Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 10) - Chương 3 phần 1
III.
Những dòng ghi chép của mẹ tôi dừng tại đây. Năm
mươi năm sau tôi thường tình cờ nói về lần hạ trại của chúng tôi trong những
khu rừng đã biến mất và mẹ tôi đã cắt ngang lời tôi một cách giận dữ:
- Mẹ không muốn nghĩ tới việc đó nữa.
Tôi không nhớ cha tôi đã mất bao nhiêu ngày lùng kiếm
một khoảnh đất có thể mua nổi bằng tờ giấy một trăm đô la bí mật. Mỗi buổi
sáng cha tôi cưỡi ngựa đi với một nhân viên điền địa, lên xuống những ngọn đồi
và quay về vào buổi tối không tìm được gì.
Paul, George và tôi đều rất vui. Sau tình trạng nhạt
nhẽo kéo dài của những ngày buồn nản mà chúng tôi khó nhớ lại ở De Smet, lúc
này mỗi ngày đều là ngàychủnhật không cần có quần áo chải chuốt và
cư xử đúng các khuôn phép. Lần hạ trại trở thành cắm trại ngày chủ nhật với mấy
cỗ xe của gia đình Cooley ở một bên, xe của chúng tôi ở một bên, ở giữa là bàn,
ghế và chiếc võng giăng dưới bóng cây trong khu rừng nhỏ. Chiếc lò nấu được đặt
ở một khoảng xa phía bên kia những cây tần bì mát rượi. Xa hơn nữa, những con
ngựa được buộc dưới các cội cây và sau những cỗ xe là nơi quây lại làm chỗ tắm
rửa của chúng tôi trong ngày chủ nhật.
Chúng tôi phải quanh quẩn trong tầm nhìn hoặc ít nhất
là nghe rõ tiếng gọi của các bà mẹ, nhưng ngay sau khi các công việc buổi sáng
được làm xong, chúng tôi hoàn toàn tự do chơi ở trong rừng. Suốt ngày chúng tôi
trèo cây, hái trái, ăn những quả óc chó, quả phỉ xanh, kẹp vỡ chúng giữa hai
hòn đá. Chúng tôi ngắm những con thỏ mà chúng tôi không được phép đuổi theo ra
xa, ngắm những con sóc, những con chim, những con bọ cánh cứng hoặc những ổ kiến.
Không khí tràn ngập mùi vị nồng đậm của gỗ mục, hạt khô, những thảm lá sồi rụng
từ năm trước ẩm ướt. Những cọng bồ công anh đắng nghét trên đầu lưỡi và những
búp lá non rũ xuống quanh tai tôi.
Những phiến đá phẳng sắc cạnh xếp dầy dưới bàn chân.
Chúng tôi chạm ngón chân vào chúng và ngón chân cái của chúng tôi phải bọc vải
kín. Các vết bầm trên những gót chân chai sạn của chúng tôi không cản nổi chúng
tôi chạy nhảy. Chúng tôi thấy những đám nấm và rêu mọc chen chúc như những khu
rừng bé xíu, những cây leo màu xám xanh phủ trên các tảng đá, những lớp da châu
chấu hoàn hảo, trống rỗng, mỏng giòn bám vào những cây lớn bằng các móng chân
li ti.
Chúng tôi lượm được nhiều viên đá kì lạ. Khi tôi
cho cha tôi một viên đá dẹt hình tam giác có gợn sóng phía trên và một mũi sắc
nhọn, cha tôi bảo đó là một đầu mũi tên của người da đỏ. Chúng tôi sưu tập hàng
tá những thứ này và Paul kiếm được một viên đá hình đầu rìu.
Một bữa tôi phải ở lại lều trại với bà Cooley. Tôi
được nhắc nghe lời theo bà và không được rời khỏi tầm mắt của bà. Cha tôi đã
tìm ra đất. Mẹ tôi đi cùng với ông tới coi và cả hai không muốn có gì lo ngại về
tôi trong lúc đi vắng. Không bao giờ có một buổi sáng dài như thế. Tôi rất bối
rối và bà Cooley cũng thế. Cuối cùng, khi tôi nhìn thấy những con ngựa và cha mẹ
tôi đang trở về, tôi ngỡ như đang nổ tung ra. Tôi khó giữ nổi im lặng chờ được
nghe nhắc tới.
Cha tôi tươi rói và mẹ tôi mặt mày rạng rỡ. Chưa khi
nào mẹ tôi nói nhanh như thế. Mẹ tôi nói với bà Cooley rằng đúng là nơi cha mẹ
tôi muốn có và còn vượt nhiều hơn cả sự mong mỏi nữa. Một dòng suối chảy quanh
năm với thứ nước tốt nhất để uống không biết chán, một căn nhà gỗ gọn gàng giữa
những khu rừng, trên một ngọn đồi chỉ cách thị trấn một dặm rưỡi nên Rose có thể
đi bộ tới trường và còn phải nghĩ thêm đến bốn trăm cây táo non đã được bao gốc
để sẵn sàng đặt xuống khi đất được dọn xong. Cha mẹ đã mua khu đất và ngay khi
ăn bữa trưa xong sẽ tới ngân hàng kí kết giấy tờ. Chúng tôi sẽ rời chỗ trong
buổi chiều hôm đó.
Khi bị kích động, cha tôi luôn trấn tĩnh, im lặng đi
lại và nói năng từ tốn. Nhiều lúc mẹ tôi như vụt bay tới cha tôi, nhưng hôm
nay mẹ tôi rất nhẹ nhàng, ấm áp. Mẹ để cho cha ngồi ăn trong lều trại, dặn tôi
dọn dẹp bàn, rửa chén đĩa khi cha ăn xong rồi mẹ đi vào chỗ quây tắm để chuẩn bị
cho cuộc gặp mặt tại ngân hàng.
Tôi ngồi chênh vênh trên một gốc cây, ngắm mẹ chải
và bện tóc. Mẹ có mái tóc thật đẹp, màu nâu hung, dày và rất mịn. Không bện,
tóc mẹ xõa tới gót chân, dài tới mức khi đã bện chắc lại, mẹ có thể ngồi trên
các bím tóc của mình. Bình thường, tóc mẹ được bện thành bím lớn ở sau gáy nhưng
khi kéo áo lên, mẹ phải lôi tóc ngược lên và đau đầu khủng khiếp.
Lúc này mẹ kết tóc thành bím rồi cuốn vòng thành một
búi lớn sau gáy, cài chặt lại bằng chiếc kẹp mai rùa. Mẹ gỡ những lọn tóc phía
trước cho hơi xõa xuống trán, nhìn vào chiếc gương nhỏ gắn trên một thân cây và
thình lình, tôi nghe thấy mẹ đang huýt gió. Tôi nhớ rằng sau này tôi không còn
nghe thấy mẹ huýt gió nữa. Mẹ đã nói một cách vui vẻ:
- Con gái huýt gió và gà mái gáy luôn đi đến những kết
cục xấu.
Bây giờ mẹ vẫn đang huýt gió. Mẹ huýt gió theo một
điệu chim hót nhẹ nhàng, trong trẻo, dịu ngọt, líu lo rồi luyến láy và buông
rơi từng nốt như tiếng chim chiền chiện lảnh lót vọng xuống từ lưng trời. Tôi rất
vui nếu được nghe mẹ huýt gió trở lại.
Vừa huýt gió, mẹ vừa đóng nút giầy. Mẹ lấy chiếc áo
đầm vải ra rồi gấp lại gọn ghẽ. Trong bộ đồ lót mu-xơ-lin trắng và chiếc áo nịt
có viền đăng ten, mẹ lôi chiếc áo đầm đẹp nhất, chiếc áo cưới màu đen vẫn nằm
im trong thùng từ lúc mở đầu chuyến đi rời khỏi Dakota. Mẹ vẫn huýt gió: Em yêu
quý, đừng vì anh rơi lệ. Mẹ vuốt thẳng lại những nếp váy. Tôi tiếc là chiếc váy
che kín hết đôi giầy mới của mẹ. Mẹ xỏ tay vào những ống tay áo vừa khít và cẩn
thận cài hàng nút ở phía trước lên tới sát cằm. Chiếc kẹp vàng được cài giữ dải
nơ màu xanh trứng chim trước cổ áo thẳng đứng. Rồi, tới điều cuối cùng và cũng
là đỉnh điểm: mẹ gắn lên chiếc nón màu đen dải nơ màu xanh và chiếc thoa mang
hình bông lúa dựng thẳng đứng ở một bên. Những bím tóc ở sau gáy đẩy chiếc mũ
hơi nghiêng về trước một chút và diềm mũ trước trán vừa chạm vào các lọn tóc.
Mẹ có vẻ dễ thương và thật đẹp. Qua ánh mắt của cha
nhìn mẹ khi mẹ bước ra thì chắc cha cũng nghĩ thế.
Mẹ nhắc cha chuẩn bị nhanh để không trễ giờ, nhưng
giọng mẹ như đang hát, không bận tâm thứ gì. Cha bước vào chỗ quây tắm để thay
áo, chải tóc, râu và đội chiếc nón mới. Mẹ nói với tôi là lo dọn sạch bàn ngay
rồi nhớ lo rửa chén đĩa khi cha mẹ đi vắng và như thường lệ, mẹ nhắc phải cẩn
thận để không làm vỡ chiếc nào. Tôi chưa bao giờ làm vỡ một chiếc đĩa.
Tôi vẫn nhớ rõ ràng chuyện bữa đó vì sự việc xảy ra.
Tôi đã mang chén đĩa đi và lau sạch bàn. Mẹ tôi đặt lên bàn chiếc khăn tay, chiếc
bóp vải nhỏ màu đỏ với các cạnh bằng xà cừ. Mẹ đang mang bao tay mỏng nhẹ. Cẩn
thận, mẹ đem chiếc bàn viết ra đặt lên mặt bàn. Mẹ lật nghiêng phần đậy phía
trên lên, lôi chiếc khay gỗ hẹp dùng đựng bút và lọ mực.
Tờ giấy một trăm đã biến mất.
Một cú sốc giống như bước hụt chân từ một đỉnh cao
vào bóng tối. Nhưng không thể nào không phải chuyện thực. Chỗ cất tiền trong
chiếc bàn trống lốc. Mọi thứ đảo lộn hết. Trong sự choáng váng căng thẳng, cha
mẹ tôi như không còn là họ nữa và tôi cũng cảm thấy không còn là tôi.
Cha mẹ hỏi tôi có kể với ai không? Không. Tôi có khi
nào nói một điều gì với ai về món tiền đó không? Không. Tôi có thấy người lạ
nào tới gần xe trong lúc cha mẹ đi vắng không? Không.
Hoặc có ai vào lều không? Không.
Mẹ nói khó mà tin được, vì gia đình Cooley không làm
chuyện này. Cha tôi đồng ý, gia đình đó không làm. Vậy thì nó phải ở đó. Mẹ tôi
còn nhìn thấy tờ giấy bạc khi tớiKansas.
Cha mẹ lôi tất cả giấy tờ trong hộc bàn ra để tìm, mở
từng bao thư để nhìn vào phía trong. Cha mẹ lật ngược chiếc bàn lên và lắc mạnh
để lay động những chiếc nắp ở phía trong. Mẹ tôi nói không thể nào hiểu nổi. Đột
nhiên, mẹ nảy ra một ý nghĩ và hi vọng, hỏi tôi có đem tờ giấy bạc ra chơi
không?
“Không!” Tôi như bị phỏng lửa. Mẹ hỏi nữa coi tôi có
chắc không? Tôi không một lần nào mở chiếc bàn để chơi chứ? Họng tôi như bị
sưng nghẹt, tôi lắc đầu, không. Mẹ nói một cách tự nhiên:
- Đừng khóc.
Tôi không khóc, không khi nào tôi khóc, nhưng tôi tức
giận, vì bị lăng mạ và khổ sở. Tôi không còn là đứa bé để đùa chơi với đồng tiền
hoặc nghịch ngợm mở chiếc bàn ra. Tôi sắp tám tuổi rồi. Tôi cảm thấy nhỏ nhoi,
đơn độc và kinh hoàng. Cha mẹ tôi ngồi đó, bất động. Trong sự lặng lẽ kéo dài,
tôi từ từ chìm sâu vào nỗi khiếp hãi, một nỗi khiếp hãi hoàn toàn vô cớ, một nỗi
khiếp hãi trong ác mộng.
Cuối cùng, mẹ tôi nói:
- Thôi.
Ý mẹ muốn nói vô ích khi than khóc cho số sữa bị chảy
tràn. Điều gì không thể thay đổi được thì phải chịu đựng. Cha tôi nói mẹ không
nên trách cứ mình vì không phải lỗi của mẹ. Một cách thận trọng, mẹ tháo những
chiếc găng tay mỏng. Mẹ lộn phải trở lại từng ngón tay, vuốt cho phẳng. Mẹ nói
tốt hơn là cha hãy tới giải thích với người của ngân hàng.
Bằng cách nào thì chuyện tệ hại nhất cũng qua, khi
cha cố trì hoãn với câu nhắc nhở mọi chuyện còn có thể thay đổi và mẹ phát cáu
nói lớn rằng cha đã quá biết là “chẳng có gì thay đổi khi chính mình không thay
đổi nổi mình.” Rồi mẹ nhắc tôi ra ngoài chơi và tôi nhớ tới những chiếc đĩa còn
chưa rửa. Mẹ đã quên khuấy chuyện đó.
Nhiều ngày, tôi không nhớ rõ là bao nhiêu ngày, mọi
việc có vẻ giống như thường lệ và cũng chẳng có vẻ gì giống như thường lệ. Tôi
không nói một lời nào về chuyện xáo trộn, tôi không thích nhắc tới. Mẹ tôi nói
với bà Cooley là tốt nhất cần có thời gian ổn định lại tinh thần. Cha tôi vào
thị trấn kiếm việc làm. Mẹ tôi không quen ai ở đấy. Ông Cooley đã bán một cặp
ngựa và một cỗ xe còn Paul với George sẽ tới giúp việc cho một khách sạn. Tôi
biết chúng tôi có thể bán những con ngựa nhưng sau đó sẽ ra sao? Những cỗ xe vẫn
chạy ngược xuôi mỗi ngày và đôi khi hạ trại ở gần bên. Tôi thường cố nghĩ xem
chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng tôi không còn gì để ăn. Tôi không thể hình dung nổi
thế nào.
Lúc này trái mâm xôi chỉ còn rất ít và nhỏ hơn. Tôi
đi sâu hơn vào những lối đi đầy cây mọc chằng chịt để lùng kiếm nên khi mẹ gọi
và gọi thêm nữa, tôi vẫn chưa thể ra khỏi những bụi cây đầy gai nhọn mà không bị
rách áo để chạy trên các tảng đá sắc trở về lều trại. Cha tôi đang đóng ngựa và
mẹ đang bỏ những món đồ cuối cùng vào trong thùng xe. Cha mẹ tôi đã mua trại. Mẹ
đã tìm thấy tờ giấy bạc một trăm đô la. Trong ngăn dùng làm bàn viết. Sự dằn
xóc đã đẩy nó vào trong một kẽ ván và tôi không còn thắc mắc nữa, bước lên xe.
Ngay khi thấy tờ giấy bạc, mẹ tôi đi kiếm cha tôi và lo đi kí các thứ giấy tờ
liền. Và bây giờ tôi ở đó, chưa kịp rửa chân đã nghe lời mẹ leo luôn lên ghế ngồi
trên xe và không nói thêm một lời nào về chuyện đó.
Thị trấn mở đầu với hai căn nhà nhỏ ở hai bên đường
trong một khu rừng. Rồi có hai ngôi nhà lớn giữa những khoảng sân rộng trồng
cây và một căn nhà nhỏ thấp dễ thương ngay bên lề lối đi phủ sỏi. Bên kia đường,
đối diện với căn nhà nhỏ là cầu thang lên khách sạn mà Paul và George sống ở
đó. Trước khách sạn là quảng trường với nhiều cây lớn và những sợi dây của các
cọc buộc ngựa đóng xung quanh ngoại trừ phía xa bên kia dẫn tới đường sắt.
Chúng tôi cho xe chạy dọc con phố chính, phốMain, nằm một bên chúng tôi
và nằm cả ở phía trước và phía sau chúng tôi. Con phố bọc vòng ba phía quảng
trường. Có ba dãy cửa hàng phía sau ba con đường lát ván cao. Đó là thị trấn
The Gem của vùng Ozarks.
Chúng tôi chạy ngang cửa hàng bách hóa lớn Reynolds
có hai dãy tủ hàng rộng đầy ắp các món đồ với một khung cửa ra vào ở giữa. Nhiều
người đàn ông đang thơ thẩn, tản rộng, chuyện trò và khạc nhổ dọc theo những lối
đi lát ván cao. Có nhiều cửa hàng nhỏ, Ngân hang Mansfield, cửa
hàngBostonRacket với hàng chữ “Kịch viện Opera” sơn trên các cửa sổ
tầng trên, nhà nuôi giữ ngựa Hoover’s và những con ngựa trong khu chăn nuôi, rồi
tới một ngôi nhà lớn nằm trong một hàng rào dây kẽm. Qua khỏi cửa hàng đóng
móng ngựa, con đường đầy bụi chạy xuống đồi băng qua một cây cầu nhỏ. Sườn đồi
dài là vườn cây và bãi chăn nuôi nhưng lại bắt đầu có những căn nhà khi con đường
vươn lên ở phía bên kia cầu. Tính chung phải có tới một tá nhà trong những
khuôn sân có hàng rào và cổng, phía sau những lối đi qua cỏ dại ở cả hai bên đường.
Hết thảy các ngôi nhà đều có cổng trước tô điểm bằng
nan gỗ và nhiều màu sơn khác nhau. Phía sau cổng là những vườn rau với các hàng
dây phơi, các nhà kho, chuồng gà và một số nhà có cả chuồng heo. Hai ngôi nhà
có gác và một trong hai ngôi nhà này có cửa sổ lồi và mái vòm. Sau những căn
nhà bên phải chúng tôi là nền đường sắt được be bờ và sau những căn nhà bên
trái là hai ngôi nhà khác rồi tới một đồi cỏ cao in lên nền trời.
Trên đỉnh con đường dốc là ngôi trường mà tôi sẽ tới
học. Trường đứng vuông vức, cao hai tầng với các ô cửa sổ xung quanh và một
tháp chuông dựng đứng phía trên những khuôn cửa trống. Bên kia trường là rừng
cây. Trường nằm trên bìa rừng nhưng không còn một gốc cây nào trên nền đất trần
nện cứng ở xung quanh. Có một giếng nước ở gần trường và sau trường là một nhà
lán bằng cây với hai khu nhà vệ sinh ghi rõ: con trai vàcongái.
Tôi cố ngắm thật lâu nhưng con đường đã xoay khỏi
trường học để hướng theo đường sắt.
Những vết bánh xe chạy cặp theo đường sắt với những
hàng cột đỡ một sợi dây thép buộc trên các núm thủy tinh. Có hai ngôi nhà ở
trong rừng rồi con đường chạy vào trong rừng bỏ đường sắt lại phía sau lưng
chúng tôi.
Lúc này không còn gì khác ngoài rừng cây ở hai bên
đường và hai vệt bánh xe chạy thẳng tren một đoạn hơi dốc xuống. Giữa hai vệt
bánh xe là những gốc cây và các tảng đá lớn. Cỗ xe xóc nảy chao đảo trên những
tảng đá chìm trong bụi rậm và tiếng vó ngựa bịt sắt vang lên.
Từ câu chuyện hiện qua trong trí, tôi bỗng nhận ra
là may mắn biết chừng nào khi đồng xu cuối cùng vừa đủ trả cho món thịt ướp muối
và bột mì. Bây giờ chúng tôi có thể ổn với viêc bán củi và sẽ khá hơn khi những
cây táo ra trái. Lúc đó, việc thanh toán món nợ thế chấp sẽ dễ dàng. Ba trăm đô
la với mười hai phần trăm phải trả mỗi ba tháng (Tôi thắc mắc tại sao phải bắt
buộc trả như thế?).
Mẹ tôi có thể nhẩm tính con toán trong đầu. Đám táo
hẳn đủ giải quyết vấn đề nếu chúng sống nổi.
Lúc đó hoặc sau này, tôi được biết từ câu chuyện đó
là có một người đàn ông hết sức ngớ ngẩn đã mua hết thảy những cây táo nhỏ kia
từ một người buôn bán quỷ quái mặc dù ông ta chưa dọn xong đất. Khi những cây
táo được đưa tới ào ạt, ông ta không có đất để trồng xuống, nhưng ông ta đã kí
kết các thứ giấy tờ nên bắt buộc phải cầm thế đất để có tiền trang trải. Sau
đó, ông ta bỏ cuộc. Chỉ trong hai ngày, ông ta rời bỏ hết từ đất đai, căn lều tới
những cây táo nhỏ bao rễ trong một rãnh mương và món nợ thế chấp. Thế là cha mẹ
tôi tiếp nhận tất cả từ người chủ ngân hàng.
Con đường lại vươn lên tựa hồ chạy thẳng đứng lên đỉnh
một dốc đồi dài thăm thẳm, nhưng cha tôi cho lũ ngựa xoay theo một con đường mờ
nhạt đi vào thung lũng. Lúc này bên cạnh chúng tôi là một dòng suối trong như
gương chảy tràn trên những mặt đá phẳng và qua các hồ chứa đầy bóng mát.