Tam cứu nhân duyên - Chương 26
Chương 26: Hối Hả
Ta cùng hai người bọn họ cưỡi ngựa ra khỏi thành. Tiểu
Trầm quả thực giống như muốn phát điên, hễ mở miệng ra là tiểu sư muội thế này,
tiểu sư muội thế kia, cũng không thèm che giấu nét hoan hỉ vui sướng trong mắt,
trái ngược hoàn toàn với tâm trạng u ám của ta lúc này. Nếu không phải niệm
tình hắn đã giúp đỡ chăm sóc Hữu Sinh, thì ta đã bóp chết hắn từ lâu, cho tiểu
sư muội kia còn chưa về nhà chồng đã thành quả phụ.
Ta lấy cớ đầu vẫn còn choáng do say rượu, suốt cả quãng
đường không hé răng nói nửa lời. Trình Viễn Đồ cũng nghiêm mặt không lên tiếng,
chẳng biết đang suy nghĩ cái gì. Nhưng đi mãi rồi cũng đến lúc phải chia tay, ở
ngã ba đường, mọi người đều ôm quyền chào từ biệt, sau đó mỗi người một ngả.
Lúc trước ta phiền não vì Tiểu Trầm lải nhải mãi không thôi, giờ bọn họ đều đi
hết, ta lại thèm được nghe ai đó nói chuyện cho nghe, nếu không trong đầu ta sẽ
chỉ đầy ngập hình ảnh đêm trước, cứ như vậy có lẽ ta phát điên lên mất.
Ta để cho ngựa tùy ý đi trên đường, chậm rãi hít thở bầu
không khí tự do quen thuộc, nó vẫn tươi mát ngọt ngào như trước, nhưng lại thêm
một vài phần chua xót. Hốc mắt bất giác ửng đỏ, nước mắt đã viền quanh mặt từ
lúc nào ta cũng không hề hay biết. Ta không lau đi, để mặc cho từng giọt lệ
chậm rãi rời vào không khí, tựa như thứ tình cảm ăn sâu bén rễ trong lòng, không
ngừng day dứt cho đến khi tim ta bị mài thành tro bụi, hay tan nát thành muôn
ngàn mảnh nhỏ.
Đến giờ ta mới hiểu tâm trạng của những người chí sĩ yêu
nước, chỉ vì mưu cầu một tương lai mới mà bỏ lại tất cả gia đình vợ con, dấn
thân vào con đường cách mạng gian khổ. Trước khi ta từng cho rằng bọn họ ra đi
chẳng qua đều là vì trốn tránh cha mẹ quản giáo, trốn tránh thi cử học hành,
hôn nhân sắp đặt, lao động cực khổ, nếu không thì cũng là bất mãn với cuộc sống
hôn nhân hiện tại mà không dám vứt bỏ, cho nên mới tìm lấy một cái cớ hoàn
chỉnh, không còn phải cố sống cho qua ngày đoạn tháng, biết đâu may mắn còn có
thể gặp được một đồng chí nữ trẻ tuổi cùng chung chí hướng, khỏi phải sống
trong sự ức chế hết ngày này sang tháng khác… Hiện giờ ngẫm lại mới thấy, trong
mấy trăm vạn con người, chỉ cần có một kẻ giống như ta thật sự ra đi vì lí
tưởng, vậy thì cách mạng thắng lợi nhưng cái giá phải trả cũng thật là đắt.
Mất hai ngày ta mới trở về đến trấn cũ, hoàn cảnh quen
thuộc làm cho ta vui buồn lẫn lộn. Tựa như một trận mưa tên dồn dập không có
hồi kết, lần lượt từng kỉ niệm cùng cảm giác hết thảy dồn dập tìm về, không cho
ta trốn chạy, cũng không có đường trốn chạy.
Cứng Đầu thấy ta trở về, quả thực giống như là… không có
cách nào khác để diễn tả cái sự vui sướng như điên lúc này, chỉ thiếu điều quỳ
xuống trước mũi giày ta, ba quỳ chín lạy tôn ta lên làm thánh. Chỉ trong vòng
một canh giờ, cả đống người đổ xô tới gặp ta, tất cả đều tìm đến mua bếp lò với
than, trong đó có mấy người ngày hôm qua vừa mới đến mua. Ta đương lúc sôi sục
lửa giận lại không có chỗ phát hỏa, cho nên gặp đâu mắng đấy, mà ai ai cũng
cười tươi như hoa nở, vô cùng cao hứng ôm hàng rời đi. Đứng lại đó, ta còn chưa
nói xong!
Ban đêm đối với ta cũng là một sự thống khổ, đủ thứ
chuyện vặt vãnh xôn xao cùng nhiều tiếng thì thầm khe khẽ từ bốn phương tám
hướng đánh lại, ta muốn chắn cũng không nổi. Ta đã thay đổi chỗ còn như thế,
huống chi là Hữu Sinh, ngày ngày chỉ có thể ở một chỗ, đủ biết bi thương đến
mức nào. Lại nghĩ hiện giờ hắn một mình ở trong phòng tối, ta lại không thể ở
đó giúp hắn khuây khỏa, những lúc đau đớn, hắn chỉ đơn độc một người mà cam
chịu, nghĩ đến đây nước mắt lại tràn ra như nước lũ…
Ta đúng là không nên sống. Nhưng nếu ta vẫn ở lại đó, vậy
thì ngày ngày chỉ biết đi trên cùng một con đường, hoặc tự giam mình ở thư viện
hay đi loạn khắp nơi không mục đích, sớm muộn gì ta cũng sẽ không chịu nổi, cứ
chết dần chết mòn, khiến cho Hữu Sinh cũng khổ lây. Thật chẳng khác gì trước
mặt là vực sâu vạn dặm, sau lưng là núi đen sừng sững, không có đường để thoát.
Cả một đêm dài, ta trằn trọc không ngủ, trái tim trong
lồng ngực vẫn nhảy lên gấp gáp, tay chân run rẩy không thôi, quả thực sống
không bằng chết.
Ta cũng hiểu được tình cảnh của những người bị trúng độc,
cực độ thống khổ! Có ai đó làm ơn giúp ta quên đi tấn cực hình này, dù chỉ
trong chốc lát thôi cũng được, để cho ta có thể thanh thản một chút…
Lúc này ta lại càng hiểu được Hữu Sinh là người kiên
cường đến mức nào, trải qua bao nhiêu cực khổ, phải chịu sự phản bội ghê tởm
như vậy nhưng cái tâm tính thanh khiết ôn hòa kia vẫn y nguyên không hề suy
suyển, vẫn biết khóc, biết cười, vẫn ngượng ngùng, vẫn quan tâm, vẫn có thể yêu
sâu sắc như xưa. Hắn chưa bao giờ cố tình lảng tránh những thống khổ đã qua,
hai bờ vai gầy yếu vẫn gắng sức cam chịu, cắn răng cố nén đau thương để cho ta
rời khỏi bên người hắn… Càng nghĩ đến đó, ta càng không chịu nổi, chỉ mong có
thể quên đi hết thảy…
Ta thật sự là nhát gan, không dám đối mặt với lương tâm
chính mình, vì thế ngay ngày hôm sau, ta đã rời khỏi trấn, một đường chạy đến
quân doanh, y hẹn đến làm hộ y cho binh sĩ. Mọi sự trong nhà đều giao cả cho
Cứng Đầu tự mình quản lí, sau khi kiểm tra ta mới phát hiện, chúng ta ngày càng
ăn nên làm ra, kì lạ là hắn mặc dù không thích học tập, nhưng chỉ cần nói đến
kinh doanh thì hiểu rõ mồn một, thậm chí không cần chỉ cũng biết. Ta dặn dò đủ
thứ xong xuôi, sau đó leo lên Lộ Lộ rời khỏi trấn ngay giữa buổi trưa.
Hai chục ngày tiếp theo, ta đều bôn tẩu trên đường. Hết
nơi ruộng đồng tuyết phủ trắng xóa lúc bình minh đến rừng cây tiêu điều lá
rụng, hết ven hồ nước trong vắt như gương soi đến dải đê ngập màu xanh dương
liễu; có đôi khi trên đường ta bắt gặp những người đồng hành, vừa đi vừa trò
chuyện trên trời dưới biển, lại có lúc chơi đùa cười cợt với lũ trẻ bên đường.
Khi vượt qua một khúc sông, ta lặng yên lắng nghe người lái đò chất phác vừa
chèo thuyền vừa thong thả ngâm xướng, tô điểm thêm vào tiếng kêu vang của một
vài con chim nước chao liệng. Những ngọn núi cao chìm trong mây mù, trăm ngàn
tiếng lá thông reo trong gió hòa lẫn những câu thơ ngắn ngủi thốt lên trong lúc
xuất thần. Ta không ngừng tự nói với chính mình, nếu ta lưu lại nơi đó, hết
thảy mọi thứ đều sẽ không thể xảy ra, trong đó có cả cái không khí tươi mới yên
bình mà ta vốn ưa thích. Nhưng mỗi giây mỗi phút trôi qua, ta đều không thể
ngăn mình nghĩ tới Hữu Sinh, không ngừng suy đoán, giờ này phút này, hắn đang
làm gì…
Không, không thể nói là mỗi một giây, bởi có một ngày
sáng sớm sương giá giăng đầy trời, ta đã đến được đỉnh núi, nhưng lại muốn đi
xuống một sườn núi hẹp, một nơi chỉ có chiều dài mười thước bề ngang một thước,
ở nơi đó sườn núi nhô ra sừng sững cong cong như lưng cá, cả hai bên đều là
vách núi đen sâu vạn trượng, chỉ có một sợi xích sắt đen hoen rỉ vắt ngang qua
lưng chừng núi. Người dẫn đường nói, nếu ta không có võ công thì đừng cố đi
qua, bởi tại đây gió núi thổi mạnh, sườn núi vừa lạnh lại trơn, nếu như trượt
chân rơi xuống thì vô phương sống sót.
Không biết là do triền núi kia khiêu khích tâm trạng ta,
hay là do ta phân vân chính mình còn muốn sống tiếp hay không, chỉ biết rằng ta
vẫn một mực lần bước đi lên lưng núi, hai tay nắm xích sắt, hai mắt không dời
hai bàn chân. Ta lần lượt tự hỏi bản thân: ta lúc này, có phải vẫn còn biết quý
trọng sinh mệnh hay đã vứt nó sang một chỗ? Nếu như câu trả lời là phải, lập
tức đôi chân sẽ bị thôi thúc mà bước lên từng bước. Ta không biết mình đã đi
được bao lâu, chỉ biết khi ta tới bờ đối diện, mồ hôi lạnh đã túa ra ướt sũng
cả lưng áo. Ta đột nhiên phát hiện, giữa cái khoảnh khắc sinh mệnh mong manh
như sợi chỉ mành treo chuông, ta không hề mảy may nghĩ tới hắn. Cho nên ta
không thể nói, mỗi giây mỗi phút ta đều không quên được hắn.
Ta mất bao lâu mới hiểu được, bản thân không thể chu toàn
cả hai phía. Nếu ta ở lại Vương phủ, cái bản tính ưa thích tự do, luôn luôn
hướng tới ngao du thiên hạ của ta sẽ không được thỏa mãn, lâu dần tính ngạo mạn
cũng sẽ chết đi, bản thân ta cũng sẽ u ám ảm đạm, ngày không thể ăn, đêm không
thể ngủ. Hữu Sinh hiểu rõ điều này, cho nên mới cố cam chịu để ta rời đi. Nhưng
hôm nay tự do tự tại giữa bốn bề thiên địa, ta cũng tự mình vỡ lẽ, cái tâm yêu
thương hắn cũng không thể trọn vẹn, mà nếu đã không thể trọn vẹn, vậy thì để
cho ta chết đi! Nôn nóng cùng buồn bực, tưởng niệm cùng bất an, ta phát điên
mất thôi!
Ta đến nơi quê hương của tơ lụa, công việc bận rộn mau
chóng lấp đầy đầu óc, xua đi cái sự muộn phiền giằng xé nội tâm mỗi khi rảnh
rỗi. Hết thảy tinh thần và sức lực đều đổ dồn vào công việc, cũng nhờ đó mà
trong lòng thư thái hơn một chút.
Ta thuê phòng ốc, chọn mua những loại tơ lụa hạ đẳng đơn
sắc, thuê bảy tám người phụ nữ làm thợ may, tay nghề cũng không cần cao lắm, tự
tay thiết kế hộ y cho binh lính. Ta nghĩ mỗi người lính khi bị thương trên
chiến trường, đến lúc băng bó không thể không cởi quần áo, vì thế liền thiết kế
chiếc áo trước sau có bốn mảnh, cộng thêm cả tay áo, mỗi mảnh đó đều gắn lại
với nhau bằng dây hoặc nút, nếu bị thương thì chỉ cần cởi nút thắt, mảnh áo phủ
trên miệng vết thương có thể tháo bỏ nhanh chóng, như vậy sẽ không phải bỏ phí
một chiếc áo. Ta tự mình cắt may tấm áo đầu tiên làm mẫu, sau đó tất cả đều
giao lại cho bọn họ. Những cô nương đó may vá thành thạo, đường kim mũi chỉ
thoăn thoắt làm cho ta choáng váng, tự nhiên cảm thấy mình thật là kém cỏi…
Một lần rảnh rỗi, ta vẩn vơ suy nghĩ, tự nhiên ngán ngẩm
vì sao nữ nhân mỗi tháng đều gặp phải nguyệt sự phiền toái, băng vệ sinh thô sơ
cũng ra đời từ đó, chỉ là hai tầng vải bông, bên trong đổ đầy tàn hương hoặc
tro than, dùng xong có thể giặt sạch là dùng lại được. Tuy rằng thua xa sản
phẩm hiện đại, nhưng vẫn còn hơn tầng tầng lớp lớp vải thô. Tiếp đó là nguyên
bộ đồ lót đi kèm, ta tìm một vài tiểu cô nương nhanh mồm nhanh miệng đi tiếp
thị hàng. Rất nhanh sau đó hàng làm ra không kịp bán, một cửa hàng độc quyền
buôn bán cũng mọc lên do ta làm chủ, cũng nhân tiện giúp đỡ các chủ hiệu khác
bán được hàng, thành lập liên minh kinh doanh, mọi người chung sống hòa bình,
không tổn hại hòa khí. Một thành trấn đã đứng vững, ta lại đến một thành trấn
khác mở rộng địa bàn. Từ đó công việc khắp nơi cứ ùn ùn đổ xuống, không có lúc
nào rảnh tay.
Không làm thì thôi, đã làm thì phải làm đến cùng, ta tiếp
tục lấn sân sang bồn cầu vệ sinh. Trước tiên là phải có một cái chum thật lớn
để hứng lấy chất thải, một nửa chôn dưới đất, chỉ chừa lại nắp đậy bên trên.
Bồn cầu trong phòng có van ở dưới đáy, thông đến ống dẫn bằng đất nung, nối
thẳng đến cái chum ở bên ngoài. Mỗi lần xong việc chỉ cần lấy nước rửa trôi bồn
cầu, tuy rằng bên ngoài khó tránh khỏi có mùi, nhưng bên trong lại tương đối
sạch sẽ. Sản phẩm vừa ra mắt đã có người mua hết, quả thực là tiêu thụ không
kịp. Nhà giàu trong thành đều muốn có, những người không có đều tự lấy làm hổ
thẹn. Tiếng lành đồn xa, bao nhiêu người đổ xô đến tranh nhau mua bán, đến nỗi
thành trấn ta ở giao thông nhất thời trở nên hỗn loạn, tắc đường triền miên,
bởi vì đường xá chật ních toàn xe ngựa chở người đến mua bồn cầu.
Lợi nhuận từ bồn cầu thật sự khủng khiếp, nhu cầu cũng
càng ngày càng lớn, một mình ta không thể kham nổi, đành phải gửi thư gọi đám
người tứ thiếu A đến hỗ trợ. Bọn họ thấy ta đều kính cẩn lễ phép, căn bản không
ngờ chỉ trong thời gian ngắn mà ta có thể làm ra cơ nghiệp lớn như vậy. Ta tự
mình dẫn bọn họ đi hướng dẫn cung cách làm ăn cùng quản lí kinh doanh, mỗi ngày
ân cần dạy bảo. Vốn dĩ trước đây ở quê cũ, cả bọn đều bị người ta cho là chơi
bời lêu lổng, đến đây lần này tự nhiên lại phát hiện thì ra trên đời cũng có
chỗ mình dùng được, vậy nên ai nấy đều phấn đấu quên mình. Có lẽ mấy vị bằng
hữu này trời sinh tuy học hành không đến nơi đến chốn, nhưng đầu óc cũng không
có gì xấu xa, hoặc có thể do ta dạy dỗ mát tay, chỉ cần hướng dẫn một chút là
hiểu được, lâu dần thành thạo, rất nhanh có thể độc lập quản lí một phương.
Chúng ta cũng bỏ vốn dựng vài cái nhà xưởng, sản xuất chum vại, bồn cầu, ống
dẫn, huấn luyện nhân viên lắp đặt, …
Cẩn thận ngẫm lại, tính cả than cùng lò đốt, ngoại trừ hộ
y cho binh sĩ là do Trình đại ca đặt làm, tất cả tiền tài của ta đều từ những
gì mọi người cho là dơ bẩn thấp hèn. Nhất là bồn cầu, trên thế gian có ai dám
bỏ qua thể diện mà thử làm cái đó. Xem ra cha Cứng Đầu nói cũng đúng, ta thật
sự là kẻ tự mình cam chịu thấp hèn, nhưng lại không hề day dứt lương tâm, có lẽ
cảm thấy bản thân mình thích hợp làm công việc hạ đẳng đó. Tất cả mọi người đều
có nhu cầu cần đáp ứng, đối với ta thì bạc vào tay thật nhiều mới là tốt nhất.
Bởi vì số lượng tiền đổ vào túi ngày càng nhiều, mà ta
lại không muốn để người khác quản lí, vậy nên đành phải thành lập Vân Khởi Ngân
Trang. Lúc đầu lập ra chỉ là hỗ trợ việc kinh doanh giữa xí nghiệp với khách
hàng, sau cũng kiêm nhiệm quản lí sổ sách cho khách hàng của các tiệm buôn
khác. Lập ra ngân trang đối với ta cũng coi như là an ủi đôi phần, ít nhất
chúng ta làm trong ngành ngân hàng, vẫn cao cấp hơn so với buôn bán bồn cầu.
Nhưng ở cái thời đại cổ xưa này, chủ ngân hàng cũng tương đương đám con buôn
hèn mọn không đáng nói, đều bị cho là chỉ biết giật tiền của thiên hạ, không có
gì thanh nhã cao quý.
Trước mặt ta ai nấy đều tỏ ra cung kính, nhưng sâu trong
đáy mắt vẫn có chút khinh thị, nghĩ rằng ta chẳng qua chỉ là hạng trọc phú mới
phất mà thôi. Cho dù lưng đeo bạc vạn cũng không trốn được người đời khinh bỉ.
Có đôi khi ta cũng thấy tủi thân, thật sự muốn đăng biển đề mấy chữ: “Ta tốt
nghiệp khoa Trung Văn đại học B, cũng biết đọc Kinh Thi cùng Luận Ngữ!” Nhưng
xung quanh căn bản không có ai có thể cùng ta chia sẻ nỗi lòng … Không, không
thể nghĩ, không được… Ta không dám đào lên mớ kí ức xa xưa kia một lần nữa, chỉ
có thể ngày ngày vùi đầu vào làm việc, tìm cách kiếm miếng cơm manh áo!
Nhưng ban đêm lại hoàn toàn trái ngược! Ta nằm trên
giường, cố gắng đi vào giấc ngủ, nhưng không sao ngăn được dòng cảm xúc dồn dập
đánh tới như một cơn hồng thủy! Những lần trò chuyện bên sông dưới ánh chiều
tà, những câu chuyện cười vu vơ ngắn ngủi, bàn tay ta từng nằm gọn trong tay
người đó, nụ hôn cuồng nhiệt mà đau đớn lúc chia tay. Đến bây giờ ta mới hiểu
được câu nói “Khi ấy chỉ coi là chuyện tầm thường” [1] đau đớn day dứt đến bậc
nào.
[1] Nguyên văn:
“Đương thì chích đạo thị tầm thường” trong tác phẩm Hoán Khê Sa (đắm mình trong
dòng suối cát) – Nạp Lan Tính Đức:
Thùy niệm tây phong độc tự lương,
Tiêu tiêu hoàng
diệp bế sơ song,
Trầm tư vãng sự
lập tàn dương.
Bị tửu mạc kinh
xuân thụy trọng,
Đổ thư tiêu đắc
bát trà hương,
Đương thì chích
đạo thị tầm thường.
(Ai bảo gió tây
lạnh lẽo cô độc,
Lá vàng đìu hiu
che mờ khung cửa trống rỗng,
Trầm tư suy
nghĩ về chuyện đã qua dưới ánh chiều tà.
Nhờ rượu mà lại
chìm trong giấc ngủ xuân không hoảng hốt,
Giọt trà thơm
vẩy trên trang sách,
Khi ấy chỉ nói
là chuyện thường)
Ta liều mạng bươn chải, chỉ mong đến khi tắt nắng có thể
ngủ an giấc. Nhưng cho dù có bận đến tối tăm mặt mũi, trong thâm tâm vẫn chỉ là
một mảnh vô vọng tan nát.
Đầu mùa hạ, kì hẹn với Trình Viễn Đồ cùng Tiểu Trầm đã
tới. Hộ y đã sớm hoàn thành, hàng thêu nho nhỏ khi xưa giờ đã thành phường thêu
lớn, chuyên bán đồ dùng phụ nữ. Ta sắp xếp ổn thỏa người làm cùng sự vụ, cùng
đoàn xe chở hộ y khởi hành đi về hướng bắc.
Ta trở lại trấn cũ, thấy tiểu tử Cứng Đầu giờ đã thành
thủ lĩnh một phương, tuy vẫn chỉ biết cam chịu mỗi khi ta mắng mỏ, nhưng giờ
hắn đã biết nhìn ra cơ hội, có thể độc lập phát triển sự nghiệp. Ta bỏ tiền mua
đứt mỏ than đá kia, lại mở tiếp Vân Khởi Ngân Trang ở trấn trên, để cho Cứng
Đầu đảm nhiệm việc kinh doanh than, bản thân về sau chỉ ở sau mành làm chỉ
điểm.
Về lại thành trấn đầu tiên ta đặt chân tới, cầm trong tay
cuốn y thư mà Tiểu Trầm gửi tới, ta biết hắn đã kết được mối lương duyên, trong
lòng không khỏi dâng lên nỗi phiền muộn. Đoàn xe vẫn trên đường bắc thượng,
nhưng đường đi lại vòng quanh trấn nhỏ. Lòng ta bùi ngùi vô hạn, cũng buồn bực
vô hạn.
Ta lại nhớ tới cái đêm trong miếu hoang đổ nát, nhớ tới
buổi sáng ngày đó, nhớ chúng ta đã nhìn nhau hồi lâu, nhớ hắn kéo tay ta nắm
chặt… Nhớ tới những điều ta tưởng đã quên mất từ lâu, cuối cùng đành phải cố
gắng xua đi hết thảy suy nghĩ! Ta hận không thể xoay người đào tẩu, chỉ vì có
chuyện cần làm.
Ta tìm tới Lí lang trung, lúc hắn nhìn thấy ta, khuôn mặt
từng trải quen thuộc mừng rỡ muốn phát điên, thiếu chút nữa xông tới ôm ta. Ta
trả lại hắn mười hai lạng bạc, tặng cho hắn y thư. Nâng cuốn y thư trong tay,
hai bàn tay hắn run rẩy, rưng rưng nói với ta, những lời ta nói với hắn khi
trước, từng câu từng chữ đều là thật, ngày hôm nay hắn có được so với dĩ vãng
từng làm, không biết hơn bao nhiêu mà kể.
Ta để lại một phần ngân lượng, giúp hắn tìm một trợ thủ
cùng trang bị để thành lập phòng thuốc Bách Y Đường thứ nhất.
Mọi người nghe tin ta trở về đều tập trung ở nhà Lí lang
trung, hương thân phụ lão già trẻ gái trai đều tề tựu cả trong sân, đồng thanh
đề nghị ta giảng sách một lần nữa. Ta không thể nói nên lời, chỉ có thể nhẹ
nhàng cự tuyệt, trong lòng cũng vô cùng áy náy.
Ta mời toàn bộ người trong trấn đến Khinh Phong Lâu ăn
bữa cơm, những ai không có chỗ đành ngồi ra cả mặt đường. Mọi người hoan hỉ vui
mừng, còn ta cố nén không rơi lệ, bánh bao trước mặt cũng không thể nuốt trôi.
Ta không dám ở lại qua đêm, sợ rằng nhớ lại ta sẽ phát
điên, chỉ có thể trao ngân lượng để giúp người dân trong trấn tu sửa cầu đường,
còn cho bọn tiểu khất cái chút bạc, bảo bọn họ đi về phía nam làm việc. Sau đó
khi đêm xuống, ta rời khỏi trấn, đánh xe đi tới biên quan.