Cái ghế trống - Phần III - Chương 27
CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY
Sau khi
các anh cảnh sát rời khỏi khu vực rào chắn và mất hút về phía tây xuôi theo
đường 112, Garrett và Sachs chạy đến cuối đường Kênh Đào, băng ngang qua quốc
lộ.
Họ đi men
xung quanh hai hiện trường vụ án ở Bến tàu kênh Nước đen, sau đó rẽ trái, vội
vã đi xuyên các bụi rậm và một cánh rừng sồi, bám theo sông Paquenoke.
Đi sâu vào
rừng nửa dặm, họ gặp phụ lưu sông Paquo. Không thể đi vòng qua được, mà Sachs
thì không thích thú gì việc bơi dưới dòng nước tối thẫm, điểm những con côn
trùng và rác rến.
Nhưng
Garrett đã có sự thu xếp khác. Gã giơ đôi bàn tay bị còng chỉ một chỗ trên bờ.
“Con thuyền.”
“Thuyền à?
Đâu?”
“Kia,
kia.” Garrett lại chỉ.
Sachs nheo
mắt nhìn, cố gắng lắm mới thấy hình dáng một con thuyền nhỏ. Nó được ngụy trang
bằng các bụi rậm và lá cây. Gã bước tới, xoay sở hết mức với đôi bàn tay bị
còng, bắt đầu gỡ các thứ che giấu con thuyền ra. Sachs giúp đỡ gã.
“Lớp ngụy
trang,” Garrett tự hào nói. “Tôi học từ lũ sâu bọ. Có một giống châu chấu nhỏ ở
Pháp – gọi là truxalis. Giống này cực kỳ hay – mỗi mùa hè chúng thay đổi màu ba
lần cho phù hợp với các màu xanh của cỏ. Bọn săn mồi hầu như không trông thấy
chúng được.”
Chà, Sachs
cũng sử dụng đến thứ kiến thức bí truyền về côn trùng của gã trai. Khi Garrett
nhận xét về những con bướm đêm – về khả năng cảm nhận các tín hiệu điện tử và
radio của chúng – cô nhận ra rằng Rhyme tất nhiên đã sử dụng thiết bị định vị
đối với chiếc điện thoại di động của cô. Cô nhớ lại lúc sáng gọi tới công ty
cho thuê xe Piedmont – Carolia cô phải chờ máy rất lâu. Thế nên cô liền lẻn vào
bãi đỗ xe của Công ty Davett, gọi tới cái công ty cho thuê xe kia và luồn chiếc
điện thoại, đang đổ đoạn nhạc lê thê của Muzak, vào phía sau chiếc xe tải cỡ
nhỏ không người lái, vẫn để nổ máy, đỗ đằng trước lối vào dành cho nhân viên.
Mánh khóe đó
rõ ràng đã có tác dụng. Tốp cảnh sát xuất phát đuổi theo chiếc xe tải khi nó
rời khỏi khu vực nhà máy.
Trong lúc
gỡ lớp ngụy trang, Sachs hỏi: “Chất amomnia? Và cái hố bỏ tổ ong bắp cày? Cậu
cũng học từ lũ côn trùng hả?”
“Vâng,”
Garrett nói.
“Cậu không
định làm hại ai cả, phải không?”
“Không,
không, cái hố bắt chước loài kiến sư tử chỉ để dọa các người thôi, để các người
đi chậm lại. Vì thế tôi đã bỏ một chiếc tổ không vào. Chai ammonia là để cảnh
báo sớm đối với chúng.” Cặp mắt đỏ quạch, ướt nhoèn của Garrett lấp lánh ánh
ngưỡng mộ lạ lùng. “Thật thú vị, việc cô đã làm ấy, tìm thấy tôi tại cối xay.
Tôi, nói chung, không bao giờ nghĩ cô lại đến đó nhanh vậy.”
“Và cậu bố
trí những chứng cứ giả trong cối xay – tấm bản đồ và chỗ cát – để chúng tôi bị
lạc hướng.”
“Vâng, tôi
đã bảo cô – côn trùng khôn khéo lắm. Chúng bắt buộc phải khôn khéo.”
Họ gỡ xong
lớp ngụy trang của con thuyền trông xạc xài. Nó được sơn màu xám sẫm, dài chừng
mười feet và có một động cơ nhỏ gắn bên ngoài thân. Trong lòng thuyền là chục
chai nhựa dung tích một ga lông đựng nước suối và một hộp giữ lạnh. Sachs mở
một chai nước, uống luôn mươi ngụm đầy. Cô đưa cái chai cho Garrett và gã cũng
uống. Rồi gã mở hộp giữ lạnh. Bên trong là các gói bích quy và khoai tây chiên.
Gã xem xét chúng kỹ lưỡng để chắc chắn rằng chúng vẫn còn đầy đủ và không bị hư
hỏng. Gã gật đầu, rồi trèo vào trong thuyền.
Sachs trèo
vào theo, ngồi quay lưng về phía mũi thuyền, đối diện Garrett. Gã nhoẻn nụ cười
hiểu biết, y như thể nhận ra là cô chưa đủ tin tưởng để ngồi quay lưng lại với
gã. Gã giật sợi dây khởi động máy. Máy thuyền khục khặc chạy. Gả đẩy con thuyền
rời khỏi bờ và, giống như những cậu Huck Finn[35] hiện
đại, họ bắt đầu xuôi theo sông.
[35] Nhân
vật chính trong tiểu thuyết Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn của Mark
Twain.
Sachs ngẫm
nghĩ: Đây là cuộc đấu tay đôi.
Một câu mà
cha cô trước đây hay dùng. Người đàn ông gọn ghẽ, tóc bắt đầu thưa, phần lớn
đời mình làm một cảnh sát tuần tra khu vực ở Brooklyn và Mahattan, từng có buổi
trò chuyện nghiêm túc với cô con gái khi cô bảo ông là cô muốn bỏ nghề người
mẫu để tham gia vào lực lượng cảnh sát. Ông hết sức ủng hộ quyết định đó nhưng
đã nói về nghề cảnh sát như thế này: “Amie, con phải hiểu rằng: đôi khi con cần
xông lên, đôi khi con cần tạo ra ảnh hưởng, đôi khi con sẽ có cảm giác tẻ nhạt.
Và đôi khi, không quá thường xuyên đâu, ơn Chúa, nó là cuộc đấu tay đôi. Nắm
đấm đọ nắm đấm. Con hoàn toàn đơn độc, chẳng có ai giúp đỡ con. Và ý cha là
không chỉ chiến đấu với các đối tượng. Đôi khi con sẽ phải chiến đấu với các
sếp của con. Đôi khi lại với sếp của họ. Con có thể chiến đấu với
cả bạn bè nữa. Con định trở thành một cảnh sát, con hãy sẵn sàng đơn thương độc
mã. Không được né tránh.”
“Con có
thể đương đầu mà cha.”
“Đúng là
con gái tôi. Cha con mình lái xe đi đâu nhé, con gái.”
Ngồi trên
thuyền ọp ẹp này, được điều khiển bởi một thằng bé mới lớn nguy hiểm, Sachs
chưa bao giờ cảm thấy cô đơn đến thế trong cuộc đời.
Cuộc đấu tay đôi… nắm đấm đọ nắm đấm.
“Nhìn đằng
kia,” Garrett nói nhanh. Gã chỉ một con côn trùng gì đó. “Nó là loài tôi ưa
thích nhất đấy. Bọ gạo. Nó bay trong nước.” Khuôn mặt gã sáng lên ánh nhiệt
tình không kiềm chế được. “Nó thực sự bay trong nước! Này, khá thú vị, phải
không? Bay trong nước ấy. Tôi thích nước. Nước làm da tôi thấy dễ chịu.” Nụ
cười tắt dần và gã chà xát cánh tay. “Cái giống sồi độc chết tiệt này… Tôi lúc
nào cũng bị nó quệt vào. Đôi lúc ngứa kinh khủng.”
Họ bắt đầu
luồn lách qua các vịnh nhỏ, vòng xung quanh các hòn đảo, các chùm rễ cây, các
thân cây xám xịt ngập phân nửa, rồi luôn luôn quay lại với hành trình về phía
tây, về phía mặt trời đang lặn.
Một ý nghĩ
xuất hiện trong đầu óc Sachs, tiếng vọng của một ý nghĩ đã xuất hiện trong cô
từ lúc trước, trong phòng giam gã trai ngay trước khi cô giải cứu gã: với việc
giấu một chiếc thuyền chất đầy thực phẩm dự trữ, nạp nhiên liệu sẵn sàng,
Garrett đã dự tính rằng bằng cách này hay cách khác gã sẽ vượt ngục. Và vai trò
của cô trong chuyến đi này là một phần của kế hoạch tinh vi đã dự tính đó.
“Dù em nghĩ về Garrett như thế nào, cũng đừng tin tưởng
hắn. Em nghĩ hắn vô tội. Nhưng cũng hãy chấp nhận là hắn có thể có tội. Em biết
chúng ta vẫn tiếp cận các hiện trường vụ án như thế nào, Sachs.”
“Với một tư duy mở. Không định kiến. Tin tưởng rằng mọi
cái đều có thể.”
Nhưng rồi
Sachs lại nhìn gã trai. Cặp mắt gã sáng rỡ, hạnh phút lướt qua hết cảnh vật này
tới cảnh vật khác trong lúc điều khiển thuyền đi xuyên các con kênh, trông
không giống chút nào một kẻ phạm tội vượt ngục mà y như thể một thiếu niên phấn
chấn tham gia chuyến cắm trại, sung sướng và hào hứng trước những gì mình sẽ có
thể khám phá sau mỗi khúc quanh của sông.
“Chị ta
giỏi đấy, Lincoln,” Ben nói, ám chỉ mánh khóe sử dụng chiếc điện thoại di động.
Cô
ấy đúng là giỏi, Lincoln nghĩ thầm. Rồi anh tự nói thêm với
bản thân mình: cô ấy giỏi chẳng kém tôi. Tuy nhiên anh phải nghiêm khắc thừa
nhận - cũng riêng với bản thân mình thôi - rằng lần này thì cô đã giỏi
hơn anh.
Rhyme điên
tiết với chính mình vì đã không dự tính trước điều ấy. Đây đâu phải một cuộc
chơi, anh tự nhủ, đâu phải một bài tập - như cái cách anh đôi lúc vẫn thử thách
Sachs khi cô đang tiến hành khám nghiệm hiện trường hay khi họ đang phân tích
các chứng cứ trong la-bô của anh ở New York. Tính mạng cô đang gặp nguy hiểm.
Thời gian trước khi Garrett cưỡng hiếp hoặc sát hại cô chỉ còn tính bằng tiếng
đồng hồ. Anh không thể lại phạm sai lầm lần nữa.
Một cảnh
sát xuất hiện trên ngưỡng cửa, xách chiếc túi giấy đựng hàng của chuỗi cửa hiệu
Food Lion. Nó đựng quần áo của Garrett để ở khu tạm giam.
“Tốt,”
Rhyme nói. “Lập bảng đi, một người nào đấy. Thom, Ben… lập bảng đi. “Tìm
thấy tại hiện trường gián tiếp – cối xay.” Ben viết đi, viết đi!”
“Nhưng chúng ta lập rồi mà.”
Ben chỉ tấm bảng.
“Không, không, không,” Rhyme
quát. “Xóa hết đi. Các chứng cứ đó là giả. Garrett đã bố trí để
đánh lạc hướng chúng ta. Giống hệt chỗ đá vôi trong chiếc giày hắn bỏ lại khi
bắt cóc Lydia. Nếu chúng ta có thể tìm thấy chứng cứ trong quần áo của hắn -
anh hất đầu chỉ cái túi – chúng ta sẽ biết Mary Beth thực sự đang ở đâu.”
“Nếu chúng ta may mắn,” Bell
nói.
Không phải may mắn, Rhyme nghĩ
thầm, mà là nếu chúng ta giỏi. Anh bảo Ben: “Cắt một đoạn của chiếc quần – đoạn
gần gấu – và chạy qua máy tách hợp chất.”
Bell bước ra khỏi văn phòng, để
nói với Steve Farr về việc xin tần số ưu tiên cho các máy bộ đàm mà không phải
tiết lộ với cảnh sát bang những gì đang diễn ra, Rhyme đã khăng khăng đề nghị
điều này.
Bây giờ thì nhà hình sự học và
Ben cùng chờ đợi kết quả từ máy tách hợp chất. Trong lúc chờ đợi, Rhyme hỏi: “Chúng
ta có gì nữa?” Anh hất đầu chỉ đống quần áo.
“Các vết sơn màu nâu dây trên
quần của Garrett.” Ben vừa xem xét vừa báo cáo. “Màu nâu sẫm. Trông còn mới.”
“Màu mâu,” Rhyme nhắc lại và
kiểm tra chúng. “Nhà của cha mẹ Garrett sơn màu gì?”
“Tôi không biết,” Ben đáp.
“Tôi đâu có nghĩ cậu
là cái kho chứa thông tin vớ vẩn của Tanner’s Corner,” Rhyme lẩm bẩm. “Tôi muốn
nói: Hãy gọi điện hỏi họ.”
“Ồ.” Ben tìm thấy số máy trong
hồ sơ vụ án. Anh ta nói chuyện với người nào đó một lát. “Đấy là cái đồ con
hoang chẳng muốn hợp tác gì hết… Cha nuôi của Garrett. Dù sao thì nhà họ cũng
sơn màu trắng và không có chi tiết nào sơn màu nâu sẫm.”
“Vậy, có thể nơi đang giam giữ
cô gái sơn màu này.”
Anh chàng to béo hỏi: “Liệu có
cơ sở dữ liệu nào về sơn mà chúng ta có thể đối chiếu không?”
“Ý kiến hay đấy,” Rhyme đáp.
“Nhưng câu trả lời là không. Ở New York thì tôi có, tuy nhiên nó chẳng giúp gì
cho chúng ta ở đây. Còn cơ sở dữ liệu của FBI lại về xe hơi. Nhưng hãy cứ tiếp
tục. Có gì trong túi quần, có gì không? Đi…”
Nhưng Ben đã đang đi găng tay
cao su vào rồi. “Ông định bảo việc này phải không?”
“Phải,” Rhyme lẩm bẩm.
Thom nói: “Anh ấy vốn vẫn ghét
bị đoán trước ý.”
“Thế thì tôi sẽ cố gắng đoán
trước ý thường xuyên hơn,” Ben nói. “A, có cái gì này.”
“Cái gì?”
Ben hít hít. “Phó mát và bánh
mì.”
“Lại thức ăn. Giống như chỗ
bích quy và…”
Ben cười to.
Rhyme cau mày. “Cái gì mà buồn
cười?”
“Đó là thức ăn - nhưng không
phải cho Garrett.”
“Ý cậu là
thế nào?”
“Chưa, tôi
chưa đi câu bao giờ,” Rhyme lẩm bẩm. “Nếu muốn có cá, người ta mua, người ta
nấu, người ta ăn. Câu cá thì có liên quan quái gì đến bánh sandwich nhân phó
mát hả?”
Đây không
phải từ bánh sandwich,” Ben giải thích. “Đây là những viên chua. Mồi để đi câu.
Người ta trộn bánh mì và phó mát rồi cho chúng lên men. Bọn cá ăn sát đáy rất
mê món này. Bọn cá da trơn chẳng hạn. Mùi càng chua càng tốt.”
Rhyme
nhướn lông mày. “À, bây giờ thì chi tiết ấy hữu ích đấy.”
Ben kiểm
tra phần gấu lơ-vê. Anh ta phủi một chút gì đó xuống tờ phiếu đặt mua dài hạn
tạp chí People, rồi soi dưới kính hiển vi. “Không có gì đặc biệt
lắm,” anh ta nói. “Ngoại trừ những đốm nhỏ. Màu trắng.”
“Để tôi
xem.”
Nhà động
vật học bê chiếc kính hiển vi lớn hiệu Bausch & Lomb đến cho Rhyme. Anh
nhìn vào các thị kính. “Được rồi, tốt. Chúng là các sợi giấy.”
“Thế à?” Ben
hỏi.
“Đấy hiển
nhiên là giấy. Còn có thể là gì nữa chứ? Cũng là loại hút nước. Tuy
nhiên, chẳng có manh mối nào cho thấy nguồn gốc. Bây giờ thì chỗ đất cát đó rất
đáng quan tâm. Cậu lấy thêm một ít được không? Từ phần gấu lơ-vê ấy?”
“Tôi sẽ cố
gắng.”
Ben cắt
đường khâu và mở gấu ra. Anh ta phủi thêm được một ít đất cát xuống tờ phiếu.
“Soi đi,”
Rhyme yêu cầu.
Nhà hình
sự học chuẩn bị một phiến kính và đặt nó lên bệ chiếc kính hiển vi kép mà anh
ta lại bê rất chắc hắn cho Rhyme nhìn. “Có nhiều đất sét. Tôi muốn nói là nhiều.
Đá feldspathic, có lẽ là granite. Và… cái gì thế kia? Ồ, rêu nước.”
Ben cảm
thấy rất ấn tượng. “Làm sao ông biết được tất cả những cái này?”
“Đơn giản
là tôi biết.” Rhyme không có thời gian để đi vào bàn luận việc một nhà hình sự
học phải thông thạo về thế giới vật chất như anh thông thạo ra sao. Anh hỏi:
“Trong gấu quần còn gì nữa? Cái gì kia?” Anh hất đầu chỉ cái gì đó
nằm trên tờ phiếu đặt mua tạp chí. “Cái gì bé tí màu xanh trăng trắng đấy?”
“Nó từ một
loài thực vật,” Ben nói. “Nhưng không phải chuyên môn của tôi. Tôi đã học về
thực vật dưới nước, nhưng tôi chẳng yêu thích môn này. Tôi yêu thích những dạng
sống có cơ hội chuồn đi khi người ta định sưu tầm chúng. Như thể xem chừng
thượng võ hơn.”
Rhyme ra
lệnh: “Mô tả đi.”
Ben quan
sát kỹ lưỡng bằng chiếc kính lúp. “Một cái cuống hơi đỏ có một giọt chất lỏng ở
đầu dưới. Trông nhơn nhớt. Đầu trên có một bông hoa trắng hình chuông… Nếu tôi
phải phỏng đoán thì…”
“Cậu phải
làm việc đó,” Rhyme quát. “Và khẩn trương lên.”
“Tôi khá
chắc chắn rằng nó là một nhánh gọng vó.”
“Là cái
quái quỷ gì vậy? Nghe cứ như đi bắt tôm bắt cá ấy.”
Ben nói:
“Gọng vó cũng giống cây bắt ruồi. Loài này ăn thịt côn trùng. Chúng rất tuyệt.
Thuở nhỏ, tôi từng ngồi quan sát chúng hàng tiếng đồng hồ. Cái cách chúng bắt…”
“Rất tuyệt,” Rhyme
châm biếm nhắc lại. “Tôi không quan tâm đến thói quen dùng bữa của chúng. Chúng
hay được tìm thấy ở đâu? Điều đó sẽ rất tuyệt đối
với tôi đấy.”
“Ồ, khắp
vùng này.”
Rhyme cau
có. “Vô tích sự. Mẹ kiếp. Được rồi, sau khi chạy xong mẫu vải quần hãy chạy chỗ
đất cát kia qua máy tách hợp chất.” Rồi anh nhìn chiếc áo phông của Garrett
đang trải rộng trên một cái bàn. “Những vết bẩn kia là gì?”
Có vài vết
đo đỏ bám ở chiếc áo. Ben xem xét chúng kỹ lưỡng rồi nhún vai, lắc đầu.
Đôi môi
mỏng của nhà hình sự học nở nụ cười giễu cợt. “Cậu thử nếm xem?”
Không do
dự, Ben cầm áo lên, liếm lấy một chút vết bẩn.
Rhyme kêu to: “Cậu chàng khá.”
Ben nhướn một bên lông mày.
“Tôi cho rằng đó là một bước đúng chuẩn.”
“Chẳng đời nào tôi thèm làm như
vậy đâu,” Rhyme đáp lời.
“Tôi không tin ông lấy một phút,”
Ben nói. Anh ta liếm lại. “Theo tôi phỏng đoán thì nước trái cây. Tuy nhiên
không nói được là vị gì.”
“Rồi, bổ sung vào danh sách
chứng cứ đi, Thom.” Rhyme hất đầu chỉ chiếc máy tách hợp chất. “Chúng ta hãy xem
kết quả phân tích mảnh vải quần, tiếp theo chạy chỗ đất cát lấy từ phần gấu.”
Chiếc máy nhanh chóng cho họ
biết các chất bám trên quần áo của Garrett là gì và những thứ có trong gấu quần
gã: đường, lại camhene, chất cồn, dầu hoả, men nở. Lượng dầu hỏa rất đáng kể.
Thom bổ sung chúng vào danh sách chứng cứ và mấy người đàn ông cũng xem xét kỹ
lưỡng.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN
TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Camphene
Chất cồn
Dầu hoả
Men nở
Tất cả những cái này có ý nghĩa
như thế nào? Rhyme băn khoăn tự hỏi. Quá nhiều manh mối. Anh không thể nhận ra
các mối quan hệ giữa chúng. Liệu đường là từ nước trái cây hay từ một địa điểm
riêng biệt mà gã trai từng đến? Liệu gã đã mua dầu hỏa hay gã
chỉ tình cờ trốn trong một trạm xăng hay trong một kho chứa nơi người chủ cất
dầu hoả? Chất cồn thì được tìm thấy trong ba nghìn sản phẩm gia dụng và công
nghiệp phổ biến - từ các loại dung môi tới nước thơm xoa mặt sau khi cạo râu.
Men nở chắc chắn bị dây vào tại cối xay, đó là nơi ngũ cốc được xay thành bột.
Sau vài phút, ánh mắt Lincoln
Rhyme lướt sang bảng chứng cứ khác.
* * *
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN
TIẾP - PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp gia đình
Ảnh chụp mary Beth
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hoả
Ammonia
Nitrate
Camphene
Một chi tiết nào đấy Sachs đã
đề cập tới khi cô đang khám xét phòng riêng của gã trai quay lại với Rhyme.
“Ben, cậu có thể mở cuốn vở kia
được không, cuốn vở của Garrett ấy? Tôi muốn xem nó lần nữa.”
“Ông có muốn tôi đặt vào thiết
bị lật trang không?”
“Không, cứ lật bằng tay thôi,”
Rhyme bảo.
Các bức vẽ côn trùng cứng nhắc
của gã trai được lật nhanh qua: bọ gạo, nhện nước, gọng vó.
Rhyme nhớ Sachs đã bảo anh
rằng, ngoại trừ chiếc lọ đựng ong bắp cày – cái két an toàn của Garrett – tất
cả các loài côn trùng trong bộ sưu tập của gã đều được nuôi trong những chiếc
lọ đựng nước. “Tất cả bọn chúng đều là các loài thuỷ sinh.”
Ben gật đầu. “Có vẻ thế.”
“Hắn bị nước thu hút,” Rhyme
trầm ngăm. Anh nhìn Ben. “Và loại đầu mối câu đó? Cậu nói nó dùng để câu bọn cá
ăn sát đáy à?”
“Viên chua ạ? Phải rồi.”
“Nước mặn hay nước ngọt?”
“Chà, nước ngọt. Tất nhiên
rồi.”
“Và dầu hỏa – thuyền cũng chạy
bằng dầu hoả, đúng không nhỉ?”
“Nhiên liệu đốt đèn,” Ben trả
lời. “Loại thuyền nhỏ gắn động cơ bên ngoài thân vốn vẫn sử dụng nó.”
Rhyme nói: “Nếu suy nghĩ tới
điều này thì thế nào nhỉ? Phải chăng hắn đang đi về phía tây bằng thuyền trên
sông Paquenoke?”
Ben nói: “Có lý đấy, ông
Lincoln. Và tôi cuộc rằng lượng dầu hỏa nhiều vậy vì hắn đã nạp lại nhiên liệu
nhiều lần – phải chạy qua chạy lại giữa Tanner’s Corner và nơi hắn giữ Mary
beth. Chuẩn bị sẵn sàng các thứ cho cô ấy.”
“Tư duy tốt đấy. Gọi Jim Bell
vào đây, được không?”
Vài phút sau, Bell quay lại và
Rhyme trình bày giả thuyết cảu anh.
Bell nói: “Những con bọ dưới
nước đem đến cho anh cái ý tưởng ấy đấy hả?”
Rhyme gật đầu. “Nếu chúng ta
biết về côn trùng, chúng ta sẽ biết về Garrett.”
“Nó chẳng điên rồ hơn những
điều khác tôi đã nghe ngày hôm nay,” Jim Bell nói.
Rhyme hỏi: “Các anh có thuyền
cảnh sát không?”
“Không. Nhưng dù sao thì nó
cũng không hữu ích gì cho chúng ta đâu. Anh không biết sông Paquo. Trên bản đồ
nó trông giống như bất cứ con sông nào – cũng có hai bờ, cũng có cái nọ cái
kia, đủ cả. tuy nhiên nó còn có đến nghìn cái vịnh nhỏ và sông nhánh nối các
đầm lầy. Nếu Garrett đi theo sông Paquo hắn sẽ không đi theo dòng chảy chính,
tôi đảm bảo với anh điều này. Sẽ chẳng tài nào tìm thấy hắn được.”
Ánh mắt Rhyme đưa theo sông
Paquenoke về phía tây. “Nếu hắn đã vận chuyển các đồ dự trữ tới địa điểm giữ
Mary Beth thì nghĩa là chỗ đó có lẽ không quá xa con sông. Hắn sẽ phải đi về
phía tây bao xa để tới khu vực ở được?”
“Phải xa đấy. Thấy khu vực trên
kia không?” Bell đặt tay vào khu vực xung quanh ô G-7. “Đó là phía bắc sông
Paquo, không ai sinh sống ở đó cả. Phía nam con sông thì khá đông dân cư. Hắn
chắc chắn sẽ bị phát hiện.”
“Vậy ít nhất phải chừng mười
dặm về phía tây?”
“Anh đúng đấy,” Bell nói.
“Cái cầu kia?” Rhyme hất đầu
chỉ tấm bản đồ. Anh đang nhìn ô E-8.
“Cầu Hobeth ấy à?”
“Dốc lên cầu như thế nào? Chính
là một đoạn quốc lộ?”
“Xung quanh toàn bãi rác. Nhưng
cầu cao chừng bốn mươi feet nên dốc lên cầu dài. Ồ, hẵng khoan… Anh đang cho
rằng Garrett sẽ phải quay lại dòng chảy chính để đi qua phía dưới cầu?”
“Đúng. Vì các kỹ sư hẳn đã lấp
những nhánh sông nhỏ tỏa ra hai bên khi họ xây dựng dốc lên cầu.”
Bell gật đầu. “Ờ. Tôi hiểu
rồi.”
“Cử Lucy và những người khác
tới đó bây giờ đi. Tới chỗ cái cầu. Và, Ben này, hãy gọi cho nhân vật kia –
Henry Davett. Bảo rằng chúng ta lấy làm tiếc lại cần đến sự giúp đỡ của ông ta.”
Chúa sẽ làm gì…
Một lần nữa nghĩ tới Davett,
Rhyme thầm nhẩm một lời cầu nguyện – tuy nó không nhắm đến bất cứ vị thần nào.
Nó nhắm đến Amelia Sachs: Ôi, Sachs, hãy cẩn thận. Chỉ còn là vấn đề thời gian,
sớm muộn gì Garrett cũng sẽ có cớ xin em tháo còng cho hắn. Rồi dẫn em tới nơi
nào đó hoang vắng. Rồi tìm cách cướp súng của em… Đừng để những tiếng đồng hồ
đang trôi qua ru em vào sự tin tưởng hắn, Sachs ạ. Đừng mất cảnh giác. Hắn có
độ kiên nhẫn của loài bọ ngựa đấy.