Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - Phần II - Chương 3 - Phần 1

III–
VÙNG RẠCH GIÁ ĐẤT RỘNG NGƯỜI THƯA

1. Vài
nét lớn

Rạch Giá là hậu bối khá rộng của bờ biển vịnh Xiêm
La. Bờ biển từ Rạch Giá (vàm sông Cái Lớn) ăn về phía Nam là khu rừng sác
(mangrove)với cây mắm, cây giá, cây cóc, loại cây tạp không đem huê lợi gì
đáng kể, trừ huê lợi sáp và mật ong, hoặc cua, ba khía sống nhun nhúc trong
bãi bùn (khu vực của cây đước chỉ ở về phía cực Nam tận mũi Cà Mau). Hậu bối
(arrière mangrove) tức là sau lưng, giáp vào rừng sác. Có thể nói đất Rạch Giá
là rừng tràm mênh mông, nhiều phèn và thấp; xa bờ biển hàng đôi chục cây
số ngày vẫn còn là rừng tràm cầm thủy (trầm thủy). Nổi danh nhứt là U Minh
Thượng và U Minh Hạ. U Minh Thượng là rừng chồi, có từng lõm “đất cháy
(than bùn, tourbière) nằm bên tả ngạn sông Cái Lớn. U Minh Hạ là rừng tràm tốt
và mọc dày, dọc ven biển chạy dài tới Cà Mau. Đất Rạch Giá khi người Pháp đến
hãy còn nhiều cọp, khỉ, sấu, heo rừng, huê lợi chánh vẫn là mật và sáp
(nhờ bông cây tràm, cây giá). Ngoài ra còn cây tràm (làm củi, cột nhà), lá dừa
nước (để lợp nhà), cá đồng và cá biển. Đáng chú ý là voi thường tới lui cánh
đồng nối liền với Cần Thơ mà ăn lau sậy.

Hai con sông đáng kể là Cái Bé và Cái Lớn từ đất
thấp phía Đông chảy ra vịnh Xiêm La, hiệp lại ở một vàm khá rộng. Hai con
sông này chia ra nhiều nhánh nhóc. Ngọn sông Cái Bé ăn qua rạch Cần Thơ,
về bờ Hậu Giang. Sông Cái Lớn ăn xuống Ba Xuyên, thuộc Sóc Trăng hoặc
xuống phía chợ Cà Mau nhưng là những đường liên lạc nhỏ bé, vào mùa nắng
có nhiều chặng cạn và hẹp, đầy cỏ. Dân ở vùng Rạch Giá – trước khi đào
kinh Xáng, phần lớn sống nhờ nước mưa, trừ trường hợp chợ Rạch Giá hứng nước
ngọt từ kinh Thoại Hà (đào từ cuối đời Gia Long) nối qua Hậu Giang. Giếng có
thể đào trên mấy giồng cao ráo, chắc thịt bên bờ sông. Vùng ven biển vịnh Xiêm
La định cư được là nhờ nước suối chở từ Hòn Tre. Bên bờ Cái Lớn, Cái Bé và
các phụ lưu, rải rác nhiều giồng, nhiều gò, nơi người Miên đến lập từng
sốc: những ốc đảo hoang vắng, chung quanh là rừng che kín chơn trời. Muỗi
mòng, rắn và vô số chim cò tha hồ nẩy nở.

Trước đời Gia Long, dân chúng đã chọn lựa vài gò cao
lập được bảy xã theo sông Cái Bé và chợ Rạch Giá (tổng Kiên Định), bốn xã
theo sông Cái Lớn (tổng Thanh Giang). Nhưng dân số người Miên và diện tích
ruộng đất do họ canh tác từ xưa vẫn đáng kể tuy không có con số chánh thức. Ít
ra họ cũng dư khả năng tự túc về lúa gạo. Ở Rạch Giá, người Miên đứng vào
hàng đầu (Rạch Giá: 80.000 người, Trà Vinh: 80.000 người, Sóc Trăng: 50.000
người, Châu Đốc: 39.000 người, Bạc Liêu: 23.000 người). (1)

(1)
L’Économie de la Cochinchine, đã dẫn.

Vĩnh Long mất, Hà Tiên lại mất, thực dân chiếm huyện
Kiên Giang không tốn một phát đạn. Viên tham biện đầu tiên là Luro (2).
Paulin Vial đến Rạch Giá thanh tra nhưng năm sau Nguyễn Trung Trực đánh
một trận thần tình, giết gần trọn người Pháp vừa lính vừa viên chức ở tỉnh
lỵ này (16-6-1868). (3)

(2) Theo
danh sách các tham biện ghi ở tòa bố Rạch Giá thời Pháp thuộc mà chúng tôi
thấy.

(3) Về sau,
người Pháp cũng không tìm ra danh tánh tên tham biện bị giết. Chỉ biết hắn có
bộ râu hoe hoe (barbe rousse)!

Dạo ấy, Rạch Giá là hải cảng tấp nập, tàu buồm Hải
Nam tới mua bán luân lưu giữa khu vực Cao Miên (thương cảng Kampot), Xiêm
(Vọng Các), Tân Gia Ba và Nam Dương. Nhà cửa san sát ở hai bờ rạch sát vàm
biển. Thoạt tiên, hạt Rạch Giá bao gồm luôn trọn mũi Cà Mau, tức là huyện Kiên
Giang và huyện Long Xuyên thời Tự Đức. Sông rạch nhỏ chằng chịt, tháng nắng
dùng không được, chỉ thuận lợi cho ghe xuồng cỡ nhỏ. Nhiều con đường mòn
dành riêng cho dân địa phương sử dụng ở nơi đi bộ không được, đi xuồng
không xong; đó là đường cộ, dùng cộ có trâu kéo (không bánh xe, kiểu cộ
trượt tuyết ở Bắc Âu). Mãi đến năm 1879, vùng Rạch Giá còn trong vòng thám
hiểm của thực dân, bản đồ chưa được chính xác, nhiều con rạch dân chúng sử
dụng được nhưng chưa ghi, lại còn vị trí nhiều xóm nhỏ ẩn lánh ở ngọn rạch
của bọn người đốn củi lậu thuế hoặc ăn ong (lấy sáp và mật). Bọn thợ rừng
sử dụng những con đường quanh co để chở củi lậu thuế. Việc cai trị ở thôn quê
xa tỉnh lỵ chưa thành nền nếp. Theo báo cáo của tham biện thì năm 1879,
tỉnh này tuyệt nhiên chưa có địa bộ, tất cả đất trong tỉnh đều được xem
như là công điền. Hương chức làng kê khai diện tích tổng quát, chịu thuế rồi
gán ép lại cho dân. Vài người tự nhận là chủ của phần đất đang canh tác, vì
chính họ khai phá hoặc do cha mẹ để lại. Trường hợp làng Vĩnh Lộc (vùng
Ngan Dừa, còn gọi là Ngan Gừa): hương chức làng chịu thuế điền là 406 quan
để rồi bắt buộc dân gồm đa số là Cao Miên phải đóng gấp đôi gấp ba. Hương
chức cứ ở không mà hưởng, đến độ dân địa phương phẫn nộ, đòi tản cư luôn
qua Sóc Trăng nếu họ không được phép lập một làng riêng. (4)

(4) SL.
1.658 và SL. 3.092.

Đầu năm 1880, tham biện chủ tỉnh làm tờ trình về
tình hình thuế khóa và dự án thâu như sau (Rạch Giá và Cà Mau) (E/2):

– Thuế điền năm 1879: 11.068 quan, tính trên tổng số
đất ruộng và rẫy là 2.847 mẫu.

Dân đinh gồm người Việt và Cao Miên: 2744 người
(2.010 Việt và 734 Miên).

Mấy giồng chung quanh chợ Rạch Giá trồng xoài, vì
lâu năm nên hóa xoài rừng. Người Huê kiều và người Minh Hương làm rẫy rau
cải, đất ngoại ô cũng như tại chợ đều không có bộ sổ chi cả.

Thuế kiểm lâm thất thâu, dân chúng lén đốn cây tràm
trong rừng rồi theo đường quanh nẻo tắt mà chở qua Sóc Trăng thay vì đi
ngang qua trạm kiểm soát.

Nguồn lợi lớn nhứt của ngân sách vẫn là thuế phong
ngạn (đấu giá từng lô rừng cho dân khai thác sáp, mật): năm 1879 đã thâu:
29.546 quan (trong khi thuế điền chỉ có 11.068 quan).

Nguồn lợi thứ yếu là đấu thầu sân chim: năm 1879 đã
thâu: 25.000 quan.

Tóm lại, năm 1880, Rạch Giá không được chánh phủ Nam
kỳ chú ý nhiều. Riêng về sân chim thì các viên tỉnh trưởng xem như là “kỳ
quan
”. Tuy nhiên, những nguồn lợi sáp mập cùng là sân chim giảm bớt
trong những năm sau, dân phá rừng lần hồi để bán cây. Cây tràm tuy không
là danh mộc nhưng làm cột nhà rất tốt, bán qua các tỉnh lân cận. Sân
chim mỗi lần khai thác là giết cả trăm ngàn con vừa lớn vừa nhỏ để lấy lông
kết quạt.

Trong khi ấy ở một tỉnh xưa như tỉnh Sa Đéc (tức
huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang đời Tự Đức, thuộc trấn Vĩnh Thanh đời Gia
Long) dân số và bộ điền đã khá rành mạch:

Chúng ta thử so sánh tạm.

Diện tích ruộng vườn và rẫy, trong bộ sổ của Pháp
mới lập:

Rạch Giá: 2.2847 mẫu.

Sa Đéc: 53.386 mẫu.

Dân đinh ở

Rạch Giá – Cà Mau: 2.744 người

Sa Đéc 128.902 người

Vì là tỉnh xưa, ở Sa Đéc nhiều vùng đông đúc, mật độ
cao đến 241 người mỗi cây số vuông, đất bị cắt manh mún theo chế độ tiểu
điền chủ, những sở đất dưới năm mẫu chiếm 4/10 của tổng số đất khai thác.
Và 6/10 của đất khai thác là đất thổ cư và vườn tược.

Sáu năm sau, năm 1886, tình hình tỉnh Rạch Giá bắt
đầu khả quan hơn. Báo cáo của tham biện ngày 8-8-1886 (E/2) nêu vài chi
tiết:

– Trong bảy người dân, tỷ lệ là 4 người Cao Miên và
3 người Việt.

– Biến cố ở Kinh thành Huế (vụ Tôn Thất Thuyết và
vua Hàm Nghi 1885) chẳng gây xúc động gì rõ rệt trong dân gian.

– Đường bộ quá ít, dân chúng ao ước đường thủy phát
triển thêm. Mọi việc xê dịch đều dùng đường thủy.

– Dân ra chợ mua bán thường dùng đường biển cho
nhanh hơn. ở vùng Cái Lớn (Mũi Gảnh) nạn chìm ghe thường xảy ra.

– Năm 1883, đã bắt dân xâu đào con kinh – gọi là
kinh Ông Hiển – để đi từ sông Cái Bé, từ rạch Tà Niên ra chợ mà khỏi vượt biển.
Kinh này tiếp tục đào đến năm 1886 (5). Đường liên lạc từ Rạch Giá đến Châu Đốc
gần như không có, dân chúng dùng xuồng nhỏ, theo đường quanh len lỏi giữa
rừng tràm.

(5) Đây là
đường nước đã có sẵn thời đàng cựu.

– Đào xong con kinh từ Cạnh Đền ăn xuống Cà Mau (kinh
Bạch Ngưu), dùng dân xâu làng Vĩnh Lộc.

– Con lộ chiến lược quan trọng nhứt trong tỉnh chạy
từ chợ Rạch Giá vô Minh Lương (khoảng 15 cây số). Minh Lương là xóm sung túc từ
lâu đời, gồm đa số người Miên. Lộ này vạch sẵn hồi xưa, nay tu bổ lại để đem
thơ từ, chạy ngựa.

– Trường học tại tỉnh lỵ lợp lá, ngưng dạy từ mấy
năm qua đang bắt đầu hoạt động trở lại.

– Năm 1885, trong toàn tỉnh có 6 trường tổng, trường
ở Minh Lương không đem lại kết quả vì thiếu giáo viên.

– Dân bộ chịu thuế năm 1883 là 8.000 người, năm 1886
là 10.000 người. Kết quả này thâu được là nhờ lập bộ kỹ lưỡng hơn trước.

– Bộ điền

năm 1883: 8000 mẫu

năm 1886: 10000 mẫu

Đất ruộng khó kiểm soát vì dân làm ruộng không đều,
hễ thất mùa thì họ dời chỗ. Nhiều vùng đất 3 năm mới có làm một mùa ruộng.

Tại chợ, từ 4 năm qua đã lập một lò gạch nhưng xấu
về phẩm chất. Vì chưa cấp bằng khoán thổ cư nên chẳng ai dám xây nhà gói,
sợ sau này bị đuổi.

– Việc mua bán xáo trộn vì giá tiền kẽm bị sụt. Tiền
điếu (bằng đồng điếu) lại khó xài, nhà nước phát ra khi dân lãnh ngân
phiếu, nhưng dân đem tiền điếu đóng trở lại cho “công xi” khi mua á
phiện và rượu.

Tóm lại, tỉnh Rạch Giá (gồm luôn Cà Mau) là miếng
mồi khó nuốt so với các tỉnh miền Tiền Giang như Sa Đéc, Mỹ Tho, Vĩnh Long
hoặc Long Xuyên. Huê lợi, thuế khóa quá thấp kém. Các viên tham biện không
rành về hành chánh, những bản phúc trình chánh thức gởi về cho Giám đốc
Nội vụ (Directeur de l’ Intérieur) về hình thức cũng như nội dung gần như là
thơ riêng gởi cho bạn, viết tháu, báo cáo đại khái vài nét, nhận xét tùy
hứng, không thứ tự.

Trong thực tế, muốn báo cáo kỹ lưỡng cũng không được
vì tỉnh này vừa khi mới thành lập đã thiếu người hợp tác; các tỉnh Tiền
Giang dầu sao đi nữa cũng thừa một số người lịch lãm biết chữ nho hoặc chữ
quốc ngữ, am hiểu địa phương. Sau cuộc đánh úp đồn chợ Rạch Giá vào năm
1868, người Pháp nghi kỵ tất cả người Việt vì đa số lính mã tà, đến viên quản
mã tà cũng đều làm nội ứng. Thực dân không muốn xài người Việt ở Rạch Giá và
nhân dịp tu chỉnh lại bộ máy cai trị, chúng cố ý dùng người Miên để trị
người Việt, cổ xúy chia rẽ. Vài người hữu công được nâng lên làm huyện,
bấy giờ đóng vai phụ tá của tham biện để cai trị, đi điều tra miền quê. Đây là
những người kém văn hóa, háo sát, ham danh vọng. Những người Miên hoặc
Miên lai Tàu này đều lấy tên họ như người Việt:

– Phó quản mã tà người Miên tên là Cao Thiên gọi nôm
na là phó quản Thiên làm phủ, lập công sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung
Trực bằng cách điềm chỉ, bắt giết. Năm 1873, nghỉ việc vì già (60 tuổi),
Pháp cho chức phó quản là để tưởng lệ công lao, chẳng có năng lực chuyên môn gì
cả. (SL. 3427).

– Huyện Xiêu được làm huyện sau khi Nguyễn Trung
Trực rút khỏi Rạch Giá, kiêu hãnh tới mức dám tố cáo chuyện xấu của tham
biện Rạch Giá lên quan trên. Tám tháng sau khi nhận chức thì bị Pháp cách
chức. (SL. 2859).

– Huyện Trần Lương Xuân, cũng người Miên được tin
cậy cho trấn nhậm vùng Minh Lương, khu vực đông dân và phì nhiêu. Tự xưng
trong công văn “Kiên Giang huyện, Tri huyện Trần Lương Xuân”, được
giữ một khẩu súng lục, 2 khẩu súng hai lòng, 1 khẩu súng 1 lòng, 4 cây giáo, 1
khẩu súng Le Faucheux. (D/1).

– Trịnh Lục Y, người Miên, từng được cựu trào phong
chức cai tổng, cư ngụ vùng áp lục (Rạch Tìa, Thủy Liễu) rồi theo Pháp. Sau thời
gian làm cai tổng dài dẵng là 48 năm, thấm mệt xin nghỉ (E/2), được huy chương
bạc hạng nhứt.

– Cai tổng Hà Mỹ Phiến (tên ngoài là Phến) người Tàu
lai Miên làm vua một cõi ở tổng Kiên Hảo, chữ nghĩa kém, được sắm 4 cây
mác thông cho bọn hộ vệ khi đi hầu quan vì đường sá còn rừng rậm (con và cháu
đều làm cai tổng nối tiếp đến năm 1945). (D/1).

– Cai tổng Trần Quang Huy (con của cai tổng Trần
Quang Sô) cũng người Miên, làm phó tổng Kiên Hảo. Cai tổng Sô tận tụy với
thực dân từ buổi đầu, bị nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực giết. Sau đó, Pháp
ban chức phó tổng cho Huy là nghĩ tới công lao của cha. Ngày trước, Pháp cho
tổng Sô hai cây súng, súng này giao lại cho Huy. (D/1).

Người Việt Nam duy nhứt được Pháp tin cậy ban chức
cai tổng là Nguyễn Văn Nguơn, coi tổng Kiên Định, ngụ ở Tân Hội, một làng
đông dân khi Pháp đến và có công lớn là báo tin trước cho tên tham biện Rạch
Giá về việc Nguyễn Trung Trực sắp tấn công nhưng tên tham biện không tin
lời (vì oán xã Nguơn nên nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đã giết lây một
số người công giáo ở Tân Hội, xóm của Nguơn cư ngụ). Cai tổng Nguơn làm chúa
một vùng, được cấp cho 6 khẩu súng, đặc biệt là 1 khẩu thần công mà quân sĩ của
Nguyễn Trung Trực bỏ rơi lại. (D/1).

Với bọn cộng sự viên như thế, các tham biện ở giai
đoạn đầu tỏ ra chán nản. Chung quanh chợ, ngoài vài xóm đông đúc là rừng
rậm, họ không muốn đi thanh tra. Mãi đến năm 1901, viên bếp trạm (đi thơ
từ công văn, ngạch bếp) còn kêu nài để xin được giữ cây súng vì vùng Ngan Dừa
(làng Vĩnh Lộc) là nơi nguy hiểm, khó di chuyển “đi trát cho làng nọ
làng kia thì đàng đi rừng bụi vắng vẻ quá”, “có nhiều lần tôi gặp cọp nó làm dữ
với tôi, thì tôi cũng nhờ có cây súng tôi bắn nó chết, có khi nó ra phá
xóm làng thì người ta tới kêu tôi cùng đi cứu giúp mà bắn cho đặng bình an
trong xóm”
. (D/1).

Vì không thấy có huê lợi dồi dào về thuế má trong
tương lai gần nên vào khoảng 1889, hạt Rạch Giá bị sáp nhập vào hạt Long
Xuyên cho đỡ tốn kém về mặt bố trí cơ sở hành chánh cùng là lương bổng
nhơn viên. Rạch Giá lúc bấy giờ trên con dấu chánh thức là “Kiên Giang
huyện
” của tỉnh Long Xuyên, còn con dấu của tham biện Long Xuyên ghi “Arrondissement
et Long Xuyên
” chính giữa là “Long Xuyên – Rạch Giá”.

Nhưng đôi năm sau, Rạch Giá tách trở lại làm một
tỉnh như trước, chánh phủ đang trù liệu kế hoạch khai thác quy mô vùng Hậu
giang với ngân sách của chánh quốc cho mượn: đào kinh nối liền từ vịnh
Xiêm La lên Sài Gòn.

2.
Chỉnh đốn tỉnh lỵ Rạch Giá và các vùng phụ cận

Chợ Rạch Giá là cơ sở tốt với giồng cao ráo sát bờ
biển, lại còn nhiều giồng đất phì nhiêu vùng phụ cận. Quy chế khẩn đất đặt ra
rành mạch, các tỉnh miền Tiền Giang không còn đất tốt vô chủ, khiến nhiều
người đổ xô về Rạch Giá là nơi dễ làm ăn, đặc biệt là dân từ Long Xuyên đến.
Tháng 10-1895, chủ tỉnh báo cáo về Thống đốc Nam kỳ với ý kiến của
Hội đồng địa hạt (AG/CD) đưa nhiều đề nghị:

– Từ vài năm qua dân số gia tăng gấp đôi.

– Diện tích canh tác tăng hơn 10 lần.

– Đề nghị vét kinh Rạch Giá – Long Xuyên (Thoại Hà)
để tàu Lục tỉnh (Messageries Fluviales) từ Sài Gòn đến chợ Rạch Giá ít
nhứt là 3 lần trong mỗi tuần như các tỉnh khác. Bấy lâu, Rạch Giá và Hà Tiên
không có chuyến nào trong tuần (tức là khoảng 10 ngày mới có một chuyến).

– Bảo vệ bờ biển Rạch Giá đừng cho lở, bằng cách cẩn
đá mà chận sóng biển. Đồng thời, xây một con đê bằng đá chạy ra ngoài biển
(jetée) để vào mùa hạn tàu bè có thể cất hàng hóa (nhưng không thực hiện được).

Bấy lâu đường giao thông từ Rạch Giá lên Sài Gòn khó
khăn vì kinh Thoại Hà quá cạn, nhứt là vào mùa hạn. Hành khách từ Sài Gòn
đến Rạch Giá dùng xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho, rồi đi tàu Lục tỉnh từ Mỹ Tho đến Long
Xuyên. Từ Long Xuyên, dùng ghe mà chèo chống qua Rạch Giá.

Để thiết kế tỉnh lỵ, năm 1896, 4 xã Vĩnh Lạc, Vĩnh
Hòa (Huề), Vân Tập, Thanh Lương nhập lại gọi là làng Vĩnh Thanh Vân. Đến
năm 1908 mới đặt tên đường sá tại chợ và năm 1910, đưa dự án dùng đèn thắp bằng
“ga” ở đường phố.

Tàu buồm Hải Nam ra vào cửa Rạch Giá tấp nập. Vào
tháng gió chướng (gió mùa từ Đông Bắc), nhiều khi 20 chiếc cặp bến một
lượt. Ty Thương chánh hoạt động với quyền hạn không phân định rõ rệt vì
cho rằng chỉ chịu sự chỉ huy từ Sài Gòn mà thôi, không can hệ gì đến nhà
cầm quyền ở tỉnh. Năm 1887, viên chức Thương chánh xét bắt Hoa kiều ở chợ, tha
hồ làm tiền vì quả thật các tàu buôn Hải Nam vào bến chở theo á phiện lậu thuế
để bán lén theo hệ thống riêng cho các tỉnh miền Tây là nơi tập trung người Huê
kiều khá giả. Người Huê kiều thì ăn chịu với viên chức địa phương. Ngoài
ra, viên chức Thương chánh (bấy giờ gọi là Công-xi) lại còn bắt buộc người
làm nước mắm ở hòn Sơn Rái, thuộc tỉnh Rạch Giá phải đóng thuế nhập cảng, lấy
cớ trong nước có mắm muối, xem mấy người làm nước mắm như đã chở muối lậu
thuế. Mấy bang Huê kiều yêu cầu đừng đánh thuế quá nặng những hàng hóa chở từ
bên Xiêm vào chợ Rạch Giá, nhưng không được chấp thuận. Bấy giờ, tàu Hải
Nam chở vào nhiều nhứt là vải, từ Xiêm hoặc từ Tân Gia Ba, đặc biệt có loại vải
thông dụng (gọi là vải Xiêm, vải tám Hạ, tức là từ Hạ Châu đem đến). Mặc nhiên,
hàng hóa xuất xứ từ Anh quốc lại cạnh tranh với hàng hóa Pháp! Mấy viên
cai tổng đồng thanh phản đối việc tra xét của mấy ông tây “Công-xi”,
khi đồng bào đến chợ theo đường biển phải đi ngang qua Thương cảng (E/2). Năm
1886, hải quân Pháp ra tận hòn Cổ Tron (Poulo Dama) để thám hiểm nhưng
ngoài ấy chẳng có nguồn lợi gì về kinh tế.

Việc bán gạo từ hải cảng Rạch Giá đã có từ đời Mạc
Cửu do người Huê kiều đảm trách độc quyền. Dịch vụ xay lúa tổ chức theo kỹ
thuật cổ truyền, dùng loại cối to, mỗi cối có bốn người cầm giàng xay, hai
người sàng, một người quạt, một người giần tấm.

Năm 1884, chợ có 6 trại xay lúa, sử dụng gần 40 cối
to. Khi tàu Hải Nam gần đến để ăn gạo, trại hoạt động suốt ngày đêm, dùng
toàn sức người. Dọc theo bờ rạch gần mé biển, người Huê kiều cất khi dự
trữ hàng hóa. Tàu Hải Nam đến mua nhiều nhứt là gạo, chiếu, tiền kẽm, nước
mắm, cá khô, mắm ruốc, cà ròn (bao bằng bàng), mật, sáp. Họ chở đến
tô chén, bài tứ sắc, vải bô, giấy tiền vàng bạc, mền, thuốc Bắc, pháo,
nhang, trái cây khô.

Lần hồi, thương cảng bớt hoạt động. Gạo xay máy từ
Sài Gòn chở qua Hương Cảng bằng tàu máy ít tốn sở phí hơn là gạo xay bằng
sức người, chở bằng ghe buồm ở Rạch Giá.

Về đường sá trong tỉnh, mãi đến năm 1907 chỉ thấy
vài khúc lộ dở dang. Theo sáng kiến của tham biện, con lộ từ chợ Rạch Giá
đến Hòn Đất thành hình, bắt dân làm xâu, đường trải đá ong Biên Hòa và
trải đất hầm (đất ruộng đốt cho chín rồi đập ra từng cục nhỏ). Dụng ý của
bọn Pháp ở địa phương là đắp đường theo mé biển ăn tới Hòn Đất nơi chúng chọn
làm căn cứ nghỉ mát; từ trên Hòn nhìn ra vịnh Xiêm La, khung cảnh khá
thơ mộng. Điều bất lợi là con lộ này chạy ngang vùng còn rừng tràm, người
Miên sống rải rác. Trong tương lai, nhà nước hy vọng là nối lên Hòn Chông thuộc
Hà Tiên. Nhưng công tác này trở thành tốn kém vô ích, khí hậu Hòn Đất
không tốt cho lắm, đất hai bên lộ quá xấu, mở đường mà chẳng ích lợi gì
cho việc canh tác! Bọn Pháp ở địa phương cố duy trì kế hoạch, lấy lý do là
để tới lui giữ an ninh đồng thời làm bờ đê chận nước biển. Lộ bị dẹp bỏ vì rốt
cuộc ai cũng nhìn nhận là lãng phí (lộ hãy còn di tích sát theo bờ biển, song
song với con lộ Rạch Giá – Hà Tiên đắp xa biển hơn lúc sau này).

Con lộ thứ nhì là nền móng của lộ Rạch Giá – Cần
Thơ. Năm 1907, nối liền tới Minh Lương (khoảng 15 km), trải đá ong và đất hầm.
Có kế hoạch nối luôn tới Gò Quao rồi Long Mỹ. Mãi đến năm 1914, lộ Rạch Giá qua
Cần Thơ mới tiếp tục khởi công.

Việc chia ra quận (huyện) trở thành cấp bách, tham
biện Rạch Giá nêu lý do là dân số gia tăng, nhiều người từ tỉnh khác đến
làm ăn nên khó kiểm soát, diện tích của tỉnh lại quá rộng.

Vùng ở giáp ranh Cần Thơ và giáp ranh Bạc Liêu, Sóc
Trăng cần mỗi nơi một ông phủ hoặc ông huyện để coi sóc, ngoài ra, cần một
quan huyện ở Châu Thành. Năm 1898, tham biện Rạch Giá nhắc lại ý kiến nên
lập một phân khu hành chánh ở ngọn Cái Lớn (nhằm đề phòng trộm cướp) hoặc
lập ở làng Long Mỹ một quận mới. Nhưng cấp trên bác bỏ cho là tốn thêm
tiền xây cất cơ sở hành chánh, mướn thơ ký, mã tà; nếu tỉnh quá rộng, tham biện
chủ tỉnh cứ đi thanh tra bằng tàu máy là đủ rồi. Bấy giờ, việc khẩn hoang chỉ
mới xúc tiến, thuế má chưa thâu nhiều. Nhưng đến năm 1907, quận Long Mỹ thành
lập ở ngọn sông Cái Lớn, phía giáp ranh với Cần Thơ. Chủ quận đầu tiên là
Maurel nắm nhiều quyền hạn quan trọng. Quận Gò Quao thành lập, trên con dấu ghi
mấy chữ nho “Đại Hà huyện” (tức là huyện lập ở sông Cái Lớn), quận Giồng
Riềng ghi là “Tiểu Hà huyện” (sông Cái Bé), quận Châu Thành tại chợ
thì thêm mấy chữ nho “Kiên Giang phủ”.

Việc phân chia ra tổng cũng chưa hợp lý và gây nhiều
phiền phức: riêng tổng Thanh Bình, năm 1907, rộng đến 250.000 mẫu tây
(trong khi tỉnh Bến Tre chỉ có 140.000 mẫu, tỉnh Gò Công 62.698 mẫu diện
tích vào năm 1922), ăn từ vịnh Xiêm La đến ranh Sóc Trăng. Riêng làng Đông
Thái (thuộc về tổng này) dài cỡ 30 cây số từ rạch Thứ Năm đến rạch Mương
Đào, lý do chánh là đất quá rộng, dân ít, còn nhiều rừng, xóm này xa cách xóm
kia. Bấy giờ, cai tổng tha hồ xử kiện theo ý thích, xã trưởng thì không thèm đi
hầu việc” quan trên, viện lý do là biển động, đi sợ ghe chìm hoặc nộp
thuế thì sợ bị ăn cướp dọc đường.

Đại khái, Rạch Giá là tỉnh chậm phát triển về đường
sá, dân trí kém mở mang, thua xa các tỉnh miền Tiền Giang hoặc gần Sài Gòn
nơi mà nhà nước thực dân đã chú ý thiết kế từ trước năm 1900. Mãi đến 1910,
1911 hương chức làng ở Rạch Giá mới bắt đầu có con dấu bằng đồng để đóng
vào công văn.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3