Võ sĩ đạo, linh hồn của Nhật Bản - Lời tựa

LỜI TỰA (cho bản in lần đầu
năm 1899)

Khoảng
mười năm trước, tôi có dịp được cố
giáo sư De Laveleye, nhà pháp
chính học lỗi lạc của
nước Bỉ, mời đến
chơi một
vài ngày ở nhà ông. Một ngày nọ, khi tán chuyện lan man với nhau, câu chuyện của chúng tôi quay sang vấn đề
tôn giáo. Vị giáo sư khả kính hỏi
tôi: “Vậy anh muốn nói là trường học ở
Nhật Bản không có dạy về tôn giáo à”. Tôi trả lời
rằng: “Không có”. Giáo sư bất ngờ
khựng lại vì kinh ngạc, và bằng giọng
nói mà tôi không thể nào quên
được, giáo sư đã hỏi lại:
“Không có dạy về tôn giáo à? Vậy làm sao giáo dục đạo đức
được?”. Câu hỏi này làm tôi điếng người, không biết
trả lời ra sao. Tôi không trả lời ngay được
vì những lời dạy về
đạo đức tôi học hồi
thơ ấu đã không được dạy ở
trường. Và mãi cho đến khi tôi phân tích những nhân tố tạo nên quan niệm
về phải trái, thiện ác của tôi, cuối
cùng tôi mới hiểu ra được rằng
chính võ sĩ đạo đã đưa những nhân
tố đó vào trong tôi.

[Chúc bạn
đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com – gác nhỏ cho người
yêu sách.]

Nguyên do trực
tiếp dẫn đến việc
viết quyển sách mỏng này là vì nhà tôi thường hỏi lí do tại
sao tư tưởng này, tập quán nọ phổ biến
rộng rãi ở Nhật Bản.

Trong nỗ
lực tìm ra câu trả lời thỏa
đáng đối với giáo sư De Laveleye và đối với nhà tôi, tôi hiểu
ra rằng nếu thiếu hiểu
biết về chế độ
phong kiến và võ sĩ đạo, thì quan niệm đạo đức
của Nhật Bản hiện
đại, rốt cuộc, sẽ
giống như quyển sách bị
niêm phong.

Nhờ có
được một khoảng thời
gian dài không làm gì trên giường
bệnh, tôi đã sắp xếp lại
và nay có dịp công bố những gì tôi đã trả
lời trong lúc nói chuyện với nhà tôi. Nội
dung chủ yếu bao gồm những
điều tôi đã nghe và được chỉ dạy
trong thời niên thiếu khi chế độ phong kiến
còn thịnh hành.

Đã có Lafcadio Hearn, và bà Hugh Fraser ở bên này và ngài Ernest Satow cùng
với giáo sư Chamberlain ở bên kia, thật dễ ngã lòng khi tôi phải dùng tiếng
Anh để viết những sự
việc liên quan đến Nhật Bản.
Điều duy nhất mà tôi nghĩ rằng tôi có lợi thế hơn họ
là tôi có thể lấy thái độ của cá nhân bị
cáo, trong khi những tác gia
cao danh này chỉ có thể là những người
buộc tội hay trạng sư biện
hộ. Tôi thường nghĩ: “Giá mà tôi có tài năng
ngôn ngữ ngang bằng họ thì tôi có thể
hùng biện hơn trong việc
trình bày lập trường của Nhật
Bản”. Nhưng người mượn ngôn ngữ của nước
khác để nói, thì nên bằng lòng khi mình chỉ có thể làm cho độc
giả hiểu được những
điều mình nói.

Trong suốt
quyển sách này, tôi tìm cách
giải thích những điểm luận
chứng của mình bằng cách trích dẫn những tỉ
dụ tương tự từ văn học và lịch
sử của châu Âu, và tôi tin rằng những tỉ
dụ đó có ích trong việc đem vấn đề
đến gần hơn
trong vòng hiểu biết của độc
giả ngoại quốc.

Nếu có
câu nào của tôi liên quan
đến vấn đề tôn giáo hay những
người truyền giáo ngộ nhỡ bị
xem là có vẻ khinh mạn đi nữa, tôi tin rằng
thái độ của tôi đối với
đạo Cơ đốc không có chỗ
nào đáng nghi ngờ. Điều mà tôi không mấy đồng tình là những
phương cách của giáo hội
và những hình thức làm cho những lời chỉ
dạy của đức Jesus thành ra khó hiểu, chớ
không phải là bản thân của những giáo huấn
đó. Tôi tin vào tôn giáo mà Christ chỉ
dạy và truyền lại trong thánh kinh “Tân ước”, cùng với
giới luật được ghi ở
trong lòng mình. Tôi tin rằng
Thượng đế đã kí kết khế ước,
được gọi là “Cựu ước”
với tất cả mọi
dân tộc, mọi quốc dân - bất
kể người đó là người Do Thái hay không, tín đồ Cơ đốc
hay người ngoại đạo. Chắc
tôi không cần phải nói thêm những suy nghĩ khác của tôi đối với
thần học vì chắc chỉ
làm cho độc giả mất kiên nhẫn.

Để kết thúc lời tựa này, tôi mong được
bày tỏ lòng cảm ơn
của tôi đối với người
bạn, Anna C. Hartshorne về những đề
nghị quí báu của cô.

Nitobe Inazo

Malvern, Pa., tháng 12, 1899

LỜI TỰA
(cho bản in lần thứ
10 năm 1905)

Từ khi
phát hành bản in đầu tiên sáu năm trước đây, cuốn sách nhỏ này đã có một lịch sử
bất ngờ, kết quả
có được thật phong phú vượt qua mong muốn của tôi.

Bản in
ở Nhật Bản đã tái bản
được chín lần. Bản in lần
này được phát hành đồng thời tại
New York và London dành cho những
độc giả Anh ngữ khắp
nơi trên thế
giới. Cho đến nay, quyển sách này đã được ông Dev ở Khandia dịch ra tiếng Mahratti, được cô Kaufman ở Hamburg dịch ra tiếng Đức, được
ông Hora ở Chicago dịch ra tiếng Bohemia, được “Hiệp hội
khoa học và sinh mạng” ở Lemberg dịch
ra tiếng Poland. Bản dịch tiếng
Na Uy và tiếng Pháp đang chuẩn bị phát hành, và bản
dịch ra tiếng Hoa đang nằm trong kế hoạch. Quốc
dân Hungary và Nga cũng có được
vài chương của
“Võ sĩ đạo” bằng tiếng mẹ
đẻ của mình. Bản bình luận tường tận
tựa như một quyển
sách chú giải đã được phát hành bằng tiếng Nhật.
Và những chú giải dành cho sinh viên học Anh ngữ nghiên cứu, đã được bạn
tôi, ông Sakurai biên soạn.
Tôi cũng mang ơn ông bạn này ở
nhiều điểm khác.

Tôi hết
sức vui mừng khi biết rằng cuốn
sách nhỏ này của mình đã tìm được sự đồng
tình của nhiều độc giả
ở khắp nơi
trên thế giới, chứng tỏ
vấn đề mà cuốn sách này đề
cập, được mọi người
trên thế giới quan tâm. Điều khiến tôi hết
sức vinh hạnh là có tin (đến với tôi từ
một nguồn tin đáng tin cậy) rằng Tổng
thống Roosevelt đã tự mình đọc quyển
sách này và đã cho phân phát bản
in đến bạn bè của ông.

Trong lần
tái bản này, tôi đã hạn chế việc
điều chỉnh, chỉ chủ
yếu thêm vào những tỉ dụ
cụ thể. Tôi lấy làm tiếc
vì đã không thể thêm một chương
nói về “hiếu nghĩa”, đây là đức tính cùng với “trung nghĩa” tạo thành hai bánh xe của cỗ xe đạo
đức Nhật Bản. Khó khăn mà tôi gặp phải
trong việc viết một chương về
“hiếu nghĩa” không phải vì tôi không biết thái độ của quốc
dân chúng tôi mà vì tôi không biết
tình cảm của người Tây phương ra sao đối với
đức tính này, nên tôi đã không
đưa ra được
những so sánh có thể làm mình vừa lòng. Tôi hi vọng một ngày nào đó tôi có cơ hội
nói đến đề tài này. Tất cả những
vấn đề được đề
cập trong quyển sách này, dĩ nhiên, còn có nhiều chỗ có thể
được áp dụng và luận bàn nhiều hơn
nữa; nhưng tôi cảm
thấy có trở ngại trong việc
làm cho quyển sách này dày
hơn.

Lời tựa này sẽ không hoàn hảo
và không công bình nếu tôi
quên cảm ơn khổ công duyệt
đọc bản thảo, cùng những
đề nghị hữu ích và hơn cả,
đó là sự khuyến khích không ngừng của nhà tôi.

Nitobe Inazo

Koishikawa, Tokyo, ngày 10, tháng giêng, 1905

Lời tựa
(Trần Văn Thọ)

Giáo sư
kinh tế học, Đại học
Waseda, Tokyo

Sống ở Nhật một
thời gian tương đối dài
ai cũng nhận thấy tính cách độc đáo của người
Nhật về lối giao tiếp,
về nghi lễ, về cách xử
thế, v.v. Nhiều người nước
ngoài có thể thấy phiền toái hoặc
thấy khó hiểu về lễ
nghi, về cách thể hiện trách nhiệm
cá nhân, về quan niệm đạo đức
của người Nhật. Nhưng nếu
suy nghĩ kỹ ta sẽ thấy bề
sâu của tính cách độc đáo ấy là sự
tuyệt hảo của các quy phạm
đạo đức Đông phương như nhân,
nghĩa, lễ, dũng, tín. Trong
giới trẻ ngày nay, lối sống và quan niệm
giá trị dần dần đa dạng
hóa và đi gần với các chuẩn mực quốc
tế, nhưng những bậc cha mẹ hoặc
nhà giáo dục Nhật Bản vẫn
mong các thế hệ đi sau giữ lại, dù chỉ
một phần, những đức
tính truyền thống cao đẹp đã trở thành con đường
(đạo) được xây dựng từ giới
võ sĩ thời phong kiến.

Đọc lịch sử Nhật,
nhất là thời cận đại,
tôi luôn bắt gặp những điển
hình của con đường xây đắp bằng nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, dũng đó, những điển hình đã gây cho tôi thán phục, cảm động,
cảm kích... Một Oda Nobunaga (1534-1582) thời Chiến Quốc
Nhật đã biểu lộ một
tinh thần thượng võ đáng phục. Trong trận chiến Okehazama (1560), Nobunaga đã tiêu diệt đội quân đông đảo,
hùng mạnh của Imagawa Yoshimoto (1519-1560),
lãnh chúa tài giỏi và mạnh nhất thời
đó. Quân đội của Nobunaga đã đột nhập vào bản
doanh và giết được Imagawa. Từ sự khâm phục
một người tài giỏi, Nobunaga chẳng những đã nghiêng mình trước thủ
cấp của Imagawa mà quân đội mình vừa đem nộp, lại
còn giao binh sĩ tẩm liệm cẩn thận
và đưa về
quê quán chôn cất.

Cảm động biết bao trước
lòng nhân của Sugiura Chiune
(1900-1986). Trong Thế chiến thứ hai, hơn 6.000 người Do Thái đã thoát ra được từ
cõi chết trước sự tàn bạo
của Đức Quốc xã là nhờ
Sugiura (làm việc ở Tổng lãnh sự
quán của Nhật ở Litorania, lúc đó thuộc Liên Xô) cấp
chiếu khán đi Nhật, một việc
làm vừa trái lại nguyên tắc của Bộ
Ngoại giao Nhật, vừa chuốc
lấy nguy hiểm cho bản thân và gia đình Sugiura vì lúc đó cảnh sát chìm của Đức Quốc
xã đã len lỏi vào mọi cơ quan ngoại
giao ở những nước, những
nơi mà họ đang
chiếm đóng. Nhưng trước một nhóm người rất đông đang trông cậy
vào mình để được cứu sống,
lòng nhân của Sugiura đã trỗi dậy bất
chấp luật pháp và sự nguy hiểm có thể đến
với bản thân. Nghĩ cho cùng, đạo đức phải
đứng trên cả luật pháp, và Sugiura đã thể hiện
điều đó với cả sự
cao đẹp đáng ngưỡng mộ.

Trong quá trình xây dựng
đất nước với khẩu
hiệu phải theo kịp và vượt các nước
Âu - Mỹ, nhiều quy phạm đạo đức
truyền thống của người
Nhật, đặc biệt là tinh thần
trách nhiệm, được thăng hoa thành lòng yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Các điển hình này rất nhiều, không thể
kể hết trong khuôn khổ của bài viết
ngắn này. Ngay cả trong hoạt động doanh nghiệp,
là lãnh vực tưởng như mục
tiêu chính là lợi nhuận, ta cũng thấy tinh thần dân tộc rõ nét ở
những người sáng lập các công ty nổi tiếng ngày nay. Chẳng
hạn, Ibuka Masaru (1908-1997),
người sáng lập công ty mà sau này có tên là
Sony, đã nói một câu thật cảm động
trong bài diễn văn thành lập công ty năm 1946: “Phải cố gắng
đem công nghệ, kỹ thuật góp phần
vào việc phục hưng
tổ quốc chúng ta”. Giữa cảnh hoang tàn đổ
nát sau chiến tranh, tinh
thần trách nhiệm đó đã động viên mọi người hăng hái trong công cuộc khôi phục
đất nước.

Shirasu Jiro (1902-1985) được
người đời truyền tụng
về năng lực và khí khái của một nhà ngoại
giao xuất sắc. Một sự
kiện nổi bật được
ghi lại như điểm son của
một quan chức yêu nước và đầy
tự trọng: Trong thời gian Mỹ chiếm đóng Nhật
(1945-1951), có lần Shirasu
được lệnh mang quà của Thiên hoàng đến biếu Thống
soái Douglas MacArthur, người
có trách nhiệm tối cao của đội
quân chiếm đóng. Thấy thái độ trịch thượng
của MacArthur, coi thường quà của Thiên hoàng, Shirasu nổi nóng phản ứng: “Chúng tôi chỉ
là nước bại trận chứ
không phải là nô lệ của các ông”. Thấy
thái độ khảng khái, đầy tự trọng,
không sợ quyền lực, không sợ
khả năng mất chức tước,
mất quyền lợi của
Shirasu, Mac Arthur chột dạ phải xin lỗi
và từ đó có thái độ khác đối với
Nhật.

Những câu
chuyện như trên kể mãi không hết.
Ta có thể đặt câu hỏi là tại
sao ở mọi tình huống của lịch
sử Nhật đều có những
con người biểu hiện một
cách sâu sắc, mạnh mẽ những
quy phạm đạo đức rất
cao đẹp và những đạo đức
đó do đâu mà có? Tôi nghĩ ta có thể
tìm câu trả lời qua cuốn sách “Võ sĩ đạo, linh hồn của Nhật
Bản”.

Nitobe Inazo, tác giả
của cuốn sách, cũng là người thấm nhuần
và thể hiện bằng hành động
rất xuất sắc những
tinh túy của võ sĩ đạo ấy. Cuốn
sách viết năm 1899, xuất bản năm 1900, tức
là năm Minh Trị thứ 33. Sau hơn 30 năm cận
đại hóa, Nhật đã theo kịp Tây phương về một số phương diện.
Trong quá trình đó, tuy du nhập
nhiều tri thức khoa học, luật lệ,
phương pháp tổ chức
chính quyền và công nghệ từ phương Tây nhưng
Nhật luôn thể hiện tính tự
chủ, nhất là tính độc lập về
văn hóa. Động cơ trực tiếp
của Nitobe khi viết sách này là từ câu hỏi của
một người Bỉ về
giáo dục tôn giáo của Nhật, và mục
đích của cuốn sách là cho người Tây phương hiểu rằng tuy Nhật không có giáo dục tôn giáo ở học đường,
nhưng võ sĩ đạo của
thời phong kiến đã hình thành cốt cán luân lý của người võ sĩ. Tuy nhiên qua ngòi bút của ông, ta cũng thấy được tinh thần
dân tộc của một trí thức
yêu nước, muốn chứng minh cho Tây phương biết
rằng Nhật cũng có nền văn hóa độc đáo, có một giá trị tinh thần, một tư
tưởng mà Nhật rất tự
hào.

“Võ sĩ đạo,
linh hồn của Nhật Bản”
đúng là một cuốn sách kinh điển về văn hóa Nhật.
Tôi rất vui mừng thấy cuốn
sách được dịch ra tiếng Việt. Hơn nữa,
bản dịch được thực
hiện bởi một người
Việt sống ở Nhật
hơn 40 năm và thấm
nhuần văn hóa Nhật Bản. Dịch
giả Lê Ngọc Thảo, cũng như
trong những cuốn sách khác về văn hóa, văn học Nhật mà anh đã dịch,
ngoài cố gắng chuyển chính xác nội
dung các trang sách sang tiếng
Việt, còn bỏ công chú giải thêm để những độc
giả chưa quen với
lịch sử và văn hóa Nhật có thể hiểu
sâu hơn.

Xin chúc mừng
anh Lê Ngọc Thảo đã hoàn thành một công việc rất có ý nghĩa.

Tokyo, thu 2007

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3