13 vụ án - Chương 07 - Phần 1
7
HOA PHONG LỮ
THẢO MÀU XANH
“Nhớ lại năm rồi tôi
đã đến đây...” Ngài Henry
Clithering nói tới đó rồi ngưng.
Bà Bantry - chủ quán trọ - nhìn ông với vẻ
lạ lùng.
Ngài cựu cảnh sát trưởng Scotland Yard
đang ở thăm mấy người bạn cũ, ông đại tá và bà Bantry, tại quê nhà ở ST. Mary
Mead.
Bà Bantry tay cầm bút muốn hỏi ông cho
biết ý kiến nên mời ai cho đủ sáu người cho bữa ăn tối nay.
“Ông nói sao?” Bà Bantry có vẻ hớn hở. “Năm
trước ông tới đây vào lúc nào?”
“Bà có thể cho tôi biết,” ngài Henry nói,
“bà có nghe ai nói tên bà Marple chưa?”
Bà Bantry ngạc nhiên.
“Bà Marple! Ai mà không biết! Một văn sĩ
viết chuyện trinh thám. Có phải ông muốn tôi mời bà ta tới đây dùng bữa tối?”
“Bà ngạc nhiên lắm sao?”
“Hình như vậy, thật tình. Tôi cứ nghĩ là
ông... nhưng phải nói làm sao đây?”
“Dễ thôi. Nhớ lại năm trước mỗi lần tới
đây bọn tôi thường bàn những câu chuyện chưa rõ hồi cuối... bọn tôi sáu thành
viên... người trước tiên phải nhắc đến là anh chàng Raymond nhà văn. Bọn tôi
mỗi người đưa ra một câu chuyện đã biết trước hồi cuối, còn mấy người kia thì
chịu. Có thể nói đây là dịp để thử tài suy luận. Coi ai đoán gần đúng nhất.”
“Rồi sao nữa?”
“Y như chuyện cổ tích. Bọn tôi khó đoán ra
bà Marple sắm vai nào, nhưng câu chuyện phải biết giữ phép lịch sự... tránh xúc
phạm tình cảm riêng tư. Để thử coi tài ai hơn. Lần nào bà ta cũng vượt lên
trước bọn tôi.”
“Sao?”
“Tôi cam đoan... là mình thành thật như
chim bồ câu hiền lành.”
“Sao hay quá vậy! Vì bà Marple có bao giờ
đi xa khỏi vùng St. Mary Mead đâu.”
“Chà! Vậy mà với bà ta đó là cơ hội ngàn
vàng để được chiêm nghiệm nhân tình thế thái... qua lăng kính hiển vi.”
“Tôi cho là còn vấn đề gì đó,” bà Banrey
thú thật. “Ta phải nhìn cho rõ bản chất của từng con người. Tôi thì cho là trong nội bộ chúng ta đây
không có ai là kẻ phạm tội. Để chờ sau bữa ăn chúng ta sẽ thử tài năng của bà
ấy qua chuyện ma quái của ông Arthur. Tôi phải cúi đầu khâm phục nếu bà ta tìm
ra được lời giải đáp.”
“Tôi không hiểu sao ông Arthur tin là có
ma?”
“Chà! ông
thì không tin. Thế nên ông mới lo chuyện xảy ra với một người bạn, ông George
Pritchard... một người rất là phàm tục. Thật đáng thương cho ông George. Hoặc
giả là câu chuyện là có thật - nếu không phải thì...”
“Thì sao?”
Bà Bantry không nói ra. Ngẫm nghĩ một hồi
bà đáp lại một cách vu vơ:
“Ông biết không, tôi thích anh chàng
George... mọi người đều thích. Khó có thể tin anh chàng... nhưng mà người ta cứ
cho là vậy mới lạ chứ.”
Ngài Henry gật. Ông còn biết rõ hơn cả bà
Bantry chuyện kỳ lạ đó.
Tối hôm đó bà Bantry ngồi nhìn quanh bàn
ăn, bà khẽ rùng mình vì không khí lạnh lẽo, rồi dừng lại ngay chỗ một bà lão
ngồi bên phải chồng bà. Bà Marple đeo găng tay đen, trên vai khoác khăn choàng
thêu đăng ten trông cũ kỹ, đầu trùm thêm một cái khăn che bớt mái tóc bạc trắng.
Bà vui vẻ trò chuyện với ông bác sĩ Lloyd chuyện thiếu hụt y tá giúp việc.
Bà Bantry lại càng ngạc nhiên hơn. Hay là
ngài Henry muốn nói đùa, nhưng làm gì có chuyện đó. Bà thấy ngạc nhiên là phải.
Bà nhìn qua người chồng mặt mũi hồng hào,
vai rộng, rắn chắc đang bàn chuyện đua ngựa với người đẹp - nữ nghệ sĩ Jane
Helier. Ngoài đời trông Jane còn đẹp hơn lúc trên sân khấu, đôi mắt xanh tròn
xoe khẽ chớp từng hồi: “Vậy à?” “Chà lạ thật!” “Chuyện lạ.” Bà chả thích gì môn
đua ngựa, nên chẳng quan tâm làm gì.
“Arthur,” bà Bantry lên tiếng, “ông lại
làm phiền cô Jane. Gác chuyện đua ngựa qua một bên, ông kể cho cô ấy nghe
chuyện ma đi. Ông biết đấy... George Pritchard.”
“Ô kìa, Dolly! Chà, nhưng mà tôi có biết
gì đâu...”
“Ngài Henry đây cũng thích được nghe. Sáng
nay tôi có kể sơ qua. Cũng nên biết, bởi mọi người đang bàn tán.”
“Chà, kể
đi!” Jane nói, “tôi thích nghe chuyện ma.”
“Thôi thì...” Đại tá Bantry gầm gừ, “nói
thật tôi không tin mấy cái chuyện thần linh. Nhưng đây...”
“Chắc quý vị đây chưa ai biết George
Pritchard. Ông là một người đàn ông gương mẫu. Vợ ông ta... ờ, bà ấy chết rồi,
tội nghiệp. Như thế này, lúc còn sống không lúc nào bà để cho George được yên. Có
thể xếp bà vô hàng những đối tượng gàn dở... có thể do người bà không được lành
mạnh. Những việc bà làm đều tệ hại. Bà có tính hay giở chứng, bắt bẻ phi lý. Suốt
ngày luôn mồm than vãn, càu nhàu từ a đến z, làm không xong bị chửi. Nếu gặp
người khác, nói cam đoan bà bị ăn đòn nhừ tử. Ô kìa, Dolly, nói vậy đúng không?”
“Bà ấy thật là quá tay, bà Bantry nói
không sai. Nếu lỡ George Pritchard đập cho một búa vỡ đầu, ra tòa nếu gặp quan
xử án là một phụ nữ chắc là ông ta cũng được xử trắng án.”
“Tôi không rõ câu chuyện xảy ra làm sao. George
không còn nhớ đầu đuôi. Theo tôi nghĩ bà Pritchard thích xem tướng số, chỉ tay,
bói toán... đại loại mấy món đó. Nhưng George không để ý. Nếu hôm nào bói trúng
bà vui ra mặt. Còn ông chẳng thấy vui chút nào, khổ thế đấy.”
“Nhà lúc nào cũng có y tá đến chăm sóc,
được vài tuần bà Pritchard thấy không hài lòng. Trong số đó có một cô y tá trẻ
tuổi rành chuyện bói toán, bà Pritchard thích nói chuyện với cô ta. Bỗng đâu
một thời gian bà không thích, yêu cầu cô ta ra về. Bà nhớ lại trước có một bà y
tá biết chăm sóc bệnh nhân tâm thần. Bà y tá Copling được ông George khen làm
việc khá và là một người biết nói chuyện. Bà biết chịu đựng những lúc bà
Pritchard nổi cơn điên, với một thái độ dửng dưng.”
“Bà Pritchard ăn cơm trên lầu, George và
mấy y tá ăn cơm trễ lúc xế trưa. Hết phiên y tá ra về từ hai đến bốn giờ, nếu ‘cần
giữ lại’ bà sẽ gặp sau buổi uống trà nếu George muốn được thong thả giấc buổi
chiều. Nhằm bữa đó, bà đi thăm người em gái ở Golders Green về trễ. George nhăn
nhó hỏi vì ông chuẩn bị đi chơi golf. Cô y tá Copling phải nói cho ông yên tâm.
“Tôi với ông chẳng ai muốn nhắc tới đâu,
ông Pritchard,” bà nháy mắt nói, “bà Pritchard sắp có bạn tâm sự, vui hơn là
nói chuyện với chúng ta nữa đó.”
“Ai vậy?”
“Ông sẽ biết ngay,” cô y tá Copling mắt
nháy nháy. “Để tôi kể cho nghe, Zarida, nhà tâm lý đoán được tương lai.”
“Lạy Chúa!” George lầm bầm. “Nhân vật này
mới, phải không?”
“Mới tinh! Tôi biết mà, người này do người
tiền nhiệm của tôi, bà Carstairs, giới thiệu tới đây. Bà Pritchard chưa biết
mặt, nhờ tôi viết thư hẹn gặp nhau chiều nay.”
“Thây kệ, tôi còn đi chơi golf.” George
nói, nghĩ bụng thấy hài lòng chuyện Zarida, nhà tâm lý đoán được tương lai.
Về tới nhà ông nhìn bà Pritchard, thấy
gương mặt hốc hác dễ sợ. Bà nằm một chỗ trên giường tay cầm ống thuốc muối lâu
lâu đưa lên mũi hít.
“George,” bà kêu, “tôi đã nói với ông về
cái nhà này, nhớ không? Vừa mới về ở tôi đã thấy không ổn! Ông còn nhớ lúc đó
tôi nói gì chứ?”
Cố dằn xuống ông mới nói: “Bà nói lúc nào
cũng đúng.” George đáp, “không, hình như tôi không nhớ nữa.”
“Chuyện của tôi có bao giờ ông còn nhớ. Mấy
ông lúc nào cũng dửng dưng... Tôi biết ông còn vô cảm hơn gấp mấy lần người ta.”
“Coi kìa, Mary, bà nói gì lạ vậy.”
“Ôi, tôi đã kể cho ông nghe, bà ta biết
hết. Bà ta... bà giật mình thụt lùi... ông hiểu ý tôi mà... ngay khi vừa mới
bước tới cửa bà ta cất tiếng. “Nhà này có ma ám... ma quỷ phá phách. Tôi biết
mà.”
George nghĩ sao bỗng phá ra cười.
“Chà, chiều nay bà bỏ tiền ra cũng xứng
đáng đấy chứ.”
“Bà vợ nhắm mắt lại đưa ống muối lên mũi
hít một hơi thật lâu.”
“Ông ghét tôi lắm mà! Tôi có chết ông còn
cười nhạo thêm.”
Bà còn nói nữa làm George giận dữ hơn.
“Ông cứ cười đi, tôi đã kể hết cho ông
nghe mọi chuyện. Nhà này tôi ở không hợp... bà thầy bói đã chỉ cho tôi thấy.”
George đã đổi ý không còn khâm phục Zarida.
Bởi vợ ông nằng nặc đòi chuyển nhà qua mới, bà trở chứng.
“Bà nọ còn nói gì nữa không?” Ông hỏi.
“Bà ta không nói dài dòng, bà ta cảm thấy
lo lắng chỉ nói một câu. Tôi có mấy cành hoa violet cắm trong bình.” Bà chỉ
chúng và hét lên:
“Vứt mấy cái này đi. Đừng chọn hoa màu
xanh, không nên mua hoa màu xanh. Hoa màu xanh là màu tang tóc, bà nhớ cho.”
“Ông biết không,” bà Pritchard nhắc lại,
“trước kia tôi đã nói với ông tôi kỵ màu xanh, tôi dị ứng với màu này.”
“George thừa hiểu bà có nói ra chuyện đó
bao giờ, ông xoay qua hỏi Zarida người ra sao. Bà Pritchard nhanh miệng tả lại
diện mạo người đàn bà nọ.”
“Tóc đen uốn từng lọn hai bên mang tai... mắt
lúc nào cũng khép hờ... thâm quầng... hai bên khóe miệng, dưới cằm thâm đen,
giọng nói nghe như chim hót thấy lạ tai... nghe như nói tiếng Tây Ban Nha...”
“Chẳng qua đó là ngón
nghề của bà ta.” George vui miệng nói.
“Bà vợ nghe được tức
thì nhắm mắt lại?”
“Tôi thấy ê ẩm trong
người,” bà nói. “Gọi y tá. Bất nhẫn làm tôi khó ở, ông dư biết.”
“Hai bữa sau cô y tá
Copling tới gặp George, mặt mũi cô sa sầm.”
“Xin ông lên gặp bà
Pritchard. Mới nhận được thư không hiểu sao bà lại bối rối...”
“Bà Prichard đang cầm
cái thư trên tay, thấy ông bước vô bà chìa ra!”
“Ông coi đi.” Bà nói.
George cầm lấy đọc. Mùi
giấy thơm nồng nàn nét chữ to viết bằng mực đen.
“Ta đã đoán được
tương lai. Hãy cảnh giác, kẻo không thì ân hận. Đề phòng đêm trăng tròn. Màu
xanh hoa anh thảo phải lo đề phòng, hoa thục quỳ xanh là
điềm xấu, hoa phong lữ thảo màu xanh là điềm chết chóc...”
Geoge vừa tính há
miệng ra cười nhưng bà y tá Copling trừng mắt nhìn, có ý trách móc. Ông nói
xẵng một câu: “Mary, người đàn bà nọ muốn hù dọa. Bởi làm gì có hoa thục quỳ
màu xanh hay phong lữ thảo màu xanh.”
“Chợt bà Pritchard khóc to. Mạng sống của
bà được tính từng ngày, gần xuống lỗ. Cô y tá Copling chạy theo George ra tới
đầu cầu thang.”
“Đồ vớ vẩn,” ông buột miệng nói ra.
“Đúng quá còn gì nữa.”