha ngồi đằng kia chứ? (Joe
“người lương thiện” chỉ về phía người bạn đồng hành của họ, vẫn đắm mình xem
truyện) Alex Aigle đấy, con trai ngài John Aigle. Trời đất! Anh không thể tưởng
tượng được cái gia đình quỷ quái ấy đã gây phiền hà cho chúng tôi đến chừng
nào? Đã làm hết bao nhiêu điều để phá hoại cái dự tính của chúng tôi nhằm cứu
vãn cái phong cảnh cổ lỗ của họ! Nhưng rút cuộc tôi đã hạ họ.

Lão ta xoa tay khoái trá, rồi hướng đôi mắt xảo quyệt về
Duncan, lão hỏi:

- Này, hãy tha lỗi cho tôi nếu tôi tò mò, có chuyện gì mang
anh tới thung lũng Linton vậy?

- Tôi đến để thay thế tạm cho bác sĩ Murdoch.

- Murdoch! - Kẻ đang tiếp chuyện Duncan ồn ào kêu lên, -
cái lão già rệu rã ấy à?

Duncan lạnh lùng hỏi:

- Ông biết bác sĩ Murdoch à?

- Quá biết, - lão ta làu bàu, - tôi đã nhờ lão xem giúp một
vài trường hợp bảo hiểm xã hội. Một vài công nhân xuẩn ngốc của tôi mắc bệnh
viêm ruột. Ấy thế là tất cả bọn chúng vội đòi tiền bồi thường. Và thay vì giúp
tôi, cái lão quỷ ấy lại về hùa với chúng, kết tội căng-tin và dọa đem tôi ra
tòa nếu tôi không chịu trả tiền bồi thường.

- Thế đương nhiên là ông đã sai? - Duncan nhỏ nhẹ
hỏi.

- Đúng hay sai, tôi cũng sẽ không bao giờ nhanh chóng bỏ
quên lão đâu. Khi nào gặp lão, anh bảo lão là Joe Overton nhắn với lão điều ấy.
Tôi rất vui khi hay tin lão đau ốm, đã đến lúc lão ngủm cho rồi. Người ta cần
một bác sĩ hiện đại hơn ở Strath Linton và biết đâu lại chẳng chính tôi đem bác
sĩ ấy lại?

- Ông sẽ phí thì giờ đấy, - Duncan lạnh lùng bảo, - mọi
người ở Strath đều mê bác sĩ Murdoch.

Quay đầu đi, anh lấy quyển sách y khoa ra và bắt đầu đọc.
Có một lúc, anh dường như bắt gặp một nụ cười mỉm đồng tình trên mặt Alex
Aigle.

Mặc dù cố gắng tập trung vào quyển sách nhưng Duncan cũng
thấy khoan khoái khi tới chặng chót của cuộc hành trình giá buốt của mình. Anh
đi qua khu làng trắng như bông. Tuyết lạo xạo dưới chân và cái lạnh làm đông
lại hơi thở của anh. Một cảm giác phấn khởi kì lạ tràn ngậo trong lòng, anh có
cảm tưởng mình như một cậu học trò được về thăm nhà.

Đến cuối đường, ánh sáng lấp lánh từ nhà bác sĩ Murdoch tỏa
ra. Anh bước lên những bậc đá và nhấc chiếc búa gõ cửa nặng nề lên nhưng, trước
khi anh kịp buông nó rơi xuống thì cánh cửa đã mở toang, bóng dáng Jeanne hiện
ra trong ánh đèn ấm áp của phòng ngoài.

- Mời anh vào, - cô vội thốt lên, - Ôi! Em thật mừng được
gặp anh! Anh thật tốt khi nhận đến đây.

Cô giúp anh cởi áo choàng ra, mắt long lanh vì vui
sướng.

- Tay anh sao rồi? - Cô nhỏ giọng nói. - Tuyệt lắm phải
không?

Cô không nói nhiều về nó. Nhưng niềm hạnh phúc hiện lên
trong giọng cô làm anh hết sức cảm động:

- Chưa tuyệt bằng cuộc tiếp đón của em đâu, Jeanne ạ.

Anh vẫn đứng đấy nhìn cô, không vội rời bỏ cái cảm giác ấm
lòng mà sự hiện diện thân thương của cô đã đem lại cho anh.

- Bệnh nhân của chúng ta đâu? - Cuối cùng anh hỏi.

- Ở trên lầu, trong phòng ông. Ông đang cáu kỉnh kinh
khủng, chứng tỏ là ông không bệnh nặng lắm đâu.

- Dẫu sao, hãy để anh lên thăm ông ngay.

Anh mỉm cười với cô rồi từ từ lên cầu thang. Ông bác sĩ già
đang ngồi trong chiếc ghế bành to, lưng dựa vào chồng gối phủ chăn, chai nước
nóng ủ dưới chân. Má và trán ông đỏ au. Tuy vậy, mặc dù mắt long lanh vì sốt và
kèm nhèm vì cảm, tia nhìn của ông vẫn soi vào Duncan với vẻ rắn rỏi không lay
chuyển.

- Ra thế đấy, - ông rít lên, - chính con người vĩ đại cuối
cùng đã đến, từ những phòng thí nghiệm và những áo blouse sáng bóng của
người.

Duncan cố gắng giữ vẻ bình thản:

- Đáng lí bác phải nằm nghỉ ở giường, - anh vắn tắt nói, -
bác sốt ít nhất cũng bốn mươi độ và người bác tím tái cả đấy.

- Tím tái. - Bác sĩ Murdoch nhại lại. - Chắc đấy lại là một
trong những từ y khoa của anh. Cầu trời phù hộ cho tôi! Chỉ cần nghe nó thôi,
tôi cũng đủ khỏi bệnh rồi!

- Cháu xin bác, đừng có bứt rứt như thế. Bác làm bệnh nặng
thêm đấy.

- Có thể thế, - bác sĩ Murdoch ấp úng, - nhưng cám ơn bác
sĩ, tôi có thể tự mình khỏi bệnh, không cần đến mớ kiến thức khoa học rối beng
của ngài. Tôi… tôi đâu có mời bác sĩ đến, tại con bé Jeanne nó đòi thế đấy chứ.
Và nếu anh mà cả gan cho tôi uống vài giọt cái thứ thuốc mới bào chế quỷ quái
của anh, thì tôi, tôi vẫn còn đủ sức để đập vỡ đầu anh ra đấy!

Ông ngừng lại, rồi nói thêm, giọng đầy châm biếm:

- À, suýt nữa tôi quên, cô bạn quý của anh ra sao
rồi?

Duncan nghiến răng:

- Chị ấy vẫn khỏe.

Bác sĩ Murdoch bùng nổ:

- Anh thật đã làm tôi thất vọng tột cùng, đồ nhóc con trơ
tráo. Đáng lí, anh phải tự cảm thấy xấu hổ mới phải!

- Còn bác cũng thế, lão điên cứng đầu!

Nhưng Duncan cũng nhanh chóng nhận thấy là cuộc cãi vã này
chỉ làm bệnh nhân xúc động mạnh, và anh ghìm lại cơn bực tức của mình.

- Bác cho cháu danh sách bệnh nhân cần phải khám vào ngày
mai. - Anh đơn giản hỏi.

Bác sĩ Murdoch làu bàu:

- Bảo Jeanne đưa cho.

- Cảm ơn bác.

Duncan quay lưng đi ra.

- Có một thiếu phụ bị bệnh ở Blain Dhu, - bác sĩ Murdoch
nói. - Vợ của Mac Kebre, người gác rừng ấy. Cô ta sắp chết, tội nghiệp, cô ta
bị sưng phổi hai bên. Kêu gọi một bác sĩ rởm đi thăm bệnh cô ta vào một đêm như
thế này hẳn là một đòi hỏi quá đáng (ông tránh không nhìn ánh mắt của Duncan).
Nhưng một con người, theo đúng nghĩa của nó, thì sẽ chịu đi.

- Blain Dhu ở đâu?

- Một góc hẻo lánh cách đây 15 cây số, trên núi, Hamish
biết nhà.

Bác sĩ Murdoch ngưng nói và từ từ ngẩng nhìn:

- Anh định đi đấy
à?

Duncan chỉ nhìn lại
ông.

- Vậy thì phải nhớ
là anh không thể giúp gì cho cô ấy đâu, - bác sĩ Murdoch cau có bảo anh, -
nhưng sự hiện diện của anh ít ra cũng làm vừa lòng người chồng. Đừng có thí
nghiệm những kiểu chữa trị độc đáo của anh lên một người phụ nữ sắp chết đấy,
nếu không Mac Kebre sẽ đập bể đầu anh ra ngay.

- Cháu sẽ thử dùng
bất cứ cách xử lí nào cháu thấy là hợp lý, - Duncan đáp qua vai mình, - quỷ tha
ma bắt Mac Kebre và bác!

Anh đóng sầm cửa
lại.

Xuống tới nhà dưới,
anh bước vào phòng thuốc nhỏ - một vài kệ gỗ và lọ thuốc - gần như thảm hại trong
sự trống rỗng của nó. Anh cầm lấy cái túi của bác sĩ Murdoch, một túi xách da
đen cũ sờn bạc màu vì sương gió. Anh mở nó ra và thấy, sắp xếp cẩn thận và tỉ
mỉ, những thuốc giản dị nhất, và cũng an toàn nhất cho mọi tình huống, một ống
tiêm dưới da, Strychnine, Morphine, một cặp kim cũ kĩ, dây chỉ khâu, kim khâu.
Nói tóm lại, một tập hợp vũ khí cổ lỗ sơ khai đến mức chúng như được dùng bởi
chính ông tổ Hippocrate vào thời của ông.

Lòng hồi hộp kì lạ,
Duncan mang túi thuốc ra xe và ngồi xuống cạnh Hamish. Xe lăn bánh. Tuyết lại
rơi dày thêm. Ở những chỗ đã được quét, tuyết chất thành ụ rải bên đường. Nhưng
khi họ ra khỏi đường cái để rẽ sang đường mòn vòng quanh đồi thì chiếc xe bắt
đầu lội trong bùn.

Chung quanh họ,
những cành thông phủ tuyết trắng như vải hiện đứng vươn lên như những xác ma.
Mỗi lúc họ càng lên cao, khi quẹo quanh, những cơn gió bấc tạt vào họ, át đi
tiếng rên xiết của tấm cản chắn và tiếng lạo xạo của bánh xe lăn trên
tuyết.

Phải mất hơn một giờ
Hamish mới lái xe tới trước một căn nhà nhỏ nghèo nàn. Có lẽ người ta đang đợi
họ, vì cánh cửa đã mở ngang khi xe dừng.

oOo

Sau khi đã nhìn màu trắng quay cuồng
của tuyết rọi sáng bởi đèn pha của xe trên đường đi, thì phần trong căn nhà nhỏ
như tối sầm hẳn lại. Mắt bị chói, phải một lúc sau, Duncan mới nhận ra dáng
người gác rừng. Đó là một người đàn ông trạc ba mươi, mặt hốc hác vì lo lắng.
Cạnh lò sưởi là một bà cụ - có lẽ là người hàng xóm – nhìn Duncan bước vào, bên
cạnh bà cụ là hai đứa bé lặng im. Mắt của bốn người chăm chú nhìn anh với vẻ
chú tâm thầm kín và vẻ nghi ngờ được ghìm lại.

- Bác sĩ Murdoch bị bệnh, - Duncan
nói, - tôi là bác sĩ Stirling.

- Tội nghiệp Annie.

Người đàn ông buông mình ngồi phịch
xuống ghế và gục đầu vào hai bàn tay. Hai đứa bé òa khóc lên khi thấy cha chúng
bị thất vọng. Bà cụ kéo chúng lại gần, cố gắng dỗ chúng, vẻ bi quan:

- Thôi đừng khóc nữa, các cháu mồ côi
rồi.

Duncan cố hết sức cưỡng lại cảm giác
nặng nề mà cuộc đón tiếp đen tối này tạo cho anh. Ở một góc xa trong phòng, anh
nghe vọng lại tiếng thở nặng nhọc. Anh đặt túi thuốc của bác sĩ Murdoch lên bàn
và bước lại góc người bệnh nằm.

Chỉ thoáng nhìn, Duncan cũng nhận ra
tình trạng nguy kịch của người thiếu phụ. Ở đây chẳng cần đến tất cả cái đám
thiết bị khoa học của những công trình khảo sát mới nhất của anh.

Người bệnh, còn trẻ và xinh xắn, mặc
dù bị tàn phá bởi những cơn sốt, chắc chắn bị viêm phổi cả hai bên. Rõ ràng là
chị ta sắp chết.

Một nỗi xúc động sâu xa trỗi lên trong
lòng anh. Bản năng đấu tranh, không thể cưỡng lại trỗi dậy trong anh. Anh phải
đấu tranh, cùng lúc với ước muốn trị bệnh, lòng anh tràn ngập cảm giác đầy
quyền lực và vững tin vào sức mình. Người phụ nữ này đang có nguy cơ tử vong,
nhưng hiện chị đang còn sống. Và anh sẽ không để cho chị ta chết. Anh không thể
để chị ta chết.

Anh cởi áo choàng, áo veste và xắn tay
áo sơ-mi lên. Anh gọi bà cụ ngồi bên lò sưởi:

- Tôi cần tuyết, - anh bảo bà cụ, - ít
nhất cũng hai, ba xô.

Anh quay lại bàn và mở túi ra. Hiện rõ
trước mắt anh chương trình cuộc chiến đấu: đầu tiên là chống lại cơn sốt, sau
đó cố nâng đỡ cái sức tàn của chị cho đến khi mồ hôi vã ra.

Anh đặt bệnh nhân nằm thoải mái, chỉ
còn giữ lại trên người chị một tấm chăn đắp. Không có sẵn đá nhưng thiên nhiên
đã trang bị cho anh một vũ khí tương tự, nếu không muốn nói là tốt hơn. Sau khi
tuyết được mang đến, anh lấy từng vốc chà lên cơ thể còn trẻ nóng bỏng và khô
đét ấy.

Rồi anh lại lấy nhiệt độ. Cơn sốt đã
hoàn toàn hạ. Anh cẩn thận sửa soạn một liều thật nhỏ Strychnine và dùng ống
tiêm dưới da, tiêm cho người thiếu phụ.

Một giờ trôi qua. Hai đứa trẻ đã lăn
ra ngủ trên chiếc ghế dài cũ bên cạnh lò sưởi. Bà cụ già đã thôi không than vãn
và tia mắt bà chăm chăm nhìn Duncan không còn nghi ngại và chê bai nữa. Bây
giờ, người ta có thể đọc ở đấy vẻ chú ý và kính nể đang tăng dần lên. Mac Kebre
cũng vậy, có vẻ nhận thức rõ những cố gắng mà Duncan đang bỏ ra.

- Bác sĩ, - anh ta thì thầm nói, - anh
có nghĩ là cô ấy có hi vọng qua khỏi không?

- Im nào, John Mac Kebre! - Bà cụ cắt
ngang. - Để bác sĩ làm việc.

Chẳng mấy chốc đã ba giờ sáng. Ngồi
bên giường, tóc tai bù xù, cổ áo banh ra, Duncan, tay nắm chặt mạch cổ tay bệnh
nhân, cảm thấy choáng váng. Suốt hai giờ qua, anh đã tiêm Strychnine. Anh có
cảm tưởng như mình đã lăn xả vào cuộc chiến đấu từ hàng chục giờ đồng hồ. Nhiệt
độ bệnh nhân vẫn ổn định, nhịp thở không yếu đi, nhưng mạch đập mỗi lúc một
yếu. Dưới những ngón tay đè chặt của anh, nhịp mạch mất đi, rồi yếu ớt xuất
hiện, và ngừng hẳn…

- Than ôi! - Bà cụ buồn bã nói thầm
bên cạnh anh. - Bác sĩ đã cố hết sức rồi, bác sĩ ạ. Nhưng chị ấy đã không qua
khỏi.

Trong sự phản kháng với những lời
khẳng định ấy, Duncan cảm nhận một sáng kiến tuyệt vọng. Anh nhanh nhẹn quay
lại, lấy chai ê-te, rút đầy một ống, và tiêm nó vào ngực trái người thiếu phụ
đang hôn mê. Rồi, với đôi bàn tay, cố hết sức mình, anh bắt đầu xoa bóp trái
tim kiệt sức. Dưới những ngón tay của mình anh chợt cảm nhận một nhịp đập chậm
chạp, nảy bật. Quả tim đập một lần, ngập ngừng, thử một cái đập thứ hai, rồi
cái thứ ba, và từ từ tiếp tục nhịp đập yếu ớt.

Duncan e những ngón tay tê cóng của
mình sẽ bị bể vụn, nhưng anh không dám đổi tư thế. Anh hiểu rằng mỗi giây trôi
qua sẽ giúp anh có đủ thì giờ, chỉ cần duy trì được nhịp đập của trái tim chị
ta cho đến khi hạ cơn, cho đến khi mồ hôi vã ra.

Từ cơn ngất xỉu khủng khiếp vừa qua,
chị ta đã nằm bất động. Nhưng bây giờ, thình lình chị cựa đầu trên gối với một
tiếng rên yếu ớt. Một hi vọng cố gắng nảy sinh trong anh. Rồi anh thấy một giọt
mồ hôi xuất hiện trên trán người thiếu phụ. Một giọt duy nhất. Như bị thôi
miên, anh nhìn nó từ từ lăn trên má chị. Rồi nhanh chóng, nó được tiếp nối bởi
một giọt nữa, rồi một giọt nữa. Và cứ thế, chỉ một lát sau, người chị ướt đẫm
mồ hôi. Cơn sốt đã hạ, mồ hôi đã vã ra, chị đã được cứu sống.

Khi Duncan đứng dậy, những tia sáng
đầu tiên của rạng đông đã xuyên qua cửa sổ. Mặc dù mệt mỏi, anh vẫn cảm thấy
lòng tràn ngập một niềm hân hoan kì lạ. Anh chậm rãi lau mặt và tay, mặc áo
veste vào. Chỉ mãi đến lúc này, anh mới giật mình, chợt để ý đến sự hiện diện
của Mac Kebre.

Người gác rừng nhìn anh. Anh ta bắt
đầu nói:

- Bác sĩ…

Nhưng giọng anh ta bỗng nghẹn lại.
Không một lời ca tụng nào, một lời cám ơn nào có thể sánh được tiếng nấc lên
đang được ghìm lại trong cổ họng người đàn ông.

- Thôi nào, thôi nào, anh cả! Đừng làm
phiền bác sĩ chứ. - Bà cụ xen vào, vừa khơi ngọn lửa.

- Mời bác sĩ lại đây, và ăn hộ tôi món
xúp đậu này. Tôi có nấu một ít cho bữa ăn của lũ trẻ và bác sĩ sẽ là người được
hưởng đĩa đầu tiên. Không một người đàn ông nào trên trái đất này đáng được
hưởng hơn bác sĩ sau một buổi tối vất vả như thế.

Duncan nuốt món xúp ngon tuyệt vời
được làm béo thêm bởi sữa kem. Anh có cảm giác là trước đây, trong đời anh chưa
bao giờ được nếm một món ăn ngon đến thế. Mac Kebre cùng ăn với anh và Hamish,
bước ra khỏi nhà kho mà tối qua anh ta đã ngủ, cũng ngồi xuống ăn cạnh họ.
Những đứa trẻ cũng lần lượt thức dậy và sợ sệt bước đến bên giường mẹ chúng.
Rồi chúng cũng ngồi vào bàn.

Khi họ lên đường thì tuyết đã ngừng
rơi và mặt trời đã làm ửng hồng nền trời. Lần này, Hamish tỏ ra huyên thiên
khác thường. Rõ là những định kiến của anh ta về Duncan đã tan đi trong đêm qua
và anh ta thân mật trò chuyện cho đến khi họ về tới làng.

- Tôi biết rõ một người sẽ vui hết sức
về việc anh đã làm, - anh ta tuyên bố, - chính bác sĩ Murdoch ấy, ông đã đỡ
Annie sinh và khi thấy chị ấy sắp chết ông đã thật khổ sở.

Duncan nhẹ bước vào nhà và rón rén leo
lên cầu thang. Nhưng dù anh cẩn thận đến mấy, bác sĩ Murdoch cũng nghe thấy và
ông gọi anh với giọng gay gắt. Anh đứng lại, rồi quyết định bước vào phòng người
thầy thuốc già.

- Thế nào? - Bác sĩ Murdoch hỏi với
giọng khác thường. - Anh đã giúp người đàn bà đáng thương ấy qua đời rồi
chứ?

Duncan phác một cử chỉ mệt mỏi:

- Bây giờ chị ấy đã khá hơn rồi. Chị
ấy đã hạ cơn vào lúc bốn giờ sáng. Quỷ tha ma bắt bác đi, chị ấy sẽ khỏe trước
bác đấy.

- Anh không nói đùa đấy chứ?

- Không một tí nào, - Duncan đáp lời,
giọng mệt mỏi.

Nét mặt vị bác sĩ già vẫn không đổi.
Nhỏ giọng, ông lầm bầm:

- Thôi anh đi nằm đi và hãy nghỉ
khoảng hai giờ. Anh sẽ có một ngày vất vả đấy. Giờ khám bệnh bắt đầu từ lúc
chín giờ.

Không có từ nào trong những lời ấy gây
sự chú ý đặc biệt. Tuy vậy, cái vẻ mà bác sĩ Murdoch thốt lên đã tạo cho Duncan
một sự hài lòng bất ngờ.

*

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3