Phía đông vườn địa đàng - Chương 17
Chương XVII
Một đêm mùa thu năm 1916
trong lúc Cal đang xem người ta chơi bài Jan-tan tại quán Shorty Lim thì có
cuộc bố ráp và anh ta bị tóm cổ theo. Vì đêm tối không ai để ý đến Cal, sáng
hôm sau, ông sếp bối rối hết sức khi nhận ra Cal trong số những người bị bắt về
hồi hôm. Ông sếp liền gọi điện thoại cho Adam đúng giữa bữa điểm tâm của ông.
Ông Adam đi bộ ngang qua
hai dãy phố đến tòa tỉnh trưởng bảo lãnh Cal về, ông ghé lại ty bưu điện để bỏ
lá thư rồi hai cha con đi bộ về nhà.
Lee hâm lại mấy quả trứng
cho ông Adam và chiên thêm hai quả nữa cho Cal.
Trong khi đi học, Aron
bước ngang qua phòng ăn hỏi Cal:
- Mày có cần tao đợi
không?
- Không. - Cal trả lời
gọn lỏn và vẫn cúi gằm mặt xuống tiếp tục ăn phần trứng của mình.
Ông Adam chẳng nói gì với
Cal trừ mấy tiếng ngắn ngủi: “Thôi về” tại tòa tỉnh sau khi cám ơn ông Tỉnh
trưởng. Cal cố nuốt bữa ăn sáng mà cậu không muốn ăn một chút nào. Cal vừa ăn
vừa liếc mắt lên nhìn vào mặt cha mình nhưng vẫn không thấy một phản ứng nào rõ
rệt. Ông vừa có vẻ bối rối vừa tức giận và vừa buồn.
Ông Adam nhìn xuống ly cà
phê. Không khí im lặng giữa hai cha con nặng nề đến độ khó bề phá tan được.
Lee ghé mắt nhìn vào bàn
ăn hỏi: - Có thiếu cà phê không?
Ông Adam khẽ lắc đầu. Lee
rút lui xuống bếp và khép cửa nhà bếp lại.
Giữa bầu không khí yên
lặng mà tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ càng làm cho nặng nề thêm. Cal cảm
thấy hồi hộp và có cảm tưởng ba mình đã kiệt lực, chưa bao giờ nó thấy ông như
vậy. Nó cảm thấy hai chân mình tê buốt. Nó gõ nĩa vào đĩa ăn để gây một tiếng
động, nhưng tiếng động tan loãng mau. Sau đó chiếc đồng hồ khoan thai gõ chín
tiếng và rồi cũng rơi vào im lặng.
Bỗng Cal vùng đứng lên.
Nó cũng không ngờ mình hành động như vậy. Nó hét lớn như người mê sảng:
- Ba định làm gì con thì
ba cứ ra tay đi. Ba hãy ra tay lẹ đi, con hết chịu đựng nổi cảnh chờ đợi này.
Ông Adam từ từ ngẩng đầu
lên. Rõ ràng là từ trước đến nay Cal chưa hề có dịp nhìn kĩ vào cặp mắt của cha
mình và những người khác cũng chưa bao giờ nhìn thẳng vào cặp mắt của ông. Hai
đồng tử trong mắt ông màu xanh nhạt với những đường viền màu sậm long lanh dẫn
tới hai con ngươi sáng ngời. Trong mỗi con ngươi đó Cal thấy phản chiếu khuôn
mặt mình như có đến hai thằng Cal đang nhìn vào ông vậy.
Adam ôn tồn nói:
- Ba đã làm con thất vọng
phải không?
Câu nói đó còn khó chịu
hơn là mắng nhiều. Cal ấp úng hỏi:
- Ba hỏi sao?
- Con bị hốt tại một quán
nơi đánh bạc. Ba không hiểu con đã làm gì ở đó? Con đến đó để làm gì và tại sao
con lại đến đó?
Cal ngồi phịch xuống ghế
cúi gầm vào dĩa thức ăn.
- Con đến để đánh bạc?
- Thưa ba không. Con chỉ
ngồi nhìn thôi.
- Từ trước đến nay con đã
tới đó lần nào chưa?
- Dạ đã nhiều lần rồi.
- Tại sao con tới đó?
- Con cũng không hiểu tại
sao. Ban đêm con bị bứt rứt không ngủ được nên con thường đi lang thang vô mục
đích như vậy.
Nó nghĩ đến bà Kate, mẹ
nó nhưng không dám nói ra sợ làm ba nó kinh ngạc.
Ông Adam suy nghĩ kĩ câu
nói của nó rồi mới hỏi:
- Anh của con có đi lang
thang như vậy không?
- Dạ không. Anh ấy không
hề nghĩ đến chuyện đó. Anh ấy không mang tâm trạng bứt rứt như con.
Ông Adam nói:
- Con xem, ba thú thật
không hiểu con một chút nào.
Cal muốn ngã vào lòng
cha, ôm ghì ông trong tay và để được ông ôm trả lại. Nó muốn biểu lộ tình cảm
của mình với cha một cách nồng nhiệt cuồng dại. Nó thọc ngón tay trỏ vào cái
khoen gỗ của chiếc bàn, nói:
- Ba muốn hỏi gì, con sẽ
trả lời rõ cho ba hiểu.
- Ba không muốn hỏi vì ba
là một người cha không ra gì cũng như ông nội con hồi trước.
Cal chưa hề nghe cha mình
nói bằng giọng đó bao giờ. Giọng nói khàn khàn của ông vừa thất vọng vừa đầm
ấm. Ông lộ vẻ bối rối một chút rồi nói tiếp:
- Ba của ba đúc sẵn một
cái khuôn rồi bắt ba rập đúng vào cái khuôn đó. Ba không phải là chất dễ đúc
khuôn và ba đã không bị tan rã. Vì thế mà ba vẫn còn là ba. Bây giờ đến lượt ba
không hiểu các con của ba. Ba không biết mình nên xử sự thế nào cho phải.
- Con sẽ giải thích cho
ba rõ tất cả những gì ba muốn hiểu về con. Xin ba cứ hỏi.
Sự thân mật và đầm ấm dễ
chịu đến nỗi Cal muốn bám riết vào. Nó thở thật khẽ sợ rằng chút đầm ấm thân
mật đó có thể tan đi.
Ông Adam nói tiếp:
- Con còn nhớ ông Samuel
Hamilton chứ? Chắc là con còn nhớ. Hồi con còn bé ông có chê ba là người cha
thiếu trách nhiệm. Bây giờ cha mới hiểu ý ông. Ba cũng giống ông nội con trước
đây. Ông con đã không cho phép ba trở thành một con người toàn vẹn và ba đã
không xem các con như những con người riêng biệt. Có lẽ ông Samuel đã muốn nói
như vậy.
Ông nhìn thẳng vào mắt
Cal rồi mỉm cười. Cal cảm thấy đau đớn vì thứ tình cảm mà cha đã dành cho mình.
Nó nói:
- Thà ba cứ để con bị bỏ
tù mà con dễ chịu hơn.
- Chính ba cũng thấy như
vậy. - Ông cười lớn. - Nào bây giờ con hãy nói về con người của con cho ba nghe
xem.
- Vâng, con sẽ nói.
- Làm người, ai cũng có
một trách nhiệm riêng – Ai cũng muốn có được một cái gì hơn là những thứ tầm
thường có sẵn. Con muốn thế nào?
Cal rụt rè hỏi:
- Ba không nói đùa chứ?
- Không. Con hãy nói về
con cho ba nghe đi nếu con muốn.
Cal bắt đầu nói. - Vâng,
con sẽ nói… - Rồi nó dừng lại rồi tiếp: - Thật là khó bắt đầu bằng câu gì.
- Con hãy nói về anh con.
- Anh ấy là một người
tốt. Anh ấy không bao giờ làm phiền ai. Anh ấy không hề nói xấu ai. Anh ấy
không bần tiện, không than thở. Anh ấy can đảm nhưng không thích tranh giành
với ai.
- Bây giờ con hãy nói về
con.
- Ba muốn hỏi gì?
- Bộ con muốn nói con
thích làm điều xấu sao?
Cal đỏ bừng mặt nói:
- Vâng, con đã làm những
điều không tốt đối với Aron. Lắm lúc con đã chọc giận anh ấy không vì một
nguyên cớ nào cả.
- Trong lúc đó chính con
lại khổ tâm còn Aron thì lại không thắc mắc gì cả.
- Con không rõ. Khi con
không muốn đi nhà thờ anh ấy rất buồn. Có lần Abra nổi giận bảo rằng chị ấy
ghét Aron, anh ấy rất thất vọng. Anh ấy phát ốm. Ba còn nhớ lần đó chứ? Chú Lee
đã phải đưa anh ấy đến bác sĩ.
Ông Adam ngạc nhiên nói:
- Ba vẫn sống bên cạnh
các con mà không hề để ý đến những chuyện nào như vậy hết. Tại sao Abra lại nổi
sùng như vậy?
- Con có thể nói chuyện
này được. Ba biết Aron muốn trở thành mục sư, anh ấy định sẽ không bao giờ lấy
vợ. Có lẽ ảnh định sống ẩn dật như một nhà tu.
- Mà Abra thì không chịu
như vậy phải không?
- Chịu sao được? Cô ấy
phỉ nhổ và như muốn điên lên ấy chứ. Cô ấy dằn lấy cây viết máy của Aron ném
xuống đất rồi chà chân lên. Cô ấy nói rằng đã phí hết nửa cuộc đời vì Aron.
Ông Adam cười lớn hỏi:
- Abra năm nay bao nhiêu
tuổi?
- Gần mười lăm tuổi.
Nhưng cô ấy có vẻ già dặn hơn tuổi của mình nhiều.
Ông Adam nói nửa đùa nửa
thật:
- Vậy sao con không nhảy
vào thế chỗ của Aron để an ủi cô ta?
- Abra là bồ của Aron,
-vCal cãi chính.
Adam nhìn thẳng vào mắt
Cal, rồi ông gọi lớn xuống nhà bếp: “Lee ơi!” Không nghe tiếng trả lời ông lại
gọi: “Lee ơi!” Ông nói thêm:
- Ba không nghe tiếng
chân chú ấy ra khỏi nhà mà. Ba muốn có thêm một ít cà phê.
Cal đứng bật dậy nói:
- Để con đi làm cho ba.
- Con phải đi học mà.
- Con nghỉ một hôm cũng
được. Con đang cảm thấy sung sướng và muốn hầu chuyện ba.
Ông Adam nhìn xuống hai
bàn tay mình rồi ngượng ngùng nói thật khẽ:
- Vậy con hãy làm cà phê
đi.
Cal đi nấu nước sôi và
vui sướng đứng chờ. Một phép lạ khi đã trở thành quen thuộc thì nó sẽ không còn
là một phép lạ nữa. Cal đã hết cảm giác ngạc nhiên về sự thân mật quý báu xảy
ra giữa mình và cha vừa rồi nhưng niềm vui sướng vẫn còn. Nỗi cô đơn độc hại,
lòng ganh tị sâu xa đã tan biến khỏi tâm hồn Cal. Bây giờ nó cảm thấy mình đã
nhẹ nhõm khoan khoái. Nó muốn phục vụ cha nó, muốn có món quà thật lớn để tặng
cho ông, muốn thực hiện một công trình gì thật vĩ đại vì danh dự của cha mình.
Nước đã sôi. Cal tắt bếp
và lọc cà phê. Nó nhủ thầm: “Mới hôm qua mình đâu có hề mó tay vào công việc
này.”
Khi nó mang bình cà phê
bốc hơi lên, ông mỉm cười nói:
- Con pha cà phê gì mà lạ
thế này?
- Nước thật sôi con mới
pha mà.
- Nhưng vừa cà phê thôi
chứ.
- Thưa ba khi nào con học
hết bậc trung học ba cho con điều khiển nông trại nhé?
- Con lo hơi sớm đó. Còn
Aron có dự tính gì chưa?
- Anh ấy muốn học đại
học. Ba đừng nói con nói chuyện đó. Ba cứ để anh ấy nói rồi hãy có ý kiến.
- Đâu có sao, như vậy
càng hay. Còn con không muốn tiếp tục học đại học như Aron sao?
- Con tin rằng con sinh
sống bằng nghề nông được và có thể kiếm đủ tiền giúp anh Aron theo học hết đại
học.
Ông Adam nhấm một hớp cà
phê và nói:
- Vậy là con tốt bụng với
anh con quá. Hồi nãy sở dĩ ba hỏi con về Aron vì ba cứ tưởng con không ưa Aron
hoặc ghét bỏ gì nó.
Cal thành thật nói:
- Trước đây con có ghét
ảnh thật nhưng bây giờ con không còn ghét ảnh nữa. Con không nghĩ rằng con có
thể ghét bỏ bất cứ người nào, ngay cả mẹ con…
Nó ngừng lại ngay đó vì
thấy mình đã lỡ lời; nó hốt hoảng, tâm trí như đông đặc lại vì thất vọng.
Ông Adam nhìn thẳng trước
mặt. Ông đưa tay bóp trán. Cuối cùng ông nói:
- Con biết về mẹ con à!
Câu nói không có vẻ gì là
một câu hỏi.
- Dạ biết.
- Con đã biết tất cả về
bà ấy sao?
- Dạ vâng.
Ông Adam đưa người ra sau
ghế hỏi thêm:
- Aron có biết không?
- Dạ không. Con không dám
nói cho anh ấy biết.
- Tại sao vậy?
Cal nói toạc ra:
- Con chắc anh ấy không
chịu nổi một sự thật phũ phàng như vậy. Anh ấy quá thánh thiện không thể chịu
đựng nổi chuyện đó.
Nét mặt ông Adam đầy vẻ
mệt mỏi nói:
- Cal, hãy nghe ba hỏi
đây. Con có nghĩ rằng Aron sẽ không bao giờ biết được chuyện đó không?
Cal đáp:
- Anh ấy không hề bén
mảng tới những chỗ như vậy. Nếu anh ấy vào đại học, anh ấy sẽ xa hẳn được thành
phố này.
Ông Adam gật đầu:
- Con nói có lý. Nhưng nó
còn phải ở đây hai năm nữa mới hết bậc trung học.
- Con có thể khuyên ảnh
học dồn hai lớp trong một năm cho xong. Anh ấy thông minh lắm.
Ông Adam có cảm tưởng
mình sáng mắt hẳn lên. Nét mặt ông rắn lại. Hai mắt ông long lanh, linh
độngmạnh mẽ gọi: “Cal.”
- Ba gọi gì con?
- Ba tin cậy ở con. - Ông
Adam nói.
*
Sự tin cậy của ông Adam
đã đem lại cho Cal một nỗi sung sướng lớn lao. Nó hay mỉm cười hơn là thói quen
cau mày như trước đó, những mặc cảm đã vơi đi nhiều trong tâm hồn nó.
Chú Lee để ý thấy sự thay
đổi đó ở Cal và đã hỏi nó:
- Cal đã tìm được một cô
bạn gái rồi phải không?
- Bạn gái hả? Ồ, tôi đâu
cần bạn gái.
- Đàn ông nào cũng cần
bạn gái hết. - Lee nói.
Trong nguồn vui mới, Cal
thấy có bổn phận giữ kín câu chuyện riêng giữa hai cha con nên không nói ra với
chú Lee. Nó hiểu rằng mẹ nó là nguồn gốc nỗi đau khổ và nhục nhã của ông Adam
và nó lý luận rằng những gì bà có thể làm trước kia thì bấy giờ bà cũng có thể
làm trở lại. Nó muốn tìm hiểu tất cả những gì có thể hiểu được về bà. Một kẻ
thù đã biết rõ thì ít nguy hiểm và ít gây ngạc nhiên cho ta hơn.
Cal thường lò dò men theo
những lối mòn đến gần ngôi nhà của bà Kate, mẹ nó. Đôi khi về buổi chiều nó đến
nằm ẩn mình trong đám cỏ dại cao phía bên kia đường đối diện với ngôi nhà nhìn
vào. Nó để ý thấy rằng bà Kate thường ra khỏi nhà vào mỗi trưa thứ hai, khoảng
một giờ rưỡi. Cal sắp xếp mọi công việc ở trường bằng cách làm trước bài vở để
có thể vắng mặt vào các buổi chiều thứ hai. Khi Aron hỏi, nó trả lời rằng nó
bận một việc riêng không thể tiết lộ được. Với vẻ thản nhiên của nó, Aron không
còn để ý nữa.
Sau khi đã theo dõi bà
Kate nhiều lần, Cal đã biết đường lối. Bà thường đi trên một lộ trình nhất
định: trước hết bà đến ngân hàng Monterey County Bank, tại đó bà ký thác một
hộp nữ trang quý giá. Bà vào trong đó khoảng mười lăm đến hai mươi phút. Rồi bà
chậm rãi đi dọc theo lộ chính của thị trấn, nhìn qua các món hàng bày trong các
mặt tủ kính, mua vài món lặt vặt. Khoảng hai rưỡi bà vào tiệm sửa sắc đẹp
Minnie Franken’s chừng một tiếng đồng hồ rồi trở ra với đầu tóc kẹp nhiều lọn
quăn có trùm một vuông khăn lụa quanh đầu.
Đến ba giờ rưỡi bà bước
lên bậc cấp dẫn vào khu Farmer’s Mercautile. Bà ghé vào phòng khám bệnh của bác
sĩ Rosen. Khi từ phòng mạch của bác sĩ ra bà dừng lại trước hiệu bánh kẹo
Bell’s mua một hộp sô-cô-la hai cân Anh. Bà không bao giờ thay đổi lộ trình. Từ
hiệu Bell’s bà đi thẳng về đường Castroville và trở về nhà.
Bà không có vẻ gì khác lạ
cả trừ chi tiết bà luôn luôn mang găng tay, một sở thích khác lạ đối với dân
Salinas. Bà bước đi cứng nhắc như bị đóng khung trong một lớp vỏ bằng kiếng. Bà
không nói chuyện với bất cứ ai dọc đường và làm ra vẻ không nhìn thấy ai cả.
Thỉnh thoảng một người đàn ông ngoái đầu lại nhìn bà rồi tỏ vẻ khó chịu tiếp
tục công việc riêng của mình. Nhưng gần như suốt đoạn đường bà bước ngang qua
như một người đàn bà vô hình dung.
Suốt nhiều tuần lễ Cal
lặng lẽ đi theo bà Kate. Nó cố không để cho bà thấy mình. Khi bà đã vào tới sân
nhà, Cal mới quay đi lang bang hoặc trở về nhà bằng một lối khác.
Cal cứ đi theo bà như thế
đến tuần lễ thứ tám, khi bà về đến sân nhà um tùm cây cỏ như thường lệ, Cal đợi
một lát, rồi bước thẳng tới cánh cổng ngõ xộc xệch.
Bà Kate đang đứng dưới
một cánh thủy lạp cao xơ xác, lạnh lùng hỏi nó:
- Cậu muốn gì?
Cal cảm thấy chân mình
như đóng thành băng. Nó nhìn xuống lối đi bùn lầy in đầy những vết chân, mà các
dấu chân của bà Kate ở khá xa lối đi bùn lầy đó. Nó nghe rõ tiếng máy của hãng
Southern Pacific tắt để xả hơi gây nên những tiếng khịt khịt khô khan. Nó cảm
thấy làn không khí mát lạnh nhột nhạt trên má. Suốt trong thời gian đó nó đăm
đăm nhìn bà Kate và bà cũng nhìn lại nó.
Bà lên tiếng:
- Đây không phải lần đầu
cậu lẽo đẽo theo tôi. Ai bảo cậu làm như vậy?
- Thưa bà không ai bảo
tôi cả.
- Cậu nhất định không
muốn nói phải không?
Cal không ngờ mình có thể
nói luôn một hơi:
- Bà là mẹ tôi nên tôi tò
mò muốn xem thử bà ra sao?
Câu nói tuôn ra một cách
dễ dàng trơn tru.
- Cái gì? Cậu nói sao?
Cậu là ai?
- Tôi là Cal Trask.
Nói xong câu đó nó cảm
giác nôn nao như đu đưa trên một chiếc đu. Tuy vậy nét mặt bà vẫn không thay
đổi. Cal tin rằng bà đang cố giữ bình tĩnh.
Bà quan sát nét mặt nó
thật kĩ. Hình ảnh mờ nhạt của Charles thoáng qua trong ký ức của bà, chợt bà
bảo nó:
- Hãy theo tôi!
Bà quay người bước dọc
theo lối đi, cẩn thận tránh một bên lề để khỏi vấy bùn.
Cal ngập ngừng giây lát
trước khi theo bà bước lên bậc cấp. Nó nhớ lại hình ảnh căn phòng khách thênh
thang mờ mờ ánh đèn mà nó đã lẻn vào một lần, ngoài ra tất cả đối với nó đều
mới lạ. Bà Kate dẫn lối cho nó đi ngang qua một hành lang đưa vào phòng bà rồi
bảo:
- Đóng cửa lại giùm đi.
Bà ngồi đàng hoàng vào
một chiếc ghế dựa, chậm rãi lột bao tay ra. Mười ngón tay của bà đều có quấn
băng. Bà xẵng giọng nói:
- Đừng nhìn. Tôi bị chứng
sưng khớp xương.
Trong khi tháo băng bà
nhăn nhó vì đau đớn, rồi bảo: “Ngồi xuống đi.”
Cal ngồi xuống mép một
chiếc ghế
- Có lẽ rồi cậu cũng sẽ
mắc chứng này. Bà cô của tôi cũng mắc chứng này, rồi mẹ tôi cũng vậy.
Bà dừng lại rồi chuyển
qua chuyện khác:
- À này, bây giờ cậu cần
gì?
- Thưa bà tôi chẳng cần
gì cả.
- Tôi biết cậu không dám
nói. Anh cậu đâu?
- Aron hả? Anh ấy đang ở
trường hoặc ở nhà.
- Aron giống ai?
- Anh ấy trông giống bà
nhiều hơn.
- Ồ, vậy à? Cậu ấy có
giống tính tôi không?
- Anh ấy muốn trở thành
mục sư. Anh ấy chịu khó bỏ nhiều thì giờ đến nhà thờ Episcopal Church.
Bà chồm người về phía
Cal, nét mặt bà sống động hẳn lên đầy vẻ chú ý và hỏi:
- Anh của cậu có thuộc
loại đần lắm không?
- Anh ấy rất ngoan.
- Tôi muốn hỏi cậu ấy có
đần độn lắm không?
- Thưa bà không.
Bà ngã lưng ra phía sau
hỏi:
- Ba của cậu vẫn mạnh
chứ?
- Tôi không muốn nói gì
về ông.
- Ô, vậy thì thôi. Cậu
mến ông ấy lắm phải không?
- Tôi yêu mến ba tôi lắm.
-vCal đáp.
Bà Kate nhíu mày nhìn kĩ
Cal. Tự nhiên bà muốn run người lên, ngực bà đau nhói. Bà khẽ nhắm mắt lại và
giữ được bình tĩnh. Bà hỏi thêm:
- Có đàn bà con gái nào
đến nhà ba của cậu bao giờ không?
- Dạ không.
Rồi đột nhiên nó hỏi bà:
- Vì lý do gì bà đã bắn
ba tôi rồi bỏ đi?
Bà Kate bặm môi lại thật
chặt để cố kìm hãm nỗi dao động bất ngờ. Hai mắt bà mở trừng trừng. Bà lạnh
lùng nói:
- Cậu nói nói năng có vẻ
già hơn tuổi cậu. Nhìn cậu chưa đủ già dặn đâu. Cậu nên rời khỏi đây và đi chơi
thì hơn.
Cal nhìn bà nhỏ nhẹ nói:
- Đôi khi tôi chọc tức
Aron và làm cho anh ấy khỏe. Anh ấy không hiểu tại sao tôi lại thích như vậy.
Thực tâm tôi cũng không muốn chút nào. Làm vậy xong tôi thường hối hận và khóc.
Bà Kate đã thấy mình bình
tĩnh trở lại. Bà xem những lời đó như của chính mình vừa thốt ra. Bà nói:
- Người ta cứ tưởng mình
khôn ngoan. Họ nhìn tôi và tưởng rằng họ hiểu tôi. Nhưng họ chỉ làm tôi điên
đầu. Tôi ngấy tất cả bọn họ, Charles ạ.
- Tên tôi là Caleb. - Cal
đính chính. - Caleb là tên của một nhà lãnh đạo Do Thái thời xưa đã đến được
Đất Hứa. Chú Lee đã nói như vậy theo chuyện tích trong Thánh kinh.
Bà Kate hỏi:
- Lee là chú người Trung
Hoa phải không?
Rồi bà nói tiếp:
- Ông Adam tưởng đã chiếm
được tôi. Giữa lúc rủi ro tôi bị thương, ông ấy đã cứu giúp tôi. Ông ấy cố buộc
chân tôi bằng cách đó. Nhiều người bị khuất phục bằng cách đó. Họ chịu ơn và
mắc nợ. Nhưng tôi không muốn bị ai sụp bẫy cả.
Căn phòng hoàn toàn yên
lặng trừ tiếng hơi thở nặng nề của bà. Cal lặp lại câu hỏi:
- Tại sao bà đã bắn ba
tôi?
- Vì ông ấy cố cản không
để tôi đi. Tôi chỉ muốn ông ấy để cho tôi ra đi.
Cal đứng dậy chắp tay sau
lưng nói:
- Hồi bà còn nhỏ, bà có…
Nó ngập ngừng để sắp xếp
ý tưởng rồi tiếp:
- Bà có bao giờ có cảm
giác mình đang mất mát một cái gì không? Chẳng hạn về một cái gì người khác có
mà mình lại không có? Có bao giờ bà thấy như vậy không?
Trong khi nó nói bà lại
quan sát nó thật kĩ rồi nói:
- Tôi không quen nói
chuyện với trẻ con.
Cal thôi chắp tay sau
lưng, lại thọc hai tay vào túi quần. Bà Kate nói thêm:
- Nói chuyện với trẻ con
tôi muốn điên cái đầu mất.
Nét mặt Cal sáng lên vì
khoái trá. Nó sung sướng nói:
- Thôi xin chào bà để về.
Chừng đó cũng tạm đủ. Như vậy là chú Lee đã nói đúng.
- Lee đã nói gì?
- Tôi sợ rằng tôi mang
dòng máu di truyền của bà trong người nhưng không đúng. Tôi không phải là bà.
Nếu tôi có những tật xấu nào thì đó là do cá tính riêng của tôi mà có chứ không
phải do di truyền.
- Chú chệt đó đã mớm cho
cậu kĩ quá. Cậu nghĩ về tôi như vậy để làm gì?
- Thì ra bà cũng biết xấu
hổ.
- Cút ngay. - Bà thét
lên. - Cút khỏi đây ngay.
Cal đặt tay lên nắm cửa
nói:
- Tôi đi đây. Tôi không
giận ghét gì bà hết. Nhưng tôi rất hài lòng khi thấy bà biết xấu hổ.
Cal mở cửa bước ra khỏi
phòng rồi đóng ập lại sau lưng mình.
*
Bà Kate ngồi ngã người ra
chiếc ghế dựa dày sau lưng. Từng giọt máu căng lên trong người bà. Bà tự nói
với chính mình: “Hãy vững tâm. Hãy bình tĩnh. Đừng để chuyện này làm mày nao
núng.”
Bà chợt nghĩ đến người
duy nhất cũng đã từng làm cho bà ghét cay ghét đắng như vậy. Đó là ông Samuel
Hamilton với cặp mắt lúc nào cũng như cười nhưng lại nhìn bà một cách soi mói
như muốn bóc trần người ta ra nhìn vào tận bề sâu.
Với những ngón tay quấn
băng bà gỡ sợi dây chuyền đang đeo trên cổ xuống. Trên sợi dây chuyền có mắc
hai chiếc chìa khóa của hộp nữ trang và một ống thép nhỏ có một cái khoen trên
nắp.
Bà cẩn thận mở nắp ống
thép, trút ra một viên kẹo. Bà đưa viên kẹo ra ánh sáng nhìn những hạt nhỏ màu
trắng trong suốt bên trong. Có sáu hạt móc-phin, một loại thuốc để phòng thân
rất tốt, rất hiệu nghiệm. Thật nương tay, bà bỏ viên thuốc trở vào ống thép,
đậy nắp lại rồi bỏ sợi dây chuyền vào trong áo.
Câu nói cuối cùng của Cal
vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại mãi trong đầu bà: “Thì ra bà cũng biết xấu hổ.”