Thế Giới Người Điên - Chương 04 - 05 - 06
MÙA TRÁI MẮM
Bắt đầu từ tháng mười âm lịch, trái mắm rụng đầy các
kinh rạch rồi theo nước ròng trôi ra sông Cửa Lớn, đổ ra cửa Ông Trang. Trên đường
đi, chúng tự nảy mầm, ra rể và hút lấy phù sa. Khi ra biển, gặp sóng, chúng tạt
vào bãi và những hạt phù sa bám rễ làm cho chúng nặng dần để tự xếp hàng đứng
trên bãi biển. Cứ thế, mỗi một mùa trái mắm là một dãy rừng mắm hình thành vài
trăm mét vươn ra biển Tây để nối dài mũi đất Cà Mau.
Trước khi lên đường khởi quay bộ phim tài liệu “Sông
nước Cà Mau”, đạo diễn Nguyễn Việt Hùng – Giám đốc hãng phim TFS –
căn dặn chúng tôi: “Cố gắng quay cho được cái cảnh phóng lao cá dứa, làm
phim về sông nước xứ mình mà thiếu cảnh đó là tao xếp loại C ráng chịu.”
Chúng tôi hiểu, lời đề nghị của anh không chỉ là một đòi hỏi
về chất liệu nghệ thuật cho một bộ phim mà nó xuất phát từ một nỗi hoài nhớ
trong ký ức xa xôi: Thời chiến tranh, anh là một nhà quay phim trẻ, từng bám
theo những mùa trái mắm, những trận săn tàu trên dòng sông Cửa Lớn – Năm Căn.
Sông Cửa Lớn – theo một tài liệu của Calipso – là một trong một
trăm dòng sông lớn nhất trên thế giới. Song, điều lạ lùng của con sông này là
nó không có thượng nguồn và cũng không có hạ nguồn. Nghĩa là nó bắt nguồn từ biển
đông – tức cửa Bồ Đề – và đổ về biển tây – tức cửa Ông Trang, cắt khu rừng ngập
mặn Năm Căn ra làm hai mảnh. Một mảnh giáp với đất liền, một mảnh giáp với biển
đông và biển tây như ốc đảo từ mũi Cà Mau đến Thủ Tam Giang.
Trong chiến tranh, cái ốc đảo này là vùng
căn cứ, là cái bến cuối cùng của đường Hồ Chí Minh trên biển, để từ đó, vũ khí
được cung cấp cho chiến trường miền tây Nam bộ. Năm 1972, người Mỹ đã
mở ra cái gọi là chiến thuật hạm đội nhỏ trên sông. Nghĩa là bình
quân mười lăm phút thì có một tàu chiến chạy qua dòng sông Cửa Lớn để nã đạn
pháo lên hai bên bìa rừng và để phong tỏa dòng sông nhằm cắt đứt giao thông giữa
các vùng dân cư với vùng căn cứ. Cái cảnh cất nước từng lon, đói ăn trái
mắm bắt đầu từ đó. Trái mắm đã một thời thay cho lương thực. Nhưng
để ăn được, người ta phải luộc đi luộc lại năm bảy lần cho trái mắm không còn vị
đắng rồi chế biến thành nhiều thứ bánh, chè giống như bột đậu xanh.
Những bài hát, bài thơ về mùa trái mắm cũng từ đó ra đời.
Nhưng chuyện ấy rồi cũng mau quên. Mùa trái mắm giờ đây chỉ
còn sâu đậm trong ký ức của người Cà Mau xa quê vì nó gắn liền với mùa săn cá dứa.
Cây mắm bắt đầu ra trái từ tháng sáu âm lịch và kéo dài cho đến
cuối năm. Hai tháng cuối cùng là mùa trái rụng. Đó cũng chính là mùa săn cá dứa,
mùa vui nhộn nhất trên sông Cửa Lớn, đặc biệt là ở Thủ Tam Giang, đoạn sông lớn
gần cửa Bồ Đề. Các cụ già ở đây kể rằng, vào khoảng tháng mười âm lịch, trái mắm
rụng trôi bèo sông, cá dứa từ biển kéo từng đàn vào ăn trái mắm, chúng ăn rất hổn
hào như cá tra nuôi. Trái mắm giàu đạm, vitamin, chất béo và một loại chất an
thần nên khi ăm no, cá dứa bị say, nằm đưa bụng lờ đờ trên mặt nước. Người thợ
săn một tay lạo máy chèo, một tay cầm cây lao, mắt đăm đăm nhìn về phía trước.
Khi cây lao bay vút khỏi tầm tay – người thợ tài nghệ có thể phóng chính xác từ
tám đến mười hai mét – mũi lao ba ngạnh đâm vào bụng cá dứa, nhìn cần lao tre lắc
lư trên mặt sông, người thợ săn cứ để con cá vẩy vùng đến khi đuối sức. Cá dứa
mắc lao thường là cá to, mỗi con từ năm bảy ký. Người thợ giỏi có thể săn được
năm bảy chục con trong một con nước lớn, tức từ lúc ban mai cho đến hết sương
mù.
Mùa trái mắm là thế.
Và hơn thế nữa, mùa trái mắm còn
là dấu ấn bồi đắp cho mũi Cà Mau mỗi năm dài thêm hàng trăm mét.
Nhiều người nói một cách hình tượng
rằng, mắm là loài cây đi tiên phong lấn biển để mở mang bờ cõi.
Các nhà khoa học lâm sinh thì nói
rằng, trong quy luật diễn thế của rừng ngập mặn, sự xuất hiện đầu tiên là cây mắm.
Mắm có vai trò ổn định đất và khi đất được ổn định thì rừng đước hình thành.
Nhưng từ thế hệ rừng mắm sang thế hệ rừng đước phải mất ba mươi năm. Đã có lần,
người ta lập một dự án điều chế rừng ngập mặn khá quy mô để rút ngắm quy luật
diễn thế tự nhiên ấy bằng cách chặt bỏ rừng mắm để trồng đước. Họ lý giải rằng
sự tồn tại của rừng mắm trong ba mươi năm ấy không mang lại hiệu quả kinh tế.
Song, không thấy ai đặt vấn đề ngược lại rằng nếu chặt bỏ rừng mắm thì lấy đâu
ra trái mắm để lấn biển, để mở đất và để ổn định đất cho rừng đước hình thành,
để tạo nên cái quy luật diễn thế tự nhiên đẹp như huyền thoại ấy?
Như đã nói trên, bắt đầu từ tháng
mười âm lịch, trái mắm rụng đầy các kinh rạch rồi theo nước ròng trôi ra sông Cửa
Lớn, đổ ra cửa Ông Trang. Trên đường đi, chúng tự nẩy mầm, ra rể và hút lấy phù
sa. Khi ra biển, gặp sóng, chúng tạt vào bãi và những hạt phù sa bám rễ làm cho
chúng nặng dần để tự xếp hàng đứng trên bãi biển. Cứ thế, mỗi một mùa trái mắm
là một dãi rừng mắm hình thành vài trăm mét vươn ra biển tây để nối dài mũi đất
Cà Mau. Đứng từ biển khơi nhìn vào, ta có thể thấy những lớp rừng từ thấp đến
cao như những tầng ruộng bậc thang trên núi. Mỗi một tầng như thế là dấu ấn của
một mùa trái mắm, là cuộc hành trình của một loài cây như đoàn quân đi mở cõi.
Đoàn phim chúng tôi trở lại Tam
Giang, cửa Bồ Đề, cũng vào tháng mười âm lịch. Nơi đây ngày xưa vào những sáng
tinh mơ, khi sương mù lãng đãng, dòng sông như ngày hội phóng lao. Rừng âm u,
sương âm u, từng giề trái mắm trôi lều bều trên mặt sông, từng tốp, từng tốp thợ
săn, tay lạo xuồng, tay cầm lao ẩn hiện trong màn sương tạo thành bức tranh lụa
hoành tráng, mượt mà, lung inh, huyền ảo. Bây giờ, tất cả đã trở thành chuyện kể.
Rừng không còn, sương sớm cũng không còn, tái mắm cũng không còn. Sông Cửa lớn ồn
ào, tấp nập bởi ca-nô, vỏ tốc hành, vỏ compusic, máy xe, máy Honda, Robin, BS đủ
thứ mã lực thay nhau, đua nhau tung trắng nước những dòng sông.
Chúng tôi đi tìm anh Lẹt, một tay
sát thủ cá dứa và thú rừng một thời vang bóng. Nhà của Lẹt ngày xưa khuất trong
bạt ngàn cây mắm. Giờ nó chơ vơ giữa những vuông tôm. Trước mắt chúng tôi, con
“người rừng” ngày xưa giờ mang đậm màu sắc thị trường: Đầu
đinh, quần jean, áo thun sặc sở đang ngồi dưới vỏ compusic, máy honda 11, tay cầm
điện thoại di động, miệng gào thét giá cả với chủ vựa tôm. Khi chúng tôi ngỏ lời
nhờ anh đi phóng lao cá dứa để quay phim, Lẹt cười khinh khỉnh: “Các anh muốn
phóng cự ly bao nhiêu, tám mét hay mười lăm mét cũng được, miễn tìm cho tôi một
con cá dứa... chuyện đó xưa như trái đất rồi cha nội ơi!” Nói xong, lẹt giật
dây cho máy nổ rồi vẫy tay chào, để lại làn nước tung tóe phía sau.
Suốt hai buổi chiều, chúng tôi
thuê chiếc đò dọc dầm mưa bám theo những chiếc ghe câu từ Tam Giang ra cửa Bồ Đề
mới mua được hai con cá dứa to chừng ba ký. Chiều hôm ấy, sau khi nhờ các anh ở
ủy ban xã tìm kiếm được hai anh thợ săn, hai chiếc xuồng chèo và hai cây lao,
chúng tôi nhét đầy mốp xốp vào bụng hai con cá dứa để chuẩn bị cho những khung
hình. Cuối cùng cũng có một trường đoạn phóng lao cá dứa trên sông Cửa Lớn.
Phim đã phát sóng nhiều lần,
chúng tôi đã lừa được số đông khán giả. Nhưng chắc chắn không thể lừa được những
người đã từng sống qua những mùa trái mắm ở Năm Căn.
ĐI TÌM MÙA LEN
TRÂU
Hồi ấy, trước
nhà tôi là một cánh đồng năn ngút ngàn xanh đến tận chân trời. Từ sau mùa cấy đến
đầu mùa gặt là khoảng thời gian con trâu được phép nghỉ ngơi. Chủ trâu từ tứ xứ
đưa chúng đến để hưởng thụ cỏ non, để bù đắp công sức sau một mùa cày và để lấy
sức cho mùa cộ lúa.
Năm 1997, hãng phim Giải phóng
giao cho chúng tôi thực hiện bộ phim tài liệu về con trâu. Bấy giờ là mùa sa
mưa, đồng ruộng bắt đầu loang loáng nước. Chúng tôi thực hiện những cảnh quay đầu
tiên tại ấp Đồng Sậy, thuộc huyện Thới Bình – Cà Mau. Chiều hôm ấy, sau khi
nghe chúng tôi trình bày những yêu cầu về một hiện trường, anh Khánh – trưởng
ban nhân dân ấp – liền chèo xuồng đi rước mấy người chủ trâu trong xóm đến nhậu.
Sáng hôm sau, một cánh đồng vào mùa diễn ra y như thật: Trâu cày, trâu bừa,
trâu trục, trâu nhơi cỏ, tiếng ví thá vang đồng của người nông dân, tiếng nghé
ngọ của những chú mục đồng... tất cả chỉ là diễn, diễn mà như thật, thật đến nổi
diễn viên chuyên nghiệp chưa chắc đã diễn bằng.
Sau cảnh quay ấy, tất cả công cụ
được chuyển lên xuồng để đưa vào kho, đàn trâu tự do ăn cỏ. Bất chợt, một chiếc
máy cày chạy ra đồng, lao vào giữa đàn trâu. Những con trâu hoảng hồn bỏ chạy,
có con ngơ ngác đứng nhìn chiếc máy cày. Chúng tôi thu được những khung hình vô
cùng đắt giá mà không hề tính trước, cũng không có trong kịch bản. Đó là hình ảnh “đi
chỗ khác chơi” của một kiếp trâu khi cơ giới nông nghiệp ra đời.
Ba tháng sau, lúa phủ xanh đồng,
sắp sửa vào mùa nước nổi, chúng tôi về Hồng Dân, Bạc Liêu để quay cảnh mùa len
trâu. Nhưng suốt ba ngày lang thang trên cánh đồng chó ngáp, chúng tôi chẳng
tìm đâu ra một cánh đồng hoang, cánh đồng đầy trâu như thời thơ ấu của mình. Những
vuông tôm chằng chịt như bàn cờ, những dòng kinh, những bờ đê thẳng tấp, những
dãy nhà ngói đỏ giăng giăng. Những thằng Thành, thằng Lập, thằng Nam, những bác
Hai, chị Vân, chị Cúc của một thời chăn trâu khét nắng bây giờ nói chuyện vàng
cây vàng lá sau mỗi vụ tôm.
Hóa ra mình chính là người lạc hậu,
cứ ngỡ về đây sẽ gặp lại mùa len trâu như gặp lại tuổi thơ mình. Hồi ấy, trước
nhà tôi là một cánh đồng năn ngút ngàn xanh đến tận chân trời. Từ sau mùa cấy đến
mùa gặt là khoảng thời gian con trâu được phép nghỉ ngơi. Chủ trâu từ tứ xứ đưa
chúng đến để hưởng thụ cỏ non, để bù đắp công sức sau một mùa cày và để lấy sức
cho mùa cộ lúa. Ở đây có những người chăn trâu chuyên nghiệp, mỗi người có thể
lãnh chăn một trăm, hai trăm con trâu tùy theo sức của mình. Chẳng hiểu từ khi
nào và lý do gì, người ta gọi đó là mùa len trâu. Khi trâu đã nhập thành bầy,
những con trâu đực cổ bắt đầu nghinh chiến, chúng đấu nhau quyết liệt để giành
ngôi vị cầm bầy, xem ra cũng giống hệt như những đại ca tranh quyền cai trị
trong giới xã hội đen. Lúc bấy giờ, người chăn trâu chỉ cần quản con trâu cầm bầy
là quản được tất cả. Và, bản thân chúng cũng tự biết bầy đàn của mình để không
lẫn lộn với những bầy trâu khác. Khi gió bấc bắt đầu rao ngọn cũng là lúc trâu
nhớ nhà nhớ chủ, chúng ngơ ngác, ngóng trông rồi tự động tách bầy để lặn lội về
quê. Người chăn trâu cực nhất là lúc ấy, phải cột dây mũi chúng vào cọc để chờ
ngày chủ đến đón. Trong mối quan hệ giữa chủ trâu và người chăn trâu cũng có những
quy định bất thành văn. Ví dụ như trâu chết do dịch bệnh hay do bom đạn chiến
tranh thì chỉ cần báo ngay cho chủ biết mà không phải bồi thường. Công giữ mỗi
con trâu trong một mùa được tính bằng lúa, nếu trâu ốm sẽ bị trừ công và mùa
sau họ giao cho người khác giữ. Có những chủ trâu tốt bụng, khi đến đón trâu về,
họ tặng cho người chăn trâu áo quần và bánh mứt.
Hồi ấy tôi thèm có một đôi trâu
nhưng chỉ là mơ ước. Người ta nói: Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua đất. Đất
với trâu là thước đo giá trị tài sản của nhà nông. Uy thế, địa vị của người
nông dân trong làng xóm, trong cộng đồng phụ thuộc vào số lượng trâu và đất.
Không có đất, không có trâu, tôi luôn luôn thấy mình thấp hèn, nhỏ bé trong quan
hệ bạn bè.
Bây giờ, trở về quê cũ tìm trâu để
quay phim, lại bị bạn bè xưa cười chê mình ngây ngô, rồ dại. Thằng bạn tôi nói:
“Trâu hả, xưa rồi Diễm, ngay cả chiếc máy cày, mấy mươi năm trước nó là niềm mơ
ước của nông dân xứ mình, bây giờ mày thấy đó, chỉ là đống sắt vụn”. Nó vừa nói
vừa chỉ tay ra sau hè, chỗ mái hiên che chiếc máy cày đầy nhện giăng và bụi
bám.
Tôi nghe mừng cho bà con, một sự
đổi đời mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Nhưng tiếc cho bộ phim của mình, nếu
không có cảnh mùa len trâu thì không thể gọi là phim.
May thay, một hôm tình cờ ghé vào
một tiệm ảnh ở Cà Mau, thấy nghệ sĩ nhiếp ảnh Nam Sơn phóng một cuốn phim toàn
là trâu. Trời ạ, đúng là trâu len! Tôi hỏi ông chụp cái này ở đâu vậy. Sơn nói:
“Cũng tình cờ thôi, hôm nọ về Cái Tàu mua đất, tình cờ gặp một cánh đồng
hoang...” Rồi Sơn nhìn tôi trân trân: “Ông làm gì mà thấy trâu mừng hơn thấy
vàng vậy?”. Tôi nói: “Thì vàng đây chớ còn gì nữa”.
Không cần phải báo với hãng phim,
tôi thuê chiếc caméra M9000 rồi nhờ anh phóng viên của đài truyền hình đi ngay
xuống vàm Cái Tàu bằng đò dọc. Thì ra, ở phía sau dòng sông Trẹm còn có một mùa
len trâu “thu nhỏ”: Một cánh đồng năn chật hẹp, một đàn trâu năm bảy chục con,
một thằng bé đầu tóc bù xù, vàng hoe bơi xuồng lùa trâu trong nắng chiều lấp
lánh. Tôi chợt nhớ đến Hoàng Anh Việt, một nhà thơ đã gát bút về với ruộng đồng:
Có thể rồi tôi
đi làm ruộng
Cây phảng trên
vai, cơm nguội, mắm đồng
Nuôi con lớn
khôn ba tôi chỉ cần có thế
Không vẩn đục cuộc
đời, không gợn chút bon chen
Có thể rồi tôi
đi giữ trâu len
Giữa mênh mông đồng
cỏ năn, tôi với chiếc xuồng con làm bạn
Mái tóc bù tung
vàng hoe cùng nắng
Nghe lỏm bỏm bước
trâu về, lắng đọng những buồn vui.
Đó là bài thơ Việt viết cách nay
gần hai mươi năm, trước khi anh bỏ cơ quan Hội văn nghệ để về quê. Một bài thơ
đẹp, một ước mơ đẹp. Nhưng Việt bây giờ không phải làm ruộng, không phải giữ
trâu len. Nghe nói anh đang nuôi tôm sú ở Tân Thành, giàu lắm.
NHỚ ĐỒNG
Nhiều khi tôi tự vấn: Tại sao
mình không thể thiếu món cá trê kho khô hoặc kho gừng trong mỗi bữa ăn, nhất là
món cá trê kho sền sệt trong ui đất. Dù là bạn bè mời đi ăn tiệc sang trọng ở
nhà hàng, tôi cũng chỉ ăn qua loa rồi lại quay về với cái mẻ cá trê kho.
Cứ mỗi lần đọc báo thấy bóng dáng
của con cá đồng, và cứ mỗi năm vào mùa gió chướng thì tôi lại nhớ đồng da diết.
Trong nỗi nhớ miên man ấy có một cái điểm dừng, cái dấu ấn sâu đậm nhất là đi bắt
cá đồng vào buổi chiều ba mươi tết, cách nay gần bốn chục năm.
Tôi lớn lên bên cánh đồng Chó
Ngáp, cái tên ấy không biết có tự bao giờ. Ba tôi giải thích rằng từ rất xa
xưa, khi vùng đất này mới khẩn hoang, có một gã thợ săn dẫn con chó đi qua đây,
một cánh đồng năn mênh mông đến nổi nhìn bốn phía chỉ thấy đường chân trời, con
chó đi qua phải ngáp vắn ngáp dài nên gã thợ săn ấy đặt tên là đồng Chó Ngáp.
Xóm tôi ở có tên gọi là Thất Giồng
Bớm. Nguồn gốc của địa danh này thì tôi không cần ai giải thích, bởi cách nhà
tôi không xa là cái Tòa Thánh Cao Đài Hậu Giang đã bị Pháp đánh bom sụp đổ, còn
lại mấy bức tường, và trên một bức tường cao có một cây gừa cổ thụ. Nó là dấu ấn
của quê hương, bởi những ai đi xa khi trở về thì hình ảnh đầu tiên lọt vô tầm mắt
chính là bóng dáng của cây gừa. Còn hai chữ Giồng Bớm thì là một giồng đất bên
cạnh Tòa Thánh mọc toàn là cây bướm gai. Gọi trại thành Giồng Bớm, hay nói đúng
hơn là dân quê thường hay bỏ bớt một vài phụ âm cho dễ gọi.
Tôi sống trên cánh đồng này từ
năm ba tuổi cho đến hết chiến tranh, cho nên mọi cái bắt đầu cho nhận thức của
con người từ trực quan đến tư duy cũng là cánh đồng này. Một cánh đồng của chiến
tranh và nghèo khó.
Chiến tranh là tử-biệt-sinh-ly, ở
đâu cũng thế. Nhưng sự nghèo khó thì mỗi nơi mỗi khác, bởi cuộc mưu sinh nó gắn
liền với sông nước, đất đai, cỏ cây và sản vật của mỗi vùng. Sống với thiên
nhiên, có cái gì ăn cái nấy nên lớn lên đi xa, mỗi con người mang theo một quê
hương với những hình ảnh khác nhau.
Vậy thì xứ tôi, cái đồng Chó Ngáp
ấy, sự giàu có nhất của thiên nhiên là con cá trê vàng.
Khác với miệt vườn, đồng Chó Ngáp
là xứ đồng khô cỏ cháy cho nên gần Tết năm nào lũ trẻ chúng tôi cũng đổ xô đi
tìm lá chuối lá dừa để gói bánh mà chẳng đủ đâu. Tuy vậy, nhà nào cũng gói cho
bằng được năm bảy chục bánh ích để cúng ông bà, phần bột ướp đường mía còn lại
đem đúc trong cái dĩa nhôm rồi phơi khô, gọi là bánh tổ. An hết bánh ích, lấy
bánh tổ ra cắt từng miếng mỏng, bỏ vô chảo mỡ chiên cho mềm ra, hơi phồng lên một
chút, ăn cũng ngon lành qua ba ngày tết.
Thiếu bánh, thiếu mứt là vậy
nhưng cá thì không bao giờ thiếu. Tôi nhớ năm ấy hình như tôi khoảng năm sáu tuổi.
Chiều ba mươi Tết, ba tôi dẫn tôi ra ruộng bắt cá trê vàng về rọng để Tết ăn.
Ông xách theo một cái thùng thiếc, loại thùng dầu lửa con sò mà hồi ấy, hầu như
nhà nào cũng có. Cánh đồng lúc ấy lúa mùa đang chín tới, có chỗ khô, chỗ còn
xem xép nước. Đứng trên bờ mẫu, ba tôi chắp hai tay sau lưng, nhìn mênh mông
như chiêm nghiệm một điều gì. Tôi biết ở những chỗ đất trũng, lúa sập, chỗ nào
cũng đầy cá mắc cạn vì chúng không kịp xuống đìa. Nhưng ba tôi thì có nhiều
kinh nghiệm, ông biết được dưới những cái trũng ấy, chỗ nào cá lóc, chỗ nào cá
trê, chỗ nào cá rô và cá sặc.
Nhìn một lúc, ông vẫy tôi lội xuống
cái bàu cạn giữa ruộng của chú Bảy Nhiều. Quả nhiên là ông đoán đúng. Đi gần tới
đã nghe tiếng cá trê ục ục. Một cái bàu cạn bằng ba cái nền nhà, nước còn xem
xép chừng một tấc. Nghe tiếng động, cá trê chui vào ém trong gốc lúa sập. Ba
tôi chỉ làm một động tác rất đơn giản: Úp nhẹ hai bàn tay lên gốc lúa rồi từ từ
moi ra một con cá trê vàng, con nào con nấy lớn hơn bắp tay, mập ú và vàng như
nghệ.
Mặt trời sắp lặn, nhìn thùng cá sắp
đầy, ba tôi nói thôi, bắt một hồi nữa làm sao xách nổi.
Khi tôi biết thế nào là Tết thì
đó là cái Tết đầu tiên, ngày nào cũng ăn cá trê vàng nướng dầm với nước mắm gừng.
Mẹ tôi nói rằng ba tôi là một người
sát cá, đặc biệt là cá trê. Hồi luận 10/ 59 của Ngô Đình Diệm, ông ở tù với đầy
đủ vật chứng của một cán bộ nằm vùng, và để khỏi bị đưa lên máy chém, mẹ tôi phải
chạy vay ba trăm giạ lúa để lo hối lộ cho cảnh sát Bạc Liêu. Vậy mà khi ra tù,
ba tôi chỉ giăng hai mùa câu thì trả xong nợ. Theo mẹ tôi giải thích rằng vì cá
trê vàng hồi ấy có giá nhất trong các loại cá đồng. Đó là lý do vì sao ba tôi
có kinh nghiệm bắt cá trê vàng hơn các loài cá khác.
Có lần tôi thắc mắc rằng, giữa
mênh mông đồng nước, khi miếng mồi thả xuống thì có nhiều loài cá đến ăn, con
nào đến trước thì ăn trước, làm sao mà ba giăng câu chỉ dính toàn cá trê vàng.
Ba tôi giải thích rằng: Cá lóc, cá rô thích ăn mồi chạy như cào cào, nhái, cua
đồng nên chúng hay đi tìm mồi cặp mé bờ và trên mặt nước. Con cá trê vàng hay
vùi mỏ dưới bùn hoặc quanh gốc lúa để tìm các loại côn trùng. Vì vậy, để miếng
mồi câu chỉ dành riêng cho cá trê, trước hết phải vét một vùng như cái lòng chảo,
vuốt thật láng, đặt miếng mồi ngay giữa. Vài phút sau bùn lắng xuống, che lấp
miếng mồi, các loài cá khác không nhìn thấy được, nhưng đó lại là chỗ tìm mồi
lý tưởng của cá trê.
Thế rồi, một sáng tháng 5 năm
1967, sau một trận biệt kích của giặc, mẹ tôi bảo mấy chị em tôi ở nhà vo gạo nấu
cơm để bà đi thăm hàng xóm coi có ai gặp mệnh hệ gì không. Bất ngờ tôi thấy mẹ
tôi ngồi gục đầu trên bờ đám mạ giữa cánh đồng. Chúng tôi chạy ùa ra. Mẹ tôi
đang khoát nước tắm cho ba tôi lần cuối cùng trên bờ mẩu. Ông mặc chiếc áo bà
ba đen, hai mươi vết đạn cạc-bin vừa xuyên qua ngực áo.
Những năm tiếp theo, tôi lao vào
cuộc mưu sinh trên cánh đồng với cái nghề cắm câu cá trê vàng do ba tôi để lại.
Những chiều, khi xuống cần câu sau cùng, tôi hay trở về nhẩn nha trên cái bờ mẩu
ấy. Tôi lại ngồi trầm ngâm giữa đồng lúa mênh mông nhưng không chỉ để chiêm
nghiệm ra chỗ nào là nơi ẩn náo của cá trê, bởi cánh đồng giờ đây đã ghi thêm dấu
ấn của một kiếp người.
Hơn ba mươi năm xa quê, cứ mỗi lần
đi chợ mua cá trê vàng, mỗi lần lựa cá ngon, cá béo để mua, tôi cứ ngỡ như mình
đang mua lại những con cá của chính tôi. Bởi ngày xưa, sau mỗi buổi sáng thăm
câu, tôi đều lựa những con cá béo, cá ngon để bán, chừa cá dạt, cá chết lại ăn.
Âu đó cũng là quy luật của cuộc mưu sinh, một quy luật bảo toàn sự sống.
Bây giờ thì tôi đã nghiệm ra, cái
mẻ cá trê vàng kho sền sệt trước mặt tôi trong mỗi bữa ăn, đó chính là sự tích
tụ của cả một cánh đồng. Một cánh đồng với mồi hôi nước mắt và cả máu của ba
tôi, một cánh đồng của trọn tuổi thơ tôi với bao mùa mưa nắng.
Sài gòn, tháng
11 năm 2003.