13 vụ án - Chương 06
6
DẤU TAY THÁNH PIERRE
“Tới đây thưa dì
Jane, xin nhường lại dì.” Raymond West nói.
“Hay lắm, dì Jane,
chúng tôi đang chờ một câu chuyện thú vị hơn,” Joyce Lemprière nói xem vô.
“Khỏi phải nói, các
cháu muốn cười dì,” bà Marple thong thả nói. “Các cháu tưởng đâu dì ngồi một
chỗ thế này không biết gì chuyện trên đời.”
“Lạy Trời, làm gì có
chuyện sống ở quê mà yên tĩnh được đâu.” Raymond hăng hái nói. “Cũng không phải
sao, khi nghe dì kể mấy chuyện động trời? Sống nơi đô hội nhiều khi thấy dễ
chịu thanh bình hơn ở St. Mary Mead.”
“Này, nghe đây,” bà
Marple nói, “Con người ta ở đâu cũng vậy thôi, nhưng đi ra ngoài còn có cơ hội
biết đó biết đây hơn những nơi xa xôi ở làng quê.”
“Dì Jane có một không
hai,” Joyce kêu lên. “Bỏ lỗi cho cháu nếu gọi bà là dì Jane được chứ?” Nàng
nhắc lại. “Không hiểu sao cháu thích gọi vậy.”
“Ồ, vậy sao?” Bà
Marple nói.
Bà ngước nhìn một lúc
lâu có vẻ lạ lắm, khiến cô nàng kia mặt mũi đỏ bừng. Raymond West ngồi nhích
qua một bên đằng hắng lấy giọng, có vẻ xúc động.
Bà Marple nhìn qua
hai người rồi lại cười, bà cúi xuống chăm chú nhìn theo mũi đan.
“Thật tình cuộc sống
của tôi thầm lặng nhưng tôi biết cách giải quyết những việc nhỏ nhặt. Coi vậy
lắm lúc cũng rắc rối, tôi thấy nói ra đây không hay bởi chẳng có gì đáng phải
lưu ý... Đại loại như: Ai cắt lớp
lưới bao túi xách của bà Jone? Và sao bà Sims chỉ mặc áo lông mới toanh một lần
rồi bỏ... Đó là những bài học lý thú cho sinh viên khoa nhân văn. Nhưng một câu
chuyện tôi còn nhớ mãi mà các bạn cần phải học hỏi, đó là chuyện chồng của đứa
cháu gái Mabel đáng thương.”
“Câu chuyện đã mười,
mười lăm năm gì đó, may thay đã trôi qua êm xuôi và không ai muốn nhớ lại. Trí
nhớ người ta có hạn. Đó là điều mà tôi vẫn cho là vậy.”
Bà Marple dừng lại,
nói lầm bầm trong miệng.
“Để coi đếm lại hàng
này. Chỗ này đan thưa hơi xấu. Một, hai, ba, bốn, năm rồi tới ba mũi viền tua. Nào
tôi vừa kể tới đâu? Tôi đang nói đến chuyện gì vậy? À, về chuyện con bé Mabel tội nghiệp.”
“Con Mabel là cháu
tôi. Nó xinh đẹp, phải nói là đẹp thật, có điều như người ta thường nói nó hơi
ngớ ngẩn một chút. Mỗi khi gặp chuyện không vừa ý là kể lể. Nó lấy ông Denman
lúc hai mươi hai tuổi, cuộc hôn nhân không được hạnh phúc cho lắm. Tôi lo đừng
xảy ra chuyện gì bởi tính ông Denman hay nổi cáu... Không phải người biết thông
cảm cho con Mabel có nhiều tật xấu... hơn nữa tôi được biết nhà ông ta có tiền
sử bệnh tâm thần. Con gái thời đó khó bảo hơn bây giờ, nhưng nói gì nó vẫn vậy.
Mabel cương quyết lấy ông ta.”
“Từ lúc có chồng ít
khi gặp lại nó. Thỉnh thoảng nó có ghé lại nhà chơi, có lúc mời tôi qua nhà,
nhưng mà nói thật tôi không quen ở chỗ lạ nên lấy cớ thoái thác. Lấy nhau được
mười năm thì ông Denman chết đột ngột. Hai người không có con, tài sản để lại
cho Mabel. Tôi viết thư an ủi Mabel, và khi nhận được trả lời, tôi vỡ lẽ nó
không lấy làm buồn vì chuyện đó. Tôi biết chuyện phải vậy thôi bởi hai bên có
một thời gian lục đục, cơm chẳng lành canh chẳng ngọt. Tới gần ba tháng sau tôi
nhận được thư Mabel, lúc này nó đang suy sụp, nhắn tôi tới thăm. Tình hình thật
bi đát vô cùng, chắc khó qua nổi tháng này?”
“Thế là...” bà Marple
kể tiếp, “tôi lo thu xếp mọi việc ra đi ngay. Tới nơi nhìn Mabel thật thảm
thương. Nhà cửa rộng rãi, đồ đạc đủ tiện nghi. Nhà có người nấu ăn, người hầu,
một cô y tá lo chăm sóc ông lão Denman, cha chồng của Mabel, mang chứng bệnh ‘đầu
óc không bình thường’. Dù mọi người đối xử tử tế nhưng có lúc ông lão lại giở
chứng. Như tôi đã kể, nhà này có tiền sử bệnh thần kinh.”
“Gặp lại Mabel nó
thay đổi khác xưa làm tôi hoảng. Nó lăn lộn, tinh thần khủng hoảng đến nỗi
không nói cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra. Tôi nghĩ cách sẽ hỏi thăm thử bạn
bè còn lui tới đây - như nhà Gallaghers thường được nhắc trong thư. Tôi lấy làm
ngạc nhiên khi nghe nó nói dạo này ít gặp họ. Hỏi qua số bạn bè khác cũng trong
tình trạng tương tự. Tôi hỏi chuyện gì xảy ra, vì sao nó lại giam mình một chỗ,
xa lánh bạn bè. Nghe tới đây nó mới chịu kể ra hết.”
“Không phải
lỗi tại con, tại người ta. Quanh đây không ai muốn nói chuyện với con, con đi
ra phố gặp ai cũng muốn xa lánh, sợ gặp mặt phải chào hỏi. Tránh như tránh xa
bệnh hủi. Khiếp quá, con không chịu nổi, muốn bán nhà qua xứ khác ở. Mà sao con
phải bỏ xứ ra đi? Con không có tội tình gì.”
“Nghĩ lại lúc đó tôi
còn bối rối hơn bây giờ. Tôi lãnh đan chiếc khăn len quàng cổ cho bà Hay, trong
lòng bối rối, đan lỗi hai mũi, mãi
về sau mới nhớ ra.”
“Này cháu Mabel,” tôi
nói, “con làm ta lo. Nguyên nhân vì sao thế?”
“Chao ơi, lúc còn nhỏ
Mabel đã khó ăn nói. Lúc đó tôi phải khó nhọc mới hỏi cho ra chuyện, nó còn kể
lại những lời đàm tiếu vớ vẩn của mấy tay ngồi lê đôi mách, những kẻ thích lên
mặt dạy đời.”
“Nhờ vậy cô
mới hiểu ra,” tôi nói. Hiện tại người ta đang xầm xì bàn tán chuyện đời tư của
con. Và chuyện gì đó con đã rõ, con phải kể cho ta nghe.”
“Xấu xa lắm.”
Mabel rên rỉ.
“Dĩ nhiên là
phải xấu rồi,” tôi nói ra ngay. “Chả có chuyện gì khiến ta phải ngạc nhiên. Nào,
Mabel con kể đi cứ thẳng thắn, nói ra thiên hạ đã nói gì con?”
Chuyện là như thế này.
“Cũng vì lý do cái
chết của Geoffrey Denman quá đột ngột nên thiên hạ mới bàn tán xôn xao. Nói
đúng ra... như tôi đã khuyên đứa cháu cứ thẳng thắn nói ra... thiên hạ đang bàn
tán chuyện nó đã đầu độc chồng.”
“Nào, mong các bạn
hiểu cho, không gì độc địa hơn là miệng lưỡi thiên hạ, và không gì khó khăn hơn
tìm cách chống đỡ. Thiên hạ nói xấu sau lưng chuyện đó làm sao chối cãi, tiếng
lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa, không ai ngăn được. Tôi biết chắc một điều:
Mabel không đầu độc để hại ai. Không hiểu sao tinh thần nó suy sụp, không yên y
như nó đã phạm một tội ác tày trời.”
“Không có lửa
làm sao có khói,” tôi nói. “Nào, Mabel con nói hết cho ta nghe làm sao có
chuyện đó. Phải có đầu đuôi mới được.”
“Mabel nói năng không
ra gì, nhưng chẳng có chuyện gì hết... làm gì có, chẳng qua Geoffrey chết bất
đắc kỳ tử. Tối hôm đó ngồi ăn uống bình thường, tới khuya thấy đau dữ dội, chạy
đi mời bác sĩ tới nơi được ít phút đã chết. Bác sĩ cho biết có thể nạn nhân ăn
trúng nấm độc.”
“Chà,” tôi
nói, “chết bất đắc kỳ tử vậy thế nào người ta cũng bàn tán xôn xao, nhưng làm
sao không có manh mối. Con có gây gổ hay nói này nọ với Geoffrey lần nào không?”
“Sáng hôm kia
cháu có cãi nhau với chồng lúc ăn sáng.”
“Mấy người
giúp việc nhà nghe được, phải không?” Tôi hỏi.
“Lúc đó họ
đang làm phòng.”
“Không, cháu
ơi,” tôi nói, “biết đâu họ đứng gần ngoài cửa.”
“Tôi biết Mabel có
tật mỗi lần cáu giận hay la hét om sòm. Còn Geoffrey Denman thì được ông trời
ban cho giọng nói như rống mỗi lần tức giận ai.”
“Nhưng con gây gổ chuyện
gì?”
“Ôi, chuyện
nhỏ. Chuyện thường ngày ở nhà. Chuyện bé xé ra to, vậy là Geoffrey đuối lý rồi
đổ ra nói năng tầm bậy. Con phải nói là anh ta đáng ghê tởm.”
“Vậy là bữa
đó cãi nhau dữ lắm.” Tôi hỏi.
“Không phải
lỗi tại cháu...”
“Này cháu,”
tôi nói. “Dù lỗi tại ai cũng chẳng sao. Ta không nên kể ra đây. Tại nhà này mọi
chuyện riêng tư coi như là chuyện chung. Hai vợ chồng hay kiếm chuyện gây gổ. Mới
buổi sáng còn cãi nhau dữ dội, ngay tối hôm đó chồng chết đột ngột, một cái
chết khó hiểu. Chỉ có vậy hay còn gì khác?”
“Có chuyện gì
khác là sao?” Mabel hỏi vặn lại.
“Ta muốn hỏi
như vầy, cháu ơi. Nếu đã lỡ làm chuyện bậy thì vì Chúa đừng nên giấu giếm. Ta
muốn tìm cách để giúp cho cháu.”
“Không có
chuyện gì và không có ai giúp được cháu.” Mabel kịch liệt bác lại. “Ngoại trừ
cái chết.”
“Cháu nên tin
có ơn Trên,” tôi nói. “Nghe này, Mabel ta biết cháu còn giấu điều gì đó, chưa
muốn nói ra.”
“Tôi dư biết, hồi nó
còn nhỏ, nó thường không nói ra hết. Phải chờ thật lâu sau nó mới chịu khai. Sáng
bữa đó, nó ra ngoài hiệu thuốc mua một ít chất thạch tín. Mua xong phải ký tên
vô sổ. Như mọi lần người bán thuốc phải hỏi.”
“Ai là bác sĩ
của cháu?” Tôi hỏi.
“Bác sĩ
Rawlinson.”
Tôi nhìn thấy qua ông
ta một lần. Hôm nọ Mabel chỉ nói nhìn ông ta như một lão già hom hem. Kinh
nghiệm cho tôi biết mấy ông bác sĩ thì không bao giờ sai lầm. Mấy ông còn lắm
khi tinh tường, cũng có ông thì không được vậy, có lắm khi mấy ông giỏi nhất mà
lại không biết bệnh nhân đau ốm ra sao. Chuyện bác sĩ và thuốc men thì tôi
không dính dáng tới.”
Nghĩ ngợi một hồi tôi
chuẩn bị tới thăm bác sĩ Rawlinson. Y như tôi nghĩ trong đầu khi thoạt trông
thấy ông... một ông lão dễ nhìn tử tế, mặt mày ngơ ngác, mắt cận thị thấy tội
nghiệp, tai nghe hơi lãng, đã vậy tính ông lại hay cáu, dễ bức xúc. Vừa nghe kể
vụ Geoffrey Denman ông lên mặt kể ra một lô mấy loại nấm, thứ ăn được, thứ
không. Ông hỏi bà nấu ăn, bà thấy có mấy cây nấm “có vẻ lạ” nhưng bên cửa hàng
họ giao, chắc ăn được. Thấy lạ bà mới đắn đo có nên đem nấu, bởi nhìn lại thấy
khác hơn mọi bữa.
“Phải vậy thôi,” tôi
nói. “Thoạt nhìn phải nói là hàng tốt, để lâu nó đổi ra màu vàng cam lốm đốm
màu tím. Phải thử mới biết.”
“Tôi đoán lúc bác sĩ
tới nơi Denman đã cứng họng, gã không chịu nổi nữa nên chết sau mấy phút. Ông
bác sĩ hoàn toàn yên tâm làm giấy chứng tử. Có phải cố tình hay vì quá tin
tưởng, chuyện đó tôi không dám nói chắc!”
“Trở về nhà tôi hỏi
lại Mabel vì sao muốn mua chất thạch tín làm gì.”
“Chắc con đã
nghĩ gì trong đầu.” Tôi nói ra ngay.
Mabel khóc òa
lên. “Con muốn tự tử,” nó rên rỉ. “Con khổ quá. Con không muốn sống.”
“Cháu còn giữ
lại đó không?” Tôi hỏi.
“Không. Con
quăng mất rồi!”
“Tôi ngồi một chỗ,
đầu óc nghĩ ngợi quay cuồng.”
“Lúc ông ta
đau cháu thấy ra sao? Ông có kêu cháu tới không?”
“Không,” con bé lắc đầu. “Ông ta nhấn
chuông liên hồi, làm dữ lắm. Một hồi sau bà giúp việc Dorothy mới nghe thấy,
kêu bà nấu ăn dậy cùng nhau chạy tới. Nhìn thấy ông, bà Dorothy run lẩy bẩy,
miệng nói lảm nhảm, mê sảng. Dặn bà nấu ăn ở lại, bà ta chạy đi gọi con; nghe
gọi con chạy theo. Trông mặt mũi ông đau đớn dữ lắm. Không may cho ông, đêm hôm
đó người chăm sóc ông lão là bà Brewster bỏ về nhà, không ai biết xoay sở ra
sao cứu ông. Con dặn Dorothy đi mời bác sĩ để bà nấu ăn ở lại đây thôi, ở lại
được một lúc chịu không nổi con bỏ đi ra, chạy về phòng khóa cửa lại.”
“Con ăn ở vậy sao được,” tôi nói, “thảo
nào con ăn ở vậy nên mọi người đối xử tệ với con, con đã thấy chưa. Để bà nấu
ăn một mình xoay xở. Đây là một việc làm xấu xa.”
“Sau đó tôi nói chuyện với mấy người giúp
việc. Bà nấu ăn muốn nhắc chuyện món nấm, tôi ngăn lại. Đến lượt tôi chất vấn
tỉ mỉ, đêm hôm đó tình hình ông chủ ra sao. Đêm đó ông ta đau ghê lắm, không
nuốt được nước miếng, nói năng ngọng nghịu, nói tiếng được tiếng không; như
người mê sảng, lảm nhảm trong miệng - như một người thất thần?”
“Nghe ông nói nhảm ra sao?” Tôi hỏi dò.
“Nghe như là món cá, phải vậy không?” Bà
nhìn qua người kế bên.
Dorothy gật đầu.
“Cả một mớ cá,” bà kể. “Nói lảm nhảm thế
đó. Thấy ông như người mất hồn, tội nghiệp.”
“Nghe qua chẳng hiểu đầu đuôi gì hết. Chỉ
còn một nơi có thể xoay sở, tôi sực nhớ bà Brewster, gầy ốm, đã năm mươi.”
“Rủi ro cho ông ấy đêm hôm đó tôi phải về
nhà,” bà kể, “chẳng ai làm gì được để giúp ông cho đến khi bác sĩ tới.”
“Có thể ông mê sảng” tôi nói. “Triệu chứng
trúng độc, đúng không?”
“Cũng có thể.” Brewster nói.
“Tôi hỏi lại bà thấy ông lão Denman lúc
này tình trạng có khá hơn không.”
Bà lắc đầu.
“Thấy ông đau dữ lắm.” Bà nói.
“Yếu lắm hở?”
“Ôi không, bề ngoài ông còn khỏe... chỉ có
mắt kém. Không nhìn thấy được nữa. Coi vậy chứ ông còn sống lâu hơn nữa, chỉ có
điều trí óc không còn sáng suốt. Tôi cho hai vợ chồng cậu Denman biết nên đưa
ông về viện tâm thần, nhưng cô Denman không chịu nghe.”
“Tôi muốn nói với bà ấy Mabel là một người
tốt bụng.”
“Vâng, nhưng có một chuyện thế này. Tôi
nghĩ đi nghĩ lại, chỉ còn mỗi một cách. Cũng vì thiên hạ xầm xì bàn tán... chỉ
còn cách xin phép được khai quật tử thi khám nghiệm, may ra tình hình mới hoàn
toàn lắng dịu. Mabel phản đối kịch liệt... không được động đến người chết đã
nằm xuống yên nghỉ vân vân và vân
vân. Nhưng tôi đã quyết phải làm.
Tôi không nói dài dòng. Được phép các
chuyên gia cho tiến hành khám nghiệm tử khi, kết quả cho thấy không như tin đồn.
Không tìm thấy đấu vết chất độc thạch tín dù sử dụng hết cách. Kết luận sau
cùng biên bản ghi là không tìm ra nguyên nhân cái chết của nạn nhân.”
“Vậy là, như các hạn đã biết, không giải
quyết được vấn đề. Thiên hạ bàn
tán là còn một loại chất độc chưa thể phát hiện được và thêu dệt thêm những
điều nhảm nhí. Tôi tìm đến một nhà chuyên môn bệnh lý học đặt vấn đề, dù không
muốn trả lời hết các thắc mắc nêu ra nhưng tôi biết được một điều do chính ông
nói ra, rất có thể cái chết của nạn nhân, theo ông, không phải do ăn món nấm. Tôi
chợt nảy ra một ý hỏi ông vậy thì có thể nạn nhân chết do một loại chất độc nào
khác không. Ông giải thích dài dòng lắm, tuy không hiểu hết nhưng đại ý như
vầy: cái chết của nạn nhân có thể do ngộ độc thực vật cực mạnh.”
“Tôi lại nghĩ khác: Giả sử Geoffrey Denman
trước đây có máu tâm thần biết đâu ông tìm cách muốn tự tử thì sao? Lúc còn
sinh viên ông có theo học ngành y hẳn ông phải biết nhiều thứ thuốc độc lợi hại
như thế nào.”
“Tôi cho là chưa hẳn vậy nhưng suy nghĩ
của tôi chỉ tới đó. Và không thể đi xa hơn nữa, thật tình mà nói. Chuyện tôi kể
ra đây e rằng các bạn trẻ sẽ cười cho. Nhưng mà hễ gặp khi bối rối tôi thường
hay cầu nguyện - bất cứ ở đâu, dù đang đi ngoài đường hay đang ở trong gian
hàng bách hóa. Và câu trả lời đến ngay sau đó. Có thể đó là một chuyện nhỏ
không ăn nhập gì với chuyện ta đang bàn, nhưng mà có thật. Lúc còn con gái, tôi
treo trên đầu giường câu khẩu
hiệu ‘cứ hỏi tức khắc sẽ được trả lời’. Sáng hôm đó lúc đi dạo trên phố tôi cầu
nguyện dữ lắm. Nhắm mắt lại một hồi, khi mở ra các bạn biết tôi nhìn thấy gì
trước tiên?”
Năm gương mặt mỗi người một vẻ cùng nhìn
về phía bà Marple. Phải nói là không ai đoán ra được cho chính xác.
“Tôi nhìn thấy,” bà Marple xúc động nói,
“trên cửa sổ nhà người bán hàng cá, có treo một món đó là một con cá vược còn
tươi rói.”
Tôi hân hoan nhìn
quanh.
“Chà, lạy Chúa!” Raymond West lên tiếng. “Câu
trả lời cho ước nguyện... một con cá vược còn tươi!”
“Đúng thế, Raymond.” Bà Marple nghiêm
giọng nói.
“Tôi thấy không có gì là phạm thượng. Bàn
tay của Chúa có ở khắp nơi. Vật mà tôi nhìn ra trước tiên là một dấu chấm đen...
dấu tay của thánh Pierre. Y như
là chuyện hoang đường phải không
các bạn, dấu tay ông thánh
Pierre. Ý nghĩ đó theo tôi về tới nhà. Tôi cần có đức tin, đức tin chân chính
là thánh Pierre. Hai thứ liên kết với nhau, đức tin... và loài cá.”
Ngài Henry vội hỉ mũi. Joyce bặm môi.
“Vâng mấy thứ đó đã giúp tôi nghĩ gì? Tất
nhiên là cả bà giúp việc và người nấu ăn nhắc lại món cá là câu nói nạn nhân
muốn trăng trối lúc đang hấp hối. Tôi hiểu ngay phải tìm lời giải cho cái bí ẩn
trong mấy chữ đó. Tôi trở về nhà quyết tâm tìm cho ra lẽ.”
Câu chuyện tới đó dừng lại.
“Đã có lần nào các bạn gặp…” bà nói tiếp
nốt câu chuyện, “… một trường hợp người ta thường nhắc tới là cảnh quan môi
trường? Có một nơi gọi là Grey Wethers trên cao nguyên Dartmoor. Nếu gặp được
một người nông dân, bạn nhắc hai
chữ Grey Wethers, ông ta hiểu ngay bạn ám chỉ những vòng tròn bằng đá, có nghĩa
bạn muốn đề cập không gian tại nơi đó, cũng tương tự như vừa kể, khi một người
lạ bất chợt nghe lỏm được câu chuyện, ông ta lại hiểu là bạn muốn đề cập tới
chuyện thời tiết. Cho nên khi muốn lặp lại một câu chuyện, theo thông lệ các
bạn không nên lặp lại cùng một tên gọi, mà phải đặt một cái tên khác cũng gợi
lên một ý như bạn muốn nói.”
“Tôi đến nơi gặp riêng từng người một. Trước
tiên, tôi hỏi bà nấu ăn phải bà đã nghe ông chủ nhắc tới chuyện một mớ cá. Bà
nói ngay là có nghe.”
“Có đúng ông nói vậy không?” Tôi hỏi lại,
“hay ông muốn nói một thứ cá nào đó?”
“Đúng mà,” bà nấu ăn nói, “một thứ cá đặc
biệt, tôi không nhớ là cá gì. Một mớ... mớ gì nhỉ? Không phải thứ cá dọn ra bàn.
Có phải cá chép... hay là một giống cá măng? Không, nó không bắt đầu là chữ ‘B’.”
“Dorothy còn nhớ ông chủ nhắc tới một thứ
cá gì đó. Một thứ cá ngoại nhập thì phải.”
“Một mớ, chà, mớ gì đây.”
“Cố nhớ đi, nghe ông nói một mớ hay là một
đống?” Tôi hỏi lại.
“Một đống thì phải. Nhưng mà không chắc gì...
khó mà nhớ ông nói đúng tên, phải vậy không bà, bởi lúc đó ông nói chẳng ra đầu
đuôi. Có thể tôi nhớ ra, ông nói một đống và một thứ cá tên gọi chữ ‘C’ đứng
đầu, chẳng lẽ là cod(*) hay là crayilsh(**).”
Cá thu
(**)Tôm
hùm
“Tới đây có thể là tôi đã hiểu ra,” bà
Marple nói, “bởi lẽ, tôi thì không rành chuyện thuốc men... mấy thứ đó thật
đáng sợ. Bà nội tôi còn để lại một toa thuốc xưa dùng cây ngải cúc chế ra một
món thuốc còn độc hơn thuốc bây giờ. Tôi nhớ trong nhà còn để lại nhiều sách
thuốc, mỗi cuốn ghi từng danh mục thuốc. Các bạn biết không, tôi sực nhớ ông
chủ nhớ được một thứ thuốc độc, nên ông ráng kể lại tên thuốc một lần cuối.”
“Vậy là tôi lục tìm theo thứ tự tới vần ‘H’,
bắt đầu bằng chữ ‘He’, không thấy nói tên thuốc độc, phải tra tới vần ‘P’, tìm
ra ngay... các bạn có thể đoán được chứ?”
Bà nhìn quanh mọi người, gác lại niềm vui
trong phút chốc.
“‘Pilocarpine’(*). Các bạn thử mường tượng
một người lúc đau ốm ráng nói ra cho đúng chữ nào? Bà nấu ăn nghe qua chẳng
hiểu nó là cái chữ gì. Có thể đọc trại ra thành chữ ‘Pile of carp’(**)?”
(*)Cây
phương hương
(**)Một
mớ cá chép
“Tất nhiên!” Ngài Henry lên tiếng.
“Tôi thì không nghĩ ra có chuyện đó.” Ngài
mục sư Pender nói.
“Thật là lý thú,” ông luật sư Petherick
nói, “phải nói thật là thú vị.”
“Tôi lật nhanh qua tới trang ghi trong
bảng mục lục, đọc tới chữ ‘Pilocarpine’, ghi rõ đây là thảo dược dùng trị đau
mắt, không nói gì về trường hợp nạn nhân bị trúng độc. Sau cùng đọc tới dòng
cuối ghi: được dùng làm thuốc giải độc trong trường hợp trúng độc atropine(*).”
(*)Nhựa
cây cà độc dược
“Tôi không thể kể ra đây các bạn nghe vì
sao lúc đó đầu óc tôi sáng ra. Tôi không nghĩ Geoffrey Denman muốn tự tử. Không,
một cách giải quyết không thể chấp nhận được, nhưng là cách suy nghĩ nạn nhân
muốn chọn lựa, bởi mọi chứng cứ đầu đuôi khớp với lôgic.”
“Tôi không muốn đoán già đoán non làm gì,”
Raymond nói. “Dì Jane cứ kể tiếp tới chỗ làm sao được sáng trí ra.”
“Chuyện thuốc men tôi không rành,” bà
Marple nói. “Tình cờ tôi biết được lúc tôi bị đau mắt, bác sĩ cho thuốc pha chế
thêm atropine sulfate. Tôi đi ngay lên phòng ông lão Denman. Tôi không muốn dài
dòng.”
“Này ông Denman,” tôi lên tiếng, “tôi biết
hết mọi chuyện. Sao ông nỡ giết con trai ông?”
“Lão nhìn tôi một hồi... tôi thấy ông lão
rất đẹp lão, chợt ông phá ra cười. Tôi chưa từng nghe thấy ai cười lạ tai đến
vậy, cả người tôi muốn nổi da gà. Trước đây tôi cũng từng được nghe giọng cười
như thế này một lần, lúc bà Jones trong tình trạng bị mất trí.”
“Vâng,” lão nói, “tôi muốn trả thù
Geollrey. Tôi biết tỏng hắn mà, hắn muốn đưa tôi vào nhà thương điên, phải
không? Chả lẽ tôi phải vô nhà an trí? Tôi nghe bọn chúng tranh cãi với nhau. Mabel
tốt bụng... Mabel muốn bênh vực tôi nhưng không thể làm trái ý Geolfrey được. Hắn
luôn luôn làm theo ý mình. Tôi muốn thanh toán nó, đứa con thân yêu! Ha ha! Đêm
hôm tôi lần mò xuống, cả nhà yên tĩnh. Bà Brewster về nhà, đứa con thân yêu đã
lên giường ngủ, có một ly nước để trên đầu giường, bởi vì hắn có tật hay thức
giấc nửa đêm uống hết một ly nước. Tôi đổ hết ly nước... ha ha... châm đầy trở
lại với nước thuốc nhỏ mắt; lúc thức giấc hắn nốc một hơi không cần biết là thứ
nước gì. Chỉ cần uống một muỗng thuốc... bấy nhiêu là đủ chết, đủ chết. Y như
rằng hắn nốc hết một hơi! Sáng sớm mấy người giúp việc chạy tới cho tôi hay, lo
sợ tôi có bề gì không. Ha! Ha! Ha! Ha! Ha!”
“Đấy,” bà Marple nói, “câu chuyện tới đó
hết. Dĩ nhiên phải đưa lão ấy vô nhà an trí, và lão không chịu trách nhiệm hành
vi tội ác do lão gây ra. Tuy nhiên, sự thật đã được ông lão khai nên mọi người
thông cảm cho Mabel, nhưng không thể nào bù đắp lại những thiệt hại về mặt tinh
thần cho nó. Bị người đời nghi oan là thủ phạm. Nhưng nếu không phải do
Geolfrey biết là hắn vừa uống vô thứ nước gì nên gọi người nhà tìm thuốc giải
độc ngay, thì câu chuyện sẽ không bao giờ được biết đến. Theo tôi hiểu nạn nhân
trúng độc chất atropine... làm cho con ngươi bị giãn nở, như tôi đã kể, bác sĩ Rawlinson mắt kém nhìn ông thật
khốn khổ. Cùng một cuốn sách thuốc đó tôi đọc tiếp tới đoạn... phải nói là có
vài đoạn đáng chú ý - triệu chứng ngộ độc vi khuẩn và atropine không khác gì
mấy. Tôi dám nói là chưa bao giờ nhìn thấy một đống cá vược mà không liên tưởng
tới dấu tay của Thánh Pierre.”
Câu chuyện tới đây dừng lại một hồi lâu.
“Này bà bạn,” luật sư Petherick nói, “bà
bạn thân mến, bà làm mọi người kinh ngạc đấy.”
“Tôi sẽ mời mật thám sở Scotland Yard tới
đây để nhờ cô chỉ giáo.” Ngài Henry nói.
“Nói cho hết luôn đi, dì Jane.” Raymond
lên tiếng. “Có một điều dì chưa biết.”
“À, phải, ta biết chứ!” Bà Marple nói tiếp. “Chuyện đó xảy ra
trước bữa ăn, đúng không? Lúc đó cháu sẽ đưa nàng Joyce ra ngoài nhìn mặt trời
lặn. Nơi đó thật đẹp đấy. Có gốc hoa lài thơm ngát. Tại nơi này anh chàng bán
sữa đã cầu hôn Annie đấy.”
“Thôi nào, dì Jane,”
Raymond nói, “đừng cười nhạo chuyện yêu đương. Giữa cháu và Joyce khác với
chuyện anh chàng bán sữa với Annie.”
“Cháu đã phạm một sai
lầm đó,” bà Marple nói. “Mỗi người đều như nhau cả, rất giống. Cũng may người
ta không nhận ra được đó thôi.”