Cái ghế trống - Phần III - Chương 30

CHƯƠNG BA MƯƠI

Steve Farr
lại đưa Henry Davett vào la-bô. Nhà doanh nghiệp cảm ơn Farr và gật đầu chào
Rhyme. Farr đi ra.

“Henry,”
Rhyme nói. “Cảm ơn ông đã tới.”

Cũng giống
như lúc trước, nhà doanh nghiệp không chú ý gì đến tình trạng của Rhyme. Tuy
nhiên, lần này, thái độ của ông ta không đem đến cho anh nguồn an ủi. Nỗi lo
lắng về Sachs đang xâm chiếm anh. Đầu óc anh cứ văng vẳng giọng Jim Bell.

Thông thường anh có hai mươi tư tiếng đồng hồ để tìm thấy
nạn nhân, sau khoảng thời gian đó nạn nhân trở nên mất tính người dưới con mắt
kẻ bắt cóc và hắn sẽ giết họ chẳng cần suy nghĩ gì.

Quy tắc
này, lúc trước được áp dụng cho Lydia và Mary Beth, bây giờ thì nó có ảnh hưởng
đến cả số phận của Amelia Sachs. Sự khác biệt, như Rhyme tin tưởng, chính là
Sachs có lẽ sẽ có ít hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ nhiều.

“Tôi tưởng
anh đã bắt được thằng nhãi. Tôi nghe nói vậy mà.”

Ben đáp
lời: “Hắn đã trốn thoát.”

“Không!”
Davett cau mày.

“Chắc chắn
hắn đã trốn thoát,” Ben nói. “Một cuộc vượt ngục xưa như diễm.”

Rhyme:
“Tôi có thêm một số chứng cứ, nhưng tôi không biết phải hiểu chúng như thế nào.
Tôi hy vọng lại được ông giúp đỡ.”

Nhà doanh
nghiệp ngồi xuống. “Tôi sẽ làm những gì có thể.”

Một cái
liếc mắt qua cây ghim cài cà vạt khắc các chữ cái WWJD.

Rhyme hất
đầu về phía bảng chứng cứ, nói: “Ông làm ơn đọc qua danh sách kia được không? Danh
sách ở bên tay phải ấy.”

“Cối xay –
hắn đã ở đó à? Cái cối xay cũ kỹ nằm về phía đông bắc thị
trấn?”

“Đúng vậy.”

“Tôi biết chỗ
ấy.” Davett tức tối nhăn mặt. “Tôi đáng lẽ đã phải nghĩ tới nó.”

Các nhà
hình sự học không thể để cụm từ “đáng lẽ đã phải” len lỏi vào vốn từ vựng của
họ. Rhyme nói: “Trong công việc này, không thể nào mà nghĩ tới tất cả mọi điều
được. Nhưng xin hãy đọc bảng chứng cứ. Có gì xem ra là quen thuộc đối với ông
không?”

Davett
thận trọng đọc.

TÌM THẤY
TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY

Sơn nâu
dây trên quần

Cây gọng

Đất sét

Rêu nước

Nước trái
cây

Sợi giấy

Viên chua
làm mồi câu

Đường

Camphene

Chất cồn

Dầu hỏa

Men nở

Vừa đăm đăm nhìn bảng chứng cứ,
Davett vừa nói với giọng hết sức bối rối: “Giống như một câu đố vậy.”

“Đó là bản chất công việc của
tôi,” Rhyme nói.

“Tôi có thể suy đoán tới mức
nào?” nhà doanh nghiệp hỏi.

“Tới mức nào là tùy ý ông,”
Rhyme trả lời.

“Được rồi,” Davett nói. Ông ta
nghĩ ngợi một lát. “Một cái vũng nguyệt quế Carolina.”

Rhyme hỏi:
“Là thế nào? Nước mưa à?”

Davett
liếc nhìn Rhyme xem liệu anh có đang đùa không, rồi đáp: “Không, đó là một đặc
điểm địa chất mà người ta vốn vẫn thấy dọc bờ biển miền Đông. Tuy nhiên, phần
lớn chúng xuất hiện ở khu vực Carolina, Bắc và Nam. Về cơ bản, chúng có dạng
những cái áo hình bầu dục, sâu chừng ba, bốn feet, chứa nước ngọt. Chúng có thể
rộng từ nửa mẫu Anh cho tới vài trăm mẫu[36]. Đáy
những cái ao này chủ yếu là đất sét và rêu nước. Hoàn toàn đúng với chứng cứ
trên bảng kia.”

[36] Một
mẫu Anh bằng gần 4047m2.

“Nhưng đất
sét và rêu nước – chúng cũng khá phổ biến xung quanh đây,” Ben nói.

“Phải,”
Davett đồng tình. “Và nếu các anh chỉ tìm thấy hai thứ đó, tôi sẽ không có manh
mối nào lần ra nguồn gốc của chúng đâu. Nhưng các anh còn tìm thấy một số thứ
khác. Xem đây này, một trong những đặc điểm thú vị nhất về vũng nguyệt quế
Carolina chính là các loài cây ăn thịt côn trùng mọc xung quanh nó. Có hàng
trăm loài cây bắt ruồi, cây gọng vó, cây nắp ấm – có thể vì môi trường ao nước
khiến côn trùng sinh sôi nhiều. Nếu các anh tìm thấy cây gọng vó cùng với đất
sét và rêu nước thì chẳng còn nghi ngờ gì, thằng nhãi ấy từng quanh quẩn đâu
đấy xung quanh một cái vũng nguyệt quế Carolina.”

“Tốt,”
Rhyme nói. Rồi, đăm đăm nhìn tấm bản đồ, anh hỏi: “Vũng nguyệt quế có nghĩa thế
nào?”

“Nó ám chỉ
những cây nguyệt quế mọc xung quanh các ao nước này. Có đủ thứ chuyện hoang
đường liên quan đến chúng. Những người tới định cư thuở xa xưa từng nghĩ chúng
đã được những con quái vật biển khoét đất tạo thành hay do những mụ phù thủy
niệm thần chú. Giả thuyết về dấu vết của thiên thạch rơi xuống trái đất tồn tại
một số năm. Nhưng chúng thực sự chỉ là những chỗ lõm tự nhiên, kết quả của gió
và các dòng chảy.”

“Chúng có
phải đặc điểm riêng biệt của khu vực cụ thể nào xung quanh đây không?” Rhyme
hỏi, hy vọng các ao nước này sẽ giúp thu hẹp phạm vi tìm kiếm lại.

“Ở một mức
độ nào đấy.” Davett đứng lên và bước tới trước tấm bản đồ. Ông ta dùng ngón tay
khoanh tròn một khu vực rộng nằm về phía tây Tanner’s Corner. Từ ô B-2 đến ô
E-2 và từ ô F-13 đến ô B-12. “Anh sẽ tìm thấy chúng phần lớn là ở đây, khu vực
này, ngay trước khi anh tới chỗ các quả đồi.”

Rhyme cảm
thấy nản. Khu vực Davett khoanh tròn phải rộng tới bảy mươi háy tám mươi dặm
vuông.

Davett
nhận ra phản ứng ở Rhyme. Ông ta nói: “Giá như tôi có thể giúp đỡ được nhiều
hơn.”

“Không,
không, tôi rất biết ơn ông. Ý kiến của ông sẽ hữu ích. Chúng
ta chỉ cần thu hẹp thêm phạm vi các manh mối.”

Nhà doanh
nghiệp đọc: “Đường, nước trái cây, dầu hỏa….” Ông ta lắc đầu, mặt mày nghiêm
trang. “Anh phải làm một công việc khó khăn đấy, Rhyme.”

“Đây là
những vụ án phức tạp,” Rhyme giải thích. “Khi người ta không có manh mối nào,
người ta được suy đoán thoải mái. Khi người ta có rất nhiều manh mối, thông
thường người ta khá nhanh chóng đi đến được câu trả lời. Nhưng có một vài manh
mối, như thế này…” Giọng Rhyme nhỏ dần.

“Chúng ta
bị trói vào những thực tế đó,” Ben lẩm bẩm.

Rhyme quay
sang anh ta. “Chính xác đấy, Ben ạ. Chính xác.”

“Tôi phải
về nhà,” Davett nói. “Gia đình đang đợi tôi.” Ông ta ghi một số điện thoại lên
tấm danh thiếp. “Anh có thể gọi cho tôi bất cứ lúc nào.”

Rhyme cảm
ơn Davett lần nữa, rồi lại quay sang đăm đăm nhìn bảng chứng cứ.

Bị trói vào những thực tế đó…

Rich
Culbeau mút máu khỏi vết gai mâm xôi cào sâu trên cánh tay. Gã nhổ vào một thân
cây to.

Ba gã mất
hai mươi phút vất vả luồn lách qua các bụi rậm mới tới được hàng hiên bên hông
ngôi nhà nghỉ kiến trúc theo kiểu chữ A mà không bị đồ chó cái với khẩu súng
bắn tỉa phát hiện. Đến cả Harris Tomel, bình thường trông cứ như vừa bước ra từ
hàng hiên một câu lạc bộ thể thao ngoại ô, cũng lem luốc, đầy máu me.

Gã Sean
O’Serian mới mẻ, lặng lẽ và trầm tư và, chà, tỉnh táo nữa, đang đứng đợi ngoài
lối mòn, nằm trên mặt đất với khẩu súng đen sì y như một tên lính bộ binh đang
nằm càu nhàu tại khe Sahn, sẵn sàng cản bước Lucy và những tay Việt Cộng khác
bằng vài phát đạn xả vào đầu bọn họ, phòng trường hợp bọn họ đặt chân lên lối
mòn dẫn về phía ngôi nhà.

“Mày sẵn
sàng chưa?” Culbeau hỏi Tomel, gã này gật đầu.

Culbeau
khe khẽ xoay quả đấm cửa tiền sảnh và đẩy cho cánh cửa mở vào, gã giương súng,
sẵn sàng nhả đạn. Tomel theo sau gã. Hai gã bước rón rén như mèo, biết rằng cô
ả cớm tóc đỏ với khẩu súng trường săn hươu mà cô ả chắc chắn thông thạo cách sử
dụng có thể đang chờ đợi hai gã ở bất cứ ngóc ngách nào bên trong ngôi nhà.

“Mày có
thấy gì không?” Culbeau thì thầm.

“Chỉ nghe
thấy tiếng nhạc.” Đó là thể loại soft rock – thể loại mà Culbeau vẫn nghe vì gã
ghét thứ nhạc đồng quê miền Tây.

Hai gã đàn
ông di chuyển từ từ dọc theo dãy hành lang lờ mờ tối, súng giương lên, đã kéo
cò. Hai gã bước chậm lại. Phía trước hai gã là căn bếp, nơi Culbeau lúc trước,
khi nhìn qua kính ngắm của khẩu súng trường, đã trông thấy ai đó – có lẽ là
thằng nhãi kia – đi đi lại lại. Gã hất đầu về phía căn bếp.

“Tao nghĩ
bọn nó không nghe thấy ta đến đâu,” Tomel nói. Tiếng nhạc được vặn lên khá to.

“Ta cùng
vào. Nhằm cẳng chân hoặc đầu gối bọn nó mà bắn. Đừng làm hắn ngoẻo đấy – ta vẫn
còn cần hắn khai xem Mary Beth đang ở đâu.”

“Cả cô ả
kia nữa à?”

Culbeau
nghĩ một lát. “Ừ, sao không? Bọn ta có lẽ sẽ muốn giữ cho cô ả sống thêm tí chút.
Mày biết để làm gì rồi.”

Tomel gật
đầu.

“Một, hai…
ba.”

Hai gã ập
vào căn bếp và nhận ra mình suýt nữa nã cho tay dự báo thời tiết trên chiếc
tivi màn hình rộng mấy phát đạn. Hai gã khom người xoay một vòng, tìm kiếm
thằng nhãi và cô ả cớm. Không trông thấy đâu. Rồi Culbeau nhìn chiếc tivi, nhận
ra nó vốn chẳng được kê trong căn bếp này. Ai đó đã vần nó từ phòng khách sang
và kê nó phía trước lò nướng, màn hình hướng về phía cửa sổ.

Culbeau
ngó qua tấm mành. “Mẹ kiếp. Hai đứa nó kê chiếc tivi ở đây để bọn ta từ bên kia
bãi đất, từ chỗ lối mòn ấy, trông thấy. Và nghĩ có người trong nhà.” Gã dứt
những ngôi sao đính trên tấm mành ra, hai cái một.

“Khoan,”
Tomel kêu to. “Ả đang ở trên gác, có súng.”

Nhưng tất
nhiên tóc đỏ hoàn toàn chẳng ở trên gác. Culbeau đạp cửa xô vào cái phòng ngủ
mà lúc trước gã trông thấy nòng khẩu súng trường và chiếc kính ngắm chĩa về
phía mình. Bây giờ thì gã phát hiện ra những thứ gần đúng như dự đoán của gã:
một đoạn ống hẹp trên đỉnh được gắn với một đít vỏ chai bia Corona bằng băng
dính.

Gã nói
trong cơn phẫn nộ: “Đấy là khẩu súng và chiếc kính ngắm ấy đấy. Lạy
Chúa. Hai đứa nó đã bố trí để bịp bọn ta. Khiến bọn ta mất đứt nửa tiếng đồng
hồ. Và đám cảnh sát chết tiệt có lẽ chỉ còn cách đấy năm phút. Bọn ta phải rời
khỏi chỗ này thôi.”

Culbeau
chạy ào qua Tomel. Gã này vừa bắt đầu mở miệng: “Khôn ngoan như ả….” Nhưng,
nhìn thấy ánh mắt tức giận của Culbeau, gã quyết định không nói nốt câu.

***

Hết ắc
quy, cái động cơ điện bé tí im bặt.

Chiếc
xuồng hẹp họ đánh cắp từ ngôi nhà nghỉ trôi theo dòng Paquenoke, xuyên qua màn
sương đặc quánh như dầu bao trùm trên sông. Trời đã chạng vạng. Mặt nước không
còn màu ánh vàng nữa mà chuyển sang màu xám ảm đạm.

Garrett
Hanlon cầm một mái chèo từ dưới đáy xuồng lên, chèo vào bờ. “Chúng ta phải cập
bờ ở chỗ nào đó,” gã nói. “Trước khi trời, nói chung, tối hẳn.”

Amelia
Sachs nhận ra quang cảnh đã thay đổi. Cây cối đã thưa thớt đi và những vũng lầy
lớn gặp gỡ dòng sông. Gã trai nói đúng, một chỗ ngoặt sai lầm sẽ có thể đưa họ
vào một ngóc ngách của bãi lầy nào đấy mà không thể thoát ra được.

“Này cô,
sao vậy?” Garrett hỏi, trông thấy vẻ lo lắng trên gương mặt Sachs.

“Tôi đang
cách quá xa Brooklyn.”

“Chỗ đó ở New York à?”

“Phải,” Sachs nói

Garrett búng móng tay. “Và vì
đang không ở đấy mà cô không yên lòng?”

“Chắc chắn là thế.”

Vừa lái xuồng vào bờ, Garrett
vừa nói: “Đó là điều bọn côn trùng sợ hãi nhất.”

“Điều gì?”

“Nói chung, thật kì lạ. Bọn
chúng không ngại lao động, cũng không ngại chiến đấu. Tuy nhiên bọn chúng đều
hoảng hốt hết cả khi rơi vào một môi trường xa lạ. Thậm chí nếu đấy là một môi
trường an toàn. Bọn chúng ghét điều đó, không biết phải làm gì.”

Được, Sachs nghĩ, tôi cho rằng
tôi là một con côn trùng mang thẻ cảnh sát. Cô thích cách diễn đạt của Lincoln
hơn: cá trên cạn.

“Người ta luôn luôn nhận ra
được khi nào thì một con côn trùng thực sự lo lắng. Nó cọ đi cọ lại râu… Râu
của côn trùng bộc lộ tâm trạng của chúng. Giống như bộ mặt chúng ta vậy. Chỉ có
điều…,” Garrett nói thêm đầy ẩn ý, “chúng không mang những bộ mặt
giả vờ. Giống như chúng ta.” Gã cất tiếng cười kì cục - Sachs chưa nghe thấy
tiếng cười kiểu ấy bao giờ.

Garrett nhẹ nhàng đu qua mạn
xuồng bước xuống nước và kéo chiếc xuồng lên bờ. Sachs trèo ra. Gã dẫn cô đi
xuyên rừng và dường như biết chính xác sẽ phải đi đến đâu bất chấp bóng tối
chạng vạng và không có lối mòn nào mà cô trông thấy được cả.

“Làm sao cậu biết phải đi đến
đâu?” Sachs hỏi.

Garrett nói: “Tôi cho rằng tôi
là loài Vương Điệp. Tôi có khả năng xác định phương hướng khá tốt.”

“Vương Điệp?”

“Cô biết đấy, một loài bướm ấy
mà. Chúng di cư xa cả nghìn dặm và biết chính xác phải bay đến đâu. Thực sự rất
hay nhé – chúng xác định phương hướng theo mặt trời và tự động đổi đường bay
phụ thuộc vào đường chân trời. Ồ, và khi trời u ám hoặc đêm tối, chúng sử dụng
một giác quan khác – chúng cảm nhận được từ trường của trái đất.”

Khi một con dơi phóng ra một
chùm âm thanh để tìm kiếm chúng, những con bướm đêm liền gấp cánh lại và thả
mình rơi xuống đất, ẩn trốn.

Sachs đang mỉm cười trước bài
giảng đầy nhiệt tình của Garrett thì cô đột ngột ngưng lại, khom mình xuống.
“Nhìn kìa,” cô thì thầm. “Kia kìa! Có ánh sáng.”

Vùng ánh sáng yếu ớt phản chiếu
trên mặt một cái ao âm u. Thứ ánh sáng màu vàng đáng sợ trông giống như ánh đèn
lồng sắp tắt.

Nhưng Garrett cười to.

Sachs nhìn gã dò hỏi.

Gã nói:
“Chỉ là một hồn ma thôi.”

“Cái gì?”
Sachs hỏi.

“Đó là
Thủy nữ Đầm lầy. Nói chung, cái cô gái Anh điêng này đã chết vào đêm trước lễ
cưới. Hồn ma cô ta vẫn lội khắp đầm lầy Sầu Thảm tìm kiếm người con trai mà cô
ta đáng lẽ sẽ lấy làm chồng. Chúng ta đang không ở khu vực đầm lầy Sầu Thảm,
nhưng nó cũng gần đây.” Garrett hất đầu về phía ánh sáng mờ đục. “Thực ra thì
đó chỉ là hiện tượng phát quang sinh học – một loài nấm khổng lồ phát sáng.”

Sachs
không thích thứ ánh sáng kia. Nó gợi cho cô nhớ tới cái cảm giác bứt rứt trong
lòng khi họ lái xe đi vào Tanner’s Corner sáng nay, trông thấy cỗ quan tài nhỏ
giữa đám tang ấy.

“Tôi không
thích khu vực đầm lầy này, dù có hay không có ma,” Sachs nói.

“Thế á?”
Garrett hỏi lại “Có thể rồi cô sẽ thấy thích. Một ngày nào đó.”

Gã dẫn
Sachs đi dọc một con đường, và mười phút sau thì gã rẽ xuống một lối ngắn cho
xe chạy vào nhà, um tùm cỏ mọc. Một cái nhà lưu động đỗ trên bãi đất trống.
Trong bóng tối lờ mờ, cô không trông thấy được rõ ràng, nhưng dường như nó là
một cái nhà lưu động đổ nát, nghiêng sáng một bên, gỉ sét, các lốp bẹp gí, phủ
đầy dây thường xuân và rêu.

“Của cậu
à?”

“Chà, đã
nhiều năm không ai sống ở đây cả, nên tôi cho rằng nó là của
tôi. Tôi có chìa khóa nhưng chìa khóa lại để đằng nhà. Tôi không kịp lấy.”
Garrett đi vòng sang bên hông và cạy được một ô cửa sổ, đu lên chui vào qua đó.
Lát sau, cửa ra vào mở ra.

Sachs bước
vào. Garrett đang lục lọi cái tủ kê trong căn bếp bé tí. Gã tìm thấy diêm và
châm chiếc đèn lồng đốt bằng khí Propane. Nó tỏa ra thứ ánh sáng màu vàng ấm
áp. Gã mở một cái tủ khác, nhòm vào bên trong. “Tôi có ít khoai tây chiên
Doritos, nhưng lũ chuột xơi mất rồi.” Garrett lôi ra một cái hộp nhựa, xem xét.
“Nhai nát hết cả. Mẹ kiếp. Nhưng tôi có mì ống hiệu Farmer John. Ngon đấy. Tôi
ăn suốt. Và cả ít đậu nữa.”

Gã bắt đầu
mở các hộp thực phẩm trong lúc Sachs nhìn xung quanh. Vài cái ghế, một cái bàn.
Cô trông thấy trong phòng ngủ một cái nệm dơ dáy. Trên sàn phòng khách là chiếc
gối và tấm thảm dày. Bản thân ngôi nhà lưu động đã toát ra vẻ nghèo khổ: đồ đạc
và các cánh cửa nứt gãy, cửa sổ vỡ kính, những vết đạn xuyên trên tường, thảm ố
bẩn đến mức chẳng tài nào giặt sạch được. Hồi cô còn làm cảnh sát tuần tra ở Sở
Cảnh Sát New York, cô từng nhìn nhiều chốn đáng buồn như thế này – nhưng bao
giờ cũng chỉ nhìn từ bên ngoài. Bây giờ thì đây chính là chốn dung thân tạm
thời của cô.

Sachs nghĩ
về lời Lucy nói ban sáng.

Luật lệ bình thường không áp dụng đối với bất kì ai ở
phía Bắc sông Paquo. Cả chúng tôi lẫn bọn họ. Anh có thể thấy chính anh nhả đạn
trước khi anh đọc cho người ta biết về các quyền của người ta và điều đó hoàn
toàn không vấn đề gì cả.

Nhớ tới
những phát súng săn quá đỗi bất ngờ, nhằm vào cô và Garrett.

Gã trai
mắc mấy mảnh vải nhờn nhụa lên cửa sổ để tránh cho người ta trông thấy ánh sáng
bên trong ngôi nhà. Gã bước ra ngoài một lát rồi quay vào, mang theo cái cốc
han gỉ, đựng đầy nước mưa, có lẽ thế. Gã chìa cái cốc cho Sachs. Cô lắc đầu.
“Cảm giác như tôi phải uống phân nửa nước sông Paquenoke.”

“Nước này
hơn nước sông.”

“Tôi chắc
chắn vậy. Dù sao tôi cũng không uống đâu.”

Garrett
uống cạn cốc nước, rồi khuấy thức ăn đang đun trên chiếc bếp lò sử dụng khí
propane. Bằng giọng êm ái, gã ngân nga mãi một giai điệu kì quặc: Farmer
John, Farmer John. Hãy thưởng thức những thức ăn tươi ngon của Farmer John

Đó chỉ là một giai điệu quảng cáo, tuy nhiên cái giai điệu này gây tâm trạng
bối rối không yên và Sachs thấy mừng khi gã thôi hát.

Sachs
không định ăn, nhưng cô bất chợt nhận ra rằng mình đang đói muốn chết. Garrett
đổ thức ăn vào hai cái bát và đưa cho cô chiếc thìa. Cô nhổ nước bọt vào chiếc
thìa, lấy áo sơ mi lau. Họ im lặng ăn vài phút.

Sachs để ý
thấy một âm thanh cất lên bên ngoài, một âm thanh cao, nghe chói tai. “Gì thế?”
cô hỏi. “Ve sầu à?”

“Phải,”
Garrett trả lời. “Chỉ những con đực mới kêu như thế thôi. Chỉ những con đực.
Chúng tạo ra tất cả những âm thanh đó chỉ nhờ những tấm màng nhỏ trên thân.” Gã
nheo mắt, ngẫm nghĩ một lát. “Cuộc đời của chúng hết sức kì lạ… Ấu trùng đào
đất chui xuống và ở dưới ấy, nói chung, hai mươi năm, trước khi nở. Rồi chúng
chui lên và leo lên cây. Vỏ của chúng nứt theo đường dọc, con ve sầu trưởng
thành bò ra. Tất cả ngần ấy năm trong lòng đất, ẩn trốn, trước khi bò ra làm
con ve sầu trưởng thành.”

“Tại sao
cậu thích côn trùng đến vậy, Garrett?” Sachs hỏi.

Gã ngập
ngừng. “Tôi không biết. Tôi cứ thích thế thôi.”

“Cậu chưa
bao giờ tự thắc mắc điều ấy à?”

Garrett
ngừng ăn. Gã gãi một vết lằn đỏ vì lá sồi độc. “Tôi nghĩ tôi bắt đầu quan tâm
đến côn trùng từ sau khi bố mẹ tôi mất. Khi việc đó xảy ra tôi rất buồn bã. Tôi
cảm thấy đầu óc mình không bình thường. Tôi bối rối và, tôi không biết, chỉ
biết rằng không bình thường. Các giáo viên tham vấn tâm lý ở trường cứ bảo
nguyên nhân là do cái chết của bố mẹ và đứa em gái tôi, và họ, nói chung, bảo
tôi nên chịu khó làm việc hơn để vượt qua. Nhưng tôi không thể. Tôi cứ cảm thấy
như tôi không phải một người thực sự. Tôi không quan tâm đến bất cứ thứ gì. Tôi
chỉ nằm bẹp trên giường hoặc đi vào đầm lầy, vào rừng, đọc sách. Trong vòng một
năm, tôi chỉ làm chừng ấy việc. Nói chung, tôi hầu như không giáp mặt ai. Cứ
chuyển từ nhà cha mẹ nuôi này sáng nhà cha mẹ nuôi khác… Nhưng rồi tôi đã đọc
được những chi tiết thú vị trong cuốn sách kia.”

Lật
cuốn Thế giới thu nhỏ, Garrett tìm đến một trang. Gã đưa
nó cho Sachs xem. Gã đã khoanh tròn đoạn có đầu đề là “Đặc điểm của những sinh
vật lành mạnh”. Sachs lướt qua vài điểm trong số tám hay chín đểm được liệt kê.

- Một sinh vật lành mạnh luôn
luôn nỗ lực để lớn lên và phát triển.

- Một sinh vật lành mạnh luôn
luôn nỗ lực để sống sót.

- Một sinh vật lành mạnh luôn
luôn nỗ lực để thích nghi với môi trường xung quanh.

Garrett nói: “Tôi đọc những
điều ấy và, chà chà, xem chừng tôi có thể như thế được. Tôi có thể trở lại lành
mạnh và bình thường. Tôi hết sức cố gắng làm theo các quy tắc kia. Và tôi cảm
thấy khá hơn. Bởi vậy tôi cho rằng tôi trở nên gần gũi với chúng – ý tôi là đám
côn trùng.”

Một con muỗi đậu xuống cánh tay
Sachs. Cô cười to. “Nhưng chúng cũng uống máu người ta nữa.” Cô đập cho nó một
phát. “Hết đời cu cậu.”

chứ,”
Garrett đính chính. “Chỉ muỗi cái mới hút máu thôi. Muỗi đực hút mật hoa.”

“Thật à?”

Garrett gật đầu rồi im lặng một
lát. Gã nhìn cái chấm máu trên cánh tay Sachs. “Côn trùng không bao giờ biến
mất.”

“Ý cậu là gì?”

Garrett tìm đến một đoạn khác
trong cuốn sách, đọc to. “Nếu có những sinh vật nào được gọi là bất tử thì đó
chính là côn trùng, những sinh vật đã tồn tại trên trái đất hàng triệu năm
trước khi các loài thú xuất hiện và sẽ vẫn còn tồn tại dài lâu sau khi đời sống
văn minh chấm dứt.” Garrett đặt cuốn sách xuống, ngẩng nhìn Sachs. “Cô thấy
đấy, vấn đề là, nếu cô giết chết một con sẽ vẫn còn nhiều con khác. Nếu bố mẹ
và đứa em gái tôi là côn trùng thì khi họ qua đời sẽ có những người khác giống
như họ và tôi sẽ không phải đơn độc.”

“Cậu không có bạn bè à?”

Garrett nhún vai. “Mary Beth.
Cô ấy gần như là bạn duy nhất.”

“Cậu thực sự thích cô ấy, phải
không?”

“Thực sự. Cô ấy đã cứu tôi khỏi
cái thằng nhãi đang định giở trò đê tiện ra với tôi. Và, ý tôi là, cô ấy
đã trò chuyện với tôi…” Garrett nghĩ ngợi một lát. “Tôi cho
rằng vì thế mà tôi thích cô ấy. Trò chuyện. Tôi nghĩ, nói
chung, có thể vài năm nữa, khi tôi nhiều tuổi hơn, cô ấy biết đâu sẽ muốn hẹn
hò với tôi. Chúng tôi có thể làm những việc mà những người khác vốn vẫn làm. Cô
biết đấy, đi xem phim. Hay đi dã ngoại. Tôi đã quan sát cô ấy trong một chuyến
đi dã ngoại. Cô ấy đi cùng mẹ và mấy người bạn. Họ vui vẻ lắm. Tôi đã quan sát,
nói chung, hàng tiếng đồng hồ. Tôi cứ ngồi dưới một bụi nhựa ruồi, với ít nước
và khoai tây chiên Doritos, giả vờ như mình đang tham gia cùng họ. Cô đã bao
giờ đi dã ngoại chưa?”

“Rồi, tất nhiên.”

“Tôi từng thường xuyên đi cùng
gia đình. Ý tôi là gia đình thực sự của tôi ấy. Tôi đã rất thích. Mẹ và Kaye
bày biện bàn và nướng các thứ trên cái bếp Kmart nhỏ. Bố và tôi tháo giày, tất
ra, đứng xuống nước câu cá. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác khi chân sục vào bùn với
nước lạnh.”

Sachs tự hỏi phải chăng đây là
lý do khiến Garrett thích nước và côn trùng dưới nước đến vậy. “Và cậu cho rằng
cậu sẽ đi dã ngoại cùng Mary Beth?”

“Tôi không biết. Có thể.” Rồi
Garrett lắc đầu, mỉm cười buồn bã. “Tôi cho rằng không đâu. Mary Beth xinh xắn,
thông minh, hơn tôi nhiều tuổi thế. Rốt cuộc thì cô ấy sẽ hẹn hò với một người
nào đó đẹp trai, thông minh. Nhưng chúng tôi có thể làm bạn, cô ấy và tôi. Thậm
chí nếu không được vậy, tất cả những gì tôi thực sự quan tâm là cô ấy được an
toàn. Cô ấy sẽ ở với tôi đến chừng nào hết nguy hiểm. Hoặc cô và bạn cô, cái
ông ngồi xe lăn mà mọi người đều nói tới ấy, ông ta và cô có thể giúp đỡ cô ấy
đi đến nơi nào an toàn.” Gã nhìn ra ngoài cửa sổ, không nói gì nữa.

“Thoát khỏi gã đàn ông mặc quần
yếm à?” Sachs hỏi.

Garrett chưa trả lời ngay, rồi
gật đầu. “Phải, đúng thế.”

“Tôi đi lấy ít nước,” Sachs nói

“Khoan.” Garrett dứt mấy chiếc
lá khô từ cái cành nhỏ nằm trên kệ bếp, bảo cô chà lên hai cánh tay trần, lên
cổ và má. Mùi thảo dược sực nức. “Đấy là sả,” gã giải thích. “Để đuổi lũ muỗi
đi. Cô sẽ không phải đập chúng nữa.”

Sachs cầm cái cốc lên. Cô đi ra
ngoài, nhìn thùng nước mưa. Nó được đậy bằng một tấm lưới mắt mau. Cô nhấc tấm
lưới ra, múc nước đầy cốc, uống cạn. Nước dường như có vị ngọt. Cô lắng nghe
tiếng rúc và tiếng bay vun vút của đám côn trùng.

Hoặc cô và bạn cô, cái ông ngồi
xe lăn mà mọi người đều nói tới ấy, ông ta và cô có thể giúp đỡ cô ấy đi đến nơi
an toàn.

Mấy lời kia cứ vang vọng trong
đầu óc Sachs: Cái ông ngồi xe lăn, cái ông ngồi xe lăn.

Cô quay vào, đặt cái cốc xuống,
nhìn xung quanh phòng khách bé tí. “Garrett, cậu làm hộ tôi một việc được
không?”

“Tôi nghĩ là được.”

“Cậu tin tưởng tôi chứ?”

“Tôi nghĩ thế.”

“Hãy ngồi xuống ở đằng kia.”

Garrett nhìn Sachs một lát rồi
đứng lên, bước tới trước chiếc ghế bành cũ kĩ mà cô đang hất đầu chỉ. Sachs
bước ngang qua căn phòng bé tí, nhấc một trong số những chiếc ghế dựa mây đặt
trong góc phòng lên. Cô mang nó đến chỗ gã trai ngồi và đặt quay vào gã.

“Garrett, cậu nhớ việc Tiến sĩ
Penny bảo cậu làm lúc ở nhà giam không? Với chiếc ghế trống ấy?”

“Nói chuyện với chiếc ghế à?”
Garrett hỏi, ngập ngừng nhìn chiếc ghế. Gã gật đầu. “Trò chơi đó hả?”

“Phải. Tôi muốn cậu làm lại.
Được không?”

Garrett lưỡng lự, chùi hai bàn
tay vào ống quần, nhìn chằm chằm chiếc ghế một hồi. Cuối cùng, gã nói: “Tôi
nghĩ là được.”

Báo cáo nội dung xấu