Bên giòng lịch sử - Chương 38

Chương 38

38. Chế độ bắt đầu nứt
rạn.

Vào năm 1961, tôi bắt đầu nghe những luồng dư luận bất mãn đối
với Tổng thống Diệm trong nhiều thành phần dân chúng.

Ít ai dám chỉ trích lớn tiếng, nhưng nhiều lúc tôi nhận thấy
nhiều người khi phải nghe ca tụng suy tôn đã lấy làm ngượng ngập, khó chịu.

Sự bất mãn đó đã có cơ hội xuất hiện trong biến cố 1/1/1961.
Vụ đảo chánh hụt năm đó không phải chỉ lôi cuốn được một số sĩ quan bất mãn mà
thôi, mà còn kéo theo nhiều nhà trí thức và giả sử trong thời gian cô lập được
dinh Độc Lập, sử dụng được Đài Phát thanh, họ chỉ cần biết dùng đài này để đưa
ra một vài đường lối xã hội thật táo bạo, thì tình thế đã có thể thay đổi ngay
lúc bấy giờ không cần chờ đến 1963. Nhóm đảo chánh cũng không chú trọng đến
công việc xách động quần chúng.

Xách động quần chúng là một việc làm dễ nếu biết và dám làm,
nhưng rất khó nếu không hiểu tâm lí và những phản ứng quần chúng. Hơn nữa thời
bấy giờ dân chúng đang sống yên ổn, thịnh vượng cho nên ít ai muốn xáo trộn. Sự
bất mãn chỉ mới bắt đầu trong số trí thức không được trọng dụng, hay trong một
số người sáng suốt nhận thấy trước con đường cụt mà chế độ đang đi dần vào.

Tôi đã thấy buồn cười khi nghe những hô hào hiệu triệu ngây
ngô trên Đài Phát thanh. Tôi không nhớ rõ vì một công việc gì liên quan đến đại
học Huế tôi có việc vào Sài-Gòn trước ngày 1/11/1961 vài hôm và đêm đó tôi đang
ở tại một nhà gần dinh Tổng thống Diệm và ông Nhu không có vẻ lo sợ gì cho lắm.

Các đơn vị Liên binh phòng vệ phủ Tổng thống tuy chỉ được
trang bị bằng những loại vũ khí nhẹ, nhưng rất trung thành không một nhóm nào bị
lung lạc. Quân đội nói chung đã không có đơn vị lớn nào ngả về phe đảo chánh.
Ngay sáng hôm sau những điện tín bày tỏ sự trung thành được tấp nập gửi đến ông
Diệm, sáng ngày 2/11 tôi làm lễ tạ ơn trong dinh. Ông Diệm, ông bà Nhu và đầy đủ
những người thân cận tham dự buổi lễ đó. Ông Diệm cũng tin tưởng ở cái thiên mệnh
mà ông coi như được Chuá giao phó cho ông.

Biến cố này không thay đổi tình thế bề ngoài nhưng đã làm cho
ông Diệm, ông Nhu bà Nhu và nhiều thuộc hạ thân tín trở nên độc đoán hơn. Những
vụ thanh trừng, bắt bớ tiếp theo sau hẳn là đã có tác dụng dâng cao thêm sự bất
mãn trong nhiều thành phần dân chúng.

Đặc biệt, nó làm cho nhiều người thấy rằng chế độ ông Diệm
không phải là một chế độ không thể lật đổ được và điều đó có lẽ làm cho nhiều
người nghĩ đến câu tục ngữ: thua keo này bày keo khác.

Sáng hôm sau, dân chúng, nhiều đoàn thể, nhiều đại diện các
cơ quan vội vàng kéo vào dinh hoan hô và bày tỏ sự ủng hộ đối với ông Diệm. Tôi
vì tò mò đứng núp sau một chiếc cột trước dinh nhìn đám đông đang kéo vào chật
sân trước dinh. Tôi thoáng thấy ông bà Nhu cũng nấp sau một chiếc cột khác ở
góc dinh nhìn ra. Ông Diệm từ trong phòng bước ra đón nhận những lời hoan hô. Mặt
ông hớn hở, kiêu hãnh. Khi đi ngang chỗ tôi đứng nấp, ông cau mày hỏi khó:

- Sao cha lại ra đây?

Ý ông hình như muốn trách tôi tại sao tôi lại ra đây để đón
nhận và hưởng những sự hoan hô, ủng hộ đáng lẽ chỉ dành riêng cho ông. Tôi khó
chịu và bỏ vào trong lập tức. Tôi hiểu thêm một khía cạnh của con người ông Diệm:
tự kiêu, độc đoán, khó dùng ai được. Sự kiện nhỏ mọn này bắt đầu làm cho tôi
suy nghĩ nhiều hơn và từ đó về sau, trước mọi việc làm của ông Diệm, tôi suy
nghĩ đắn đo và thường tìm ra hai lối giải thích, một lối không lợi gì cho ông.

Cũng từ đây, tôi bớt thân với ông Diệm. Mặt khác những công
việc quanh đại học Huế đã ổn định, điều hòa, tôi ít cần phải vào dinh để yêu cầu
ông Diệm trực tiếp giúp đỡ hay giải quyết một vấn đề gì quan trọng. Cũng từ đây
tôi chỉ chú ý đến những công việc của đại học Huế, nó đã vững, tôi cố làm cho
nó mạnh.

Có lẽ vì tâm trạng đặc biệt mà những biến cố dồn dập năm 1963
làm cho tôi hơi ngỡ ngàng. Năm đó, đức cha Ngô Đình Thục đã được giữ chức Tổng
Giám mục địa phận Huế và nghe nhiều tin đồn nói rằng có những cuộc vận động để
đưa đức cha Thục lên làm Hồng Y đầu tiên của Việt Nam. Tôi cũng chẳng quan tâm
nhiều đến việc này.

Vào khoảng tháng ba 1963 nhiều ông Dân biểu, Tổng trưởng và
những người tai mắt trong chính quyền thời đó đã tổ chức một Ủy ban mừng lễ
Ngân khánh (25 năm thụ phong Giám mục) của đức cha Thục. Ủy ban này bắt đầu
quyên tiền khắp nước. Tôi nghĩ là ngoài số người muốn tìm cơ hội để xu nịnh, lợi
dụng cơ hội tâng công với họ Ngô, cũng có một số người công giáo thành tâm muốn
bày tỏ lòng kính mến khâm phục đối với đức cha.

Khi còn làm Giám mục địa phận Vĩnh Long, đức cha Thục đã làm
được nhiều việc hữu ích cho địa phận và cho dân chúng trong vùng. Sự kính mến
khâm phục thành thật đối với đức cha Thục không phải là không có và số người
thành thật không phải là ít.

Trong việc tổ chức mừng lễ Ngân khánh đức cha Thục (nhằm ngày
29/6/1963) có vài chi tiết làm tôi chú ý.

Một buổi sáng cuối tháng ba, vào khoảng 7 giờ, đức cha Thục đến
gặp tôi tại nhà riêng, và nói thẳng với tôi:

- Cha Luận à, bây giờ các anh em ở Sài-Gòn có lập một Ủy ban
tổ chức mừng lễ Ngân khánh của tôi, do ông Chủ tịch Quốc hội đứng đầu, gồm cả
ông Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Quang Trình và Viện trưởng đại học Sài Gòn Lê Văn
Thới với vài ông Bộ trưởng nữa. Cha là Viện trưởng đại học Huế, cha nên vào
trong Ủy ban đó.

Ngay lúc này, tôi cho rằng mình đứng vào ban tổ chức mừng lễ
Ngân khánh đức cha Thục cũng là một việc tự nhiên. Tôi chỉ hơi ngạc nhiên về
cái việc là đích thân đức cha lại đến gặp tôi nói chuyện đó. Tôi nghĩ là đáng lí
một người nào đó trong Ủy ban tổ chức sơ khởi bàn với tôi việc đó thì đúng hơn.

Tôi im lặng một lúc rồi thưa:

- Thưa đức cha, cố nhiên con có bổn phận giúp vào việc tổ chức
lễ Ngân khánh của đức cha. Trước đây khi chưa nghe nói đến Ủy ban, con đã có ý
định làm vài công việc nhỏ để mừng lễ Ngân khánh của đức cha.

Đức cha Thục lần đó chỉ nói với tôi thế thôi, rồi ra về. Tôi
nhân danh Viện trưởng Viện đại học Huế viết thư cho ông Chủ tịch Quốc hội
(Trương Vĩnh Lễ) hỏi về Ủy ban tổ chức mừng lễ Ngân khánh đức cha Thục và tỏ ý
sẵn sàng gia nhập Ủy ban này. Tôi thông báo cho ông biết rằng vì Huế xa xôi tôi
lại bận bịu nên cử một đại diện vào hợp tác trực tiếp với Ủy ban là ông Nguyễn
Hạnh.

Tôi cho Nguyễn Hạnh tới tiếp xúc với Ủy ban. Ông Hạnh có viết
thư về cho tôi biết là Ủy ban có tổ chức một bữa tiệc với điều kiện là mỗi người
5000 đồng. Ông Hạnh được giao cho hai mươi phần ăn và chỉ tìm được mười người
(những thương gia ở Chợ Lớn) đóng tiền dự tiệc, còn mười phần ăn còn lại thì
ông phải nhận hết và đóng tiền.

Vào tháng tư tôi nhận thấy những công việc chuẩn bị mừng lễ
Ngân khánh của đức cha Thục tiến đến một quy mô quá rộng lớn có hi vọng thành một
quốc lễ chính thức. Các tỉnh cũng lập một tiểu ban tổ chức mừng lễ Ngân khánh
và dĩ nhiên do ông Tỉnh trưởng đứng đầu, cũng có những trò đi quyên góp tiền bạc
và tất nhiên là xảy ra nhiều trường hợp cưỡng bách, hay ít ra áp lực đóng tiền
cho tiểu ban.

Dư luận dân chúng bắt đầu xôn xao bàn tán chế nhạo. Tôi thấy
điều này không có lợi gì cho quốc gia và giáo hội, trái lại có thể làm cho giáo
hội mang tiếng và làm cho chế độ bị chỉ trích nặng nề và có cớ. Tôi nghĩ rằng
chỉ nên tổ chức mừng lễ Ngân khánh của đức cha Thục trong phạm vị địa phận hay
giáo hội mà thôi. Tôi băn khoăn và đến gặp ông Cẩn. Lúc bấy giờ mọi người quanh
ông đều gọi ông là cậu, cậu Cẩn. Tôi cũng không làm cách gì khác hơn.

- Thưa cậu, lễ Ngân khánh hai mươi lăm năm làm Giám mục của đức
cha là một ngày đáng ghi nhớ đối với người thân cũng như đối với giáo hội. Đức
cha lại đang là niên trưởng các Giám mục Việt Nam. Tôi nghĩ là nên tổ chức mừng
lễ Ngân khánh của ngài một cách trọng thể, nhưng chỉ nên tổ chức trong phạm vi
giáo hội và địa phận mà thôi, chứ không nên tổ chức trong phạm vi quốc gia theo
một thứ quốc lễ. Vậy cậu nên tìm cách nói với đức cha nên tổ chức lễ Ngân khánh
của ngài một cách vừa phải thôi.

Ông Cẩn gật đều đồng ý:

- Con đồng ý với cha hoàn toàn. Con cũng thấy trong tình thế
hiện tại, nhiều người bất mãn với chúng ta, đang bới móc tìm cơ chỉ trích và
gây hiềm khích với chính phủ. Làm như vậy thực ra không có lợi chi cả. Nhưng
cha biết đó, từ khi đức cha về Huế, con chẳng còn quyền hành gì nữa. Mọi việc đức
cha bao biện hết.

Thậm chí những anh em thân tín cũ ra vào gặp con còn bị người
của đức cha theo dõi và báo cáo cho đức cha. Gia đình chúng con sau khi anh
Khôi mất, thì đức cha là kẻ quyền huynh thế phụ, lớn tuổi hơn con nhiều và
nghiêm khắc lắm, con không nói gì với đức cha cả. Hay nhất là cha nên vào gặp Tổng
thống, xin Tổng thống nói lại với đức cha, thì may ra đức cha còn nghe theo mà
không giận.

Vì việc đó tôi vào Sài-Gòn xin gặp ông Nhu trước. Tôi định
trình bày với ông Nhu những điều đã bàn với ông Cẩn, nhưng sợ đường đột nên tôi
mở đầu bằng một vấn đề khác:

- Thưa ông cố vấn, tôi xin gặp ông cố vấn để được biết đại
cương về quốc sách ấp chiến lược. Đại học Huế nhận được thông tri kêu gọi các
giáo sư đi dự khóa huấn luyện về ấp chiến lược tại suối Lồ Ồ. Tôi muốn cho họ
hăng hái đi dự khóa huấn luyện đó nên muốn hiểu rõ hơn mà về giải thích cho họ
rõ.

Ông Nhu say mê nói về những cái hay cái tốt của ấp chiến lược
sẽ đạt được hai mục đích lớn: bảo về an ninh nông thôn và thực hiện công cuộc
cách mạng nông thôn. Ông Nhu nói liên miên về ấp chiến lược hơn một giờ đồng hồ.
Lúc nghe ông thuyết xong tôi vào vấn đề.

- Thưa ông cố vấn, nhân dịp này tôi muốn trình bày với ông cố
vấn một việc. Lễ Ngân khánh của đức cha nhằm vào cuối tháng sáu. Bây giờ đã có
một Ủy ban tổ chức lễ đó, gồm ông Chủ tịch Quốc hội và nhiều Bộ trưởng. Theo lề
lối hoạt động của Ủy ban thì tôi xem chừng họ muốn tổ chức lễ Ngân khánh hết sức
trọng thể, không thua gì một quốc lễ. Trong tình thế hiện tại, tôi và ông Cẩn
đã có bàn bạc với nhau nếu tổ chức trọng thể quá sẽ bất lợi cho chính thể cũng
như cho giáo hội.

Ông Nhu cũng trả lời như ông Cẩn:

- Tôi cũng hoàn toàn đồng ý với nhận định của cha. Tôi và anh
tôi đôi khi buồn đức cha vì ngài lầm lẫn phạm vi tôn giáo với phạm vi quốc gia.
Khi ở Vĩnh Long, tôi cũng đã không biết làm sao khi thấy từng đoàn từng lũ Dân
biểu, Tỉnh trưởng, Bộ trưởng nườm nượp kéo đến chầu đức cha. Tôi tưởng rằng đức
cha ra Huế xa xôi một chút sẽ bớt được cái nạn đó, không ngờ họ lại viện cớ lễ
Ngân khánh của ngài để làm ồn ào hơn. Nhưng cha cũng biết, gia đình chúng tôi
anh cả mất sớm, đức cha tuy là anh lớn trong gia đình, nhưng đối với chúng tôi
chẳng khác gì bậc cha. Riêng tôi thì biết là không có cách gì, mà cũng không
dám nói thẳng với đức cha. Chỉ còn Tổng thống may ra có thể can gián được đức
cha vài phần, để rồi tôi liệu nói với Tổng thống khuyên can đức cha bớt đi đôi
chút, nhưng tôi sợ cũng không được.

Tôi về Huế lại với tâm trạng buồn rầu, chán nản khó chịu và
lo lắng. Dựng được một uy quyền, thế lực như ông Diệm không phải là chuyện dễ,
nhưng làm suy giảm uy quyền thế lực đó thì dễ lắm. Tôi không hi vọng có ai tài
giỏi hơn thay thế được ông Diệm. Cho nên chẳng những vì cảm tình và sự tin tưởng
nơi ông Diệm mà tôi lo lắng cho tương lai của chính phủ ông Diệm, mà cũng vì số
phận quốc gia mà tôi lo lắng.

Nhưng tôi không có tư cách hay thẩm quyền gì đáng kể để chen
lấn vào những việc làm của chính ông Diệm. Hình như độ sau này chẳng hiểu vì lí
do nào, gia đình ông Diệm có vẻ bớt tin cậy nơi tôi mặc dầu sự giao thiệp vẫn
bình thường, thân thiết.

Những nỗi lo lắng của tôi quả thực chẳng sai chút nào.

Ngày 7/5 đức cha đi viếng La Vang trở về Huế dọc đường nơi
nào cờ Phật giáo cũng tung bay. Điều này chẳng có chi lạ. Dân Huế 90% theo đạo
Phật và tại đây từ ngày tôi có mặt (1949) Phật giáo hoạt động rất mạnh, có tổ
chức quy củ. Ở Huế nơi nào cũng có chùa chiền, sư tăng. Đức cha Thục có vẻ
không bằng lòng và ngay chiều đó, cho mời đại biểu chính phủ là ông Hồ Đắc
Khương vào tòa Tổng Giám mục Huế khiển trách tại sao đã có sắc lệnh cấm treo cờ
tôn giáo hay đảng phái bên ngoài trụ sở hoặc khuôn viên mà nay Phật giáo lại
treo cờ đầy đường như vậy.

Ông đại biểu chính phủ Hồ Đắc Khương không biết quyết định thế
nào, vì ông cũng dư biết rằng nhắc lại nghị định cấm treo cờ Phật giáo ngay lúc
này thật là không thích hợp, có thể bị hiểu lầm là cố tình làm nhục Phật giáo,
cho nên ông đánh điện vào dinh Độc Lập xin chỉ thị. Không rõ điện văn của ông đại
biểu chính phủ có đến Tổng thống hoặc ông cố vấn hay không nhưng có điện văn trả
lời từ văn phòng phủ Tổng thống đánh ra Huế xác nhận rằng nghị định cấm treo cờ
tôn giáo hay đảng phái bên ngoài khuôn viên và trụ sở vẫn có giá trị.

Ông đại biểu chính phủ ra lệnh cho chính quyền địa phương tại
miền Trung phải triệt hạ cờ Phật giáo. Ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên là ông Nguyễn
Văn Đẳng bị đặt trong một tình thế hết sức khó xử và khẩn cấp, ông xin vào gặp
ông Cẩn để giãi bày và xin bỏ qua việc triệt hạ cờ Phật giáo, ít ra cho hết
ngày lễ Phật Đản năm nay. Ông Cẩn tỏ ra hiểu biết ra lệnh cho Tỉnh trưởng rằng
người ta (Phật tử) đã lỡ treo thì cứ để treo hết ngày lễ, sau sẽ liệu.

Ông Cẩn còn cho Tỉnh trưởng Thừa Thiên đánh điện tín đi tất cả
các tỉnh miền Trung chỉ thị mật không được hạ cờ Phật giáo. Tưởng vụ này tạm
yên được và cách giải quyết đó có thể trì hoãn được. Nhưng tối hôm 7 tháng 5 có
nhà sư thuyết pháp ở chùa lớn ở Huế như Từ Đàm, Bảo Quốc, Diệu Đế… Quần chúng địa
phương đến tham dự đông đảo. Nhiều bài thuyết pháp đã lên tiếng đả kích chính
quyền một cách nặng nề, tố cáo chính quyền có chủ trương đàn áp Phật giáo và
nêu lệnh cấm treo cờ tôn giáo như nhắm riêng vào Phật giáo. Các nhà sư cũng nhắc
đến những vụ lễ lạc của công giáo trước đây ít lâu, lúc đó cờ công giáo đã được
treo khắp đường phố, sao lại không cấm, mà nhằm ngày lễ Phật Đản rồi cấm.

Các tổ chức Phật tử ở Huế yêu cầu phát thanh trực tiếp các cuộc
thuyết pháp và các buổi lễ Phật Đản của chùa Từ Đàm. Vì có nhiều bài thuyết
pháp đả kích chính quyền, tòa tỉnh và tòa đại biểu miền Trung ngần ngại không
phát thanh. Một đám Phật tử đông đảo kéo đến Đài Phát thanh biểu tình đòi phải
phát thanh trực tiếp và trọn vẹn các bài thuyết pháp và các cuộc lễ Phật giáo.

Trong lúc các nhà chức trách tìm cách dàn xếp, thì một trái lựu
đạn không biết từ đâu đã nổ ngay giữa đám Phật tử biểu tình làm nhiều người chết
và bị thương. Cuộc tranh đấu của Phật giáo chính thức bùng nổ từ ngày đó.

Có vài giả thuyết được nêu lên về xuất xứ của trái lựu đạn.

Giả thuyết thứ nhất và khó tin nhất cho rằng một cán bộ chính
quyền hoặc là binh sĩ hay cảnh sát bảo vệ Đài Phát thanh đã ném trái lựu đạn
đó. Một giả thuyết thứ hai đổ cho mật vụ Mỹ là tác giả trong vụ này. Giả thuyết
thứ ba thì cho rằng chính phe đấu tranh, tôi xin nói là phe đấu tranh trong đó
còn nhiều thành phần khác ngoài Phật giáo đã thâm độc cho ném trái lựu đạn gây
nên cảnh đổ máu để tạo căm phẫn trong quần chúng Phật tử hầu kích động mạnh hơn
cuộc đấu tranh và dồn hai bên đến cái thế một sống một chết với nhau.

Tôi chỉ nêu lên những giả thuyết được bàn tán lúc bấy giờ, mà
không nghiêng theo giả thuyết nào.

Tôi thấy tình hình gay cấn và không lối thoát. Chiều hướng của
cuộc đấu tranh và tương lai chế độ rõ rệt lắm rồi. Tôi lo sợ bị lôi cuốn vào một
tình trạng khó xử. Ở cương vị một Viện trưởng đại học, với truyền thống tự trị
của đại học mà tôi đã thâm nhiễm từ Pháp, tôi không thể nào đi ngược lại các
phong trào sinh viên mà tôi biết chắc trước sau cũng bùng lên.

Thực tình tôi không chủ trương lánh mặt hay chạy trốn, nhưng
biết mình bất lực trong các cuộc hỗn loạn sắp tới nên chỉ mong thoát ra ngoài.
Tôi đi Mỹ và sáng ngày 9/5 tôi vào chào đức cha Thục để từ giã vào Sài-Gòn thu
xếp lên đường.

Tôi thưa với đức cha:

- Thưa đức cha, những sự việc vừa xảy ra mấy hôm nay làm cho
con lo ngại lắm. Thủ phạm không rõ là ai, nhưng đã có chuyện đổ máu, con sợ sự
chống đối sẽ lan rộng và nổ mạnh. Con nghĩ chính quyền nên mềm dẻo, khéo léo
hơn một chút.

Đức cha Thục có vẻ coi thường:

- Cha cứ yên tâm ra đi đừng lo chi cả, các phong trào chống đối
của quần chúng bất quá chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên một chốc rồi tắt ngay, có
chi phải sợ.

- Đức cha nhận định như thế thật đúng nếu bên trong có những
nguyên nhân sâu kín và mạnh mẽ. Nhưng xin đức cha nhìn vào những nguyên nhân
bên trong. Công giáo trước ngày di cư, ở miền Nam chỉ có vài trăm ngàn người.
Sau di cư nhờ gần một triệu dân công giáo từ Bắc vào, con số đông hơn trước
nhưng tỉ lệ cũng vẫn chỉ là 10% hay kém hơn trong dân số Việt Nam, vậy mà hiện
nay mọi chức vụ lãnh đạo quốc gia đều trong tay người công giáo.

Chỉ riêng điều này cũng có thể gây những bất mãn và chống đối
trầm trọng, chưa nói chi đến những lầm lỗi không thể tránh được của bất cứ
chính quyền nào.

Đức cha Thục xem chừng không muốn nghe và cũng chẳng để ý chi
đến những điều tôi nêu lên. Đức cha trao cho tôi một số thư từ gửi tay cho các
cha bên Mỹ.

Tôi vào Sài-Gòn được mấy hôm thì có giấy mời đi dự lễ đặt
viên đá đầu tiên xây cất đại học Sư phạm Thủ Đức ngày 14/5. Sau lễ, Tổng thống
và quan khách gồm đủ ngoại giao đoàn đi xem xét sơ đồ và khu đất xây trường.
Lúc bấy giờ Đại sứ Nolting đến gần tôi hỏi về tình hình ở Huế.

- Theo ý cha thì chính phủ có lỗi gì trong vụ Đài Phát thanh
Huế vừa rồi không?

Tôi ngập ngừng một lúc, rồi thành thật trả lời:

- Bàn chuyện lỗi phải của ai, thì hơi khó, nhưng tôi cho rằng
chính phủ phải chịu trách nhiệm một phần, vì đã cố tình nhắc lại nghị định cấm
treo cờ đúng vào ngày lễ Phật Đản. Tôi cho hành động này không đúng lúc, không
thích hợp, dù nghị định có đứng đắn, hữu lí. Cách đây chỉ ít tháng có nhiều cuộc
lễ bên công giáo, như lễ tựu chức các Giám mục và các cuộc rước kiệu, bên công
giáo đã treo cờ khắp nơi bên ngoài khuôn viên nhà thờ, sao lúc ấy không có lệnh
cấm và không thi hành lệnh cấm một cách nghiêm chỉnh?

Bây giờ nhằm vào lúc Phật giáo mừng lễ Phật Đản mà nhắc lại lệnh
cấm treo cờ thì có thể hiểu là cố tình nhằm vào Phật giáo, nhục mạ và đàn áp Phật
giáo. Vả lại khi ra lệnh cấm treo cờ đã không có một sự giải thích nào cho dân
chúng hiểu rằng lệnh này áp dụng cho mọi tôn giáo và chỉ có mục đích tránh sự lạm
dụng treo cờ.

Tôi không hiểu trong thâm tâm ông Nolting nghĩ gì chỉ thấy
lúc đó ông gật gù.

- Cha nói có lí.

Sau đó câu chuyện không có gì đặc biệt.

Ngày 15/5 tôi vào dinh Độc Lập gặp ông Diệm để chào ông đi Mỹ,
ông Diệm trách tôi:

- Sao hôm qua cha chỉ trích chính phủ trước một đại sứ ngoại
quốc như vậy? Tôi thật tình thưa lại:

- Thưa Tổng thống tôi không dám chỉ trích chính phủ trong câu
chuyện tôi chỉ đưa ra một vài giải thích sau khi tường thuật cho ông Đại sứ Mỹ
nghe những biến cố xảy ra ở Huế. Tôi thiết tưởng trong một quốc gia tự do mọi
người đã được biết những chuyện đó, và cũng có quyền phê phán. Nhưng thực tình
tôi không phê phán điều gì đáng coi là bất lợi cho chính quyền. Tôi chỉ nói rằng
đáng tiếc là khi ra lệnh cấm treo cờ tôn giáo ngoài khuôn viên chùa hay nhà thờ,
cán bộ thông tin đã không giải thích rõ điều đó là có mục đích để làm cho cờ quốc
gia trở nên có giá trị hơn, thành ra gây sự hiểu lầm cho một số người và gây cớ
cho họ bất mãn và chỉ trích.

Ông Diệm im lặng, nhưng vẫn có vẻ không bằng lòng. Tôi tiếp:

- Thưa cụ, nhân dịp này, tôi xin thưa dài dòng hơn đôi chút.
Nếu cụ muốn hiểu tâm trạng những Phật tử Việt Nam cụ nên đặt mình vào địa vị của
họ. Trước khi cụ về, số giáo dân chỉ vài trăm ngàn, nhờ phong trào di cư, có
thêm gần một triệu giáo dân từ Bắc vào. Tỉ lệ Công giáo trong toàn quốc vẫn là
thiểu số, mà nay Tổng thống và các chức vụ lớn trong chính quyền đều do người
công giáo đảm trách. Dù không có sự thiên vị nào, mà chỉ dựa theo tài năng mà
chọn người, thì bên ngoài người ta cũng có thể hiểu rằng cụ thiên vị bên Công
giáo mà bạc đãi các tôn giáo khác. Mặt khác, ai cũng thấy từ khi cụ cầm quyền,
thì nhà thờ mọc lên khắp nơi, các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đều đã
được tái thiết gần hết, cả những nơi không có bao nhiêu giáo dân cũng có nhà thờ
đồ sộ. Số người theo đạo mới cũng tăng lên mau chóng. Những sự kiện này làm cho
Phật giáo có mặc cảm bị chèn ép, bị bạc đãi, bị bỏ rơi, hay là bị lép vế. Cụ
nên hiểu tâm lí đó của họ mà đối xử cho tế nhị hơn mới có thể dàn xếp dễ dàng
được.

Ông Diệm cau mày:

- Cha có thể thấy là nếu đôi lúc tôi tin người công giáo cũng
chỉ vì nghĩ rằng người công giáo ít có ai theo cộng sản dễ dàng. Hơn nữa nhiều
người không công giáo vẫn được tôi tin cậy và trọng dụng. Tôi cũng đã giúp cho
nhiều chùa chiền. Tôi cho chùa Xá Lợi 500.000 đồng để xây cất. Tôi cũng giúp
cho các chùa Từ Đàm, Diệu Đế để trùng tu. Tại các tỉnh tôi có nhắc các Tỉnh trưởng
giúp đỡ trùng tu các chùa chiền.

Bây giờ cụ nói ra tôi mới biết. Đáng lí cụ nên nói rõ điều đó
cho toàn dân biết để họ khỏi hiểu lầm và đặt những công việc đó vào một chính
sách chung đối với mọi tôn giáo. Tôi vẫn biết nhiều công cuộc kiến thiết của Công
giáo do sự đóng góp của giáo dân và các tổ chức công giáo ngoại quốc, nhưng dân
chúng bên ngoài không hiểu nguồn gốc những khoản tiền lớn lao đó, nghĩ rằng chỉ
có chính quyền giúp tiền cho Công giáo. Nhiều cha còn quá nhiệt thành đến thẳng
tỉnh trưởng, các bộ trưởng xin giúp đỡ và có nhiều trường hợp, hoặc là tỉnh bộ
trưởng có đạo nên hăng hái giúp đỡ, hoặc là họ nể cụ là người công giáo, nên
cũng tìm cách giúp đỡ, tưởng làm như thế được lòng cụ. Những điều đó tạo nên dư
luận chỉ trích chính quyền của cụ thiên vị bên Công giáo.

Ông Diệm làm thinh không nói gì. Tôi giã từ ông ra về.

Hôm sau tôi đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ, mục đích là vận động sự
giúp đỡ ở Mỹ để mở một trung tâm kĩ thuật ở Huế, đồng thời cũng muốn tìm hiểu
dư luận ngoại quốc đối với chính quyền ông Diệm trong lúc này.

***

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3