Người Trung Quốc xấu xa - Chương 06
Cuộc
đại trưng bày bệnh u mê (tạp văn)
Triết
học từ kính nể, sợ hãi
Nền văn hóa truyền thống năm nghìn năm nay lấy tôn thờ
quyền thế làm nền tảng, khiến cho quan hệ giữa người với người thiếu vắng tình
“yêu”, chỉ còn lại thứ tình cảm “đáng kính đáng sợ”. Tôi viết đến đây, chắc có
người không chịu: “Chúng ta có Nhân đấy chứ”. Nếu nói đến “nhân” thì phải nói
làm hai vế: một, quả là có “Nhân”, nhưng cũng chỉ là “Nhân” trên trang sách,
hàm lượng “Nhân” trong hành vi rất thưa thoáng, cho nên chữ “Nhân” mà động tí
là chúng ta lôi ra để trưng trộ ấy, chỉ có thể tìm trên sách vở, mà rất khó
kiếm trong hành vi, cử chỉ. Vế thứ hai là “Nhân” khác với “ái”, và hình như
“ái” cũng không hẳn là “Nhân”. “Nhân” là lòng thương xót và sự ái ngại của
người cầm quyền với thứ dân, đó là sự gia ơn, bố thí, tỏ lòng khảng khái độ
lượng, là cách dậy dỗ trẻ nhỏ của thầy cô trong trường mẫu giáo. Sự thật giữa
người với người đầy rẫy những quan hệ “cung kính” và “sợ hãi”. Có loại vì kính
nể thành ra kiếp sợ, như con đối với cha. Có loại từ sợ hãi mà trở nên kính nể,
như gái điếm đối với làng chơi, như đại thần đối với Hoàng đế, như thứ dân đối
với quan lại, như phạm nhân với cai ngục. Các vị không xem tiết mục ngài Chu
Toàn Trung làm đại tiệc thết quần thần sau khi lên ngôi Hoàng đế sao? Người anh
là Chu Dục chửi rằng: “Này cậu ba, làm phản như thế không sợ hủy diệt gia tộc
à?” Thế là cuộc vui mất hứng mà tan, sử sách lập tức ghi rằng ông anh ngài là
đấng trung thần sáng giá, thực ra anh ta chỉ lo họ tộc bị diệt mà thôi. Tiết
mục như vậy trong chính sử nhiều vô kể, bất cứ một sự việc gì, nếu gạt bỏ yếu
tố sợ sệt, còn lại là thứ tình cảm không đáng để tâm. Trong Hồng lâu mộng, Giả
Bảo Ngọc tiên sinh nói với Lâm Ðại Ngọc nữ sĩ rằng: “Trong lòng ta trừ bà nội,
cha mẹ ta, thì chỉ còn có em thôi.” Cho đến bây giờ, lão Bá tôi vẫn nghi ngờ về
tính chân thực trong câu nói đó, nói rằng yêu bà hắn, yêu mẹ hắn, không bịa
chút nào, nhưng nếu nói yêu cha của hắn thì còn nhiều vấn đề phải bàn. Lục soát
cả cuốn truyện bằng kính hiển vi đi chăng nữa, e rằng cũng chẳng thể tìm nổi
một dấu vết gọi là tí chút tình yêu với cha, mà hầu như là lòng khiếp sợ. Mỗi
khi nghe có tiếng cha gọi, là như sét đánh ngang tai, một đứa trẻ đối với người
cha sao lại có thể mang thứ tình cảm khủng kiếp đến thế. Trong thâm tâm, biết
đâu nó lại mong cho ông già chết sớm cho rồi.
Thứ triết học từ lòng kính nể, sợ hãi kia làm cho khoảng
cách quan hệ giữa vua và tôi, giữa quan và dân càng ngày càng giãn xa, tôn
nghiêm của nhà vua ắt phải: “Lên cao tới ba mươi ba bậc thiên đàng, lợp ngói
cho Ngọc Hoàng Ðại Ðế.” Còn sự đớn hèn của chúng dân thì ắt phải: “Chết xuống
mười tám tầng địa ngục, đào than cho lão Diêm Vương.” Ðó là thứ không thể có ở
bất cứ quốc gia nào trên thế giới, cũng là tố chất khiến Trung Quốc ắt phải gặp
hạn.
Trích
từ tập “Ðâm mạnh vào vại tương”
Thiếu
tinh thần dám nghĩ dám nói
Không biết người nào, có lẽ là ngài Cơ Ðán được mệnh danh
Chu công thì phải, nghiễm nhiên phát minh môn học vấn Hoạn quan. Ðàn ông đương
nhiên là đàn ông, nhưng lại bị cắt mất bộ máy sinh dục, bạn hữu kiểu này, có
công dụng của nam giới, nhưng lại không có nguy hiểm của đàn ông, thật là một
đại cống hiến tuyệt vời. Bởi vậy, lên ngai làm Hoàng đế thì được sướng mãi
không mệt mỏi, trở thành một trong những văn hóa truyền thống năm nghìn năm ưu
tú của Trung Hoa. Than ôi, “Khổng Tử nói nên có Nhân, Mạnh Tử nói nên lấy
Nghĩa!” Tôi thì nghĩ rằng cắt bỏ bộ máy sinh dục tươi sống của đàn ông, chắc
không phải Nhân, cũng chẳng phải Nghĩa. Nhưng thứ chế độ cung đình cắt bỏ bộ
sinh dục năm nghìn năm nay lại không có một người nào là cảm thấy không ổn,
trong đó bao gồm cả các “Thánh nhân” - ngài Chu Hy và ngài Vương Dương Minh,
quả đáng lạ thay lạ thay! Một đất nước Trung Quốc vốn dày đặc đấng quân tử,
không thiếu đức thánh hiền, lại còn sở trường hay chỉ trích kẻ khác nữa, mà coi
việc thiến người của Hoàng đế như không có chuyện gì xảy ra, thì quả thật không
ai hiểu nổi. Theo tôi thì không ngoài hai nguyên nhân, một là tuy có người cảm
thấy không ổn, nhưng việc này có quan hệ đến chuyện cắm sừng của Hoàng đế, thì
đành tự giác cấm khẩu. Nếu chẳng may Hoàng đế nghe theo đề nghị của hắn, bỏ
lệnh hoạn quan, kiếm một loạt thanh niên trai tráng đến kèm cặp ngần ấy mỹ
nhân, e rằng sừng cắm tứ tung, sát khí bốn bề, khi đó thì chỉ có uống cho tong
đời, chứ trong lịch sử, bất cứ ông bạn nào ăn thịt lợn đông lạnh, dù có danh
lừng bốn cõi, nhưng khi gặp Hoàng đế thiến người, cũng chỉ có thể làm ngơ như
không nhìn thấy. Nguyên nhân thứ hai là, năm nghìn năm nay, quân ư thần ư,
thánh ư hiền ư, đều ù ù cạc cạc kiếm sống qua ngày, rất có thể không một người
nào nghĩ tới việc thiến bỏ bộ sinh dục là thất đức. Sự thiếu hụt của văn hóa
Trung Quốc hình như chính là thứ tinh thần dám nói và dám nghĩ như thế. Ông vua
có quyền giết người, ông ta nghĩ thế là “đúng”, đừng tưởng cắt bộ máy sinh dục
của mấy gã đàn ông đã là thá gì đâu, đến cả chém hàng ngàn hàng vạn cái đầu
người cũng là chuyện dĩ nhiên đương nhiên ấy mà. Dưới thế quyền uy chất chồng,
con người mất hết cả mùi vị, mà tính nô bộc thì ngấm tận xương, chỉ cần ông cho
tôi làm quan, ông làm gì tôi cũng tán thành.
Trích
từ tập “Không tỉnh”
Ðối với
việc, không đối với người
Ông Tônxtôi có lần bố thí cho kẻ hành khất, người bạn can
ông: kẻ ấy không đáng bố thí vì phẩm hạnh xấu xa, tai tiếng khắp thành phố
Matxcơva. Ông Tônxtôi trả lời: “Tôi không bố thí cho con người đó, mà tôi bố
thí cho nhân đạo.”
Than ôi, khi chúng ta bố thí cho kẻ đang hấp hối, không
thể đi điều tra trước hạnh kiểm của kẻ đó là loại A hay loại D, nếu loại A thì
đồng tiền vừa moi ra được quăng xuống, nếu loại D thì đồng tiền vừa moi ra lại
được đút vào túi sao? Tóm lại, đó là vấn đề nhân đạo, không phải việc chấm điểm
của chủ nhiệm lớp huấn đạo.
Cô Hà Tú Tử - danh kĩ của Ðài Bắc uống thuốc tự tử, chấn
động làng báo chí, sau được cứu sống, cô ta mời nhà báo đến ngụ xá, tố cáo sự
quấy rầy của mấy tên cảnh sát ngoài khu vực và ông tổ trưởng. Vụ tố cáo đâm ra
rắc rối, người phản ứng dữ dội đầu tiên là ông cục trưởng Cục cảnh sát, quyết
diệt cô ta. Thời xưa thì “Làm việc nước không nên đắc tội các nhà giàu sang
quyền thế”, thời nay thì “Mở nhà chứa không nên đắc tội cảnh sát”. Bây giờ trót
xé rách bộ mặt chiêu bài ấy, còn muốn tiếp tục nữa thì không cần bói cũng thấy
rõ cả tương lai tiền đồ rồi. Phản ứng dữ dội thứ hai là hai nhà văn viết chuyên
mục trên báo, cho ra lời lẽ chỉ trích có vẻ nghiêm chỉnh. Tóm tắt là: một kẻ mở
nhà chứa mà dám mời phóng viên hẳn hoi, còn ra cái thể thống gì?
Về sự việc đầu tiên, đối với cô gái điếm nổi tiếng mở kĩ
viện kia, cho đến khi bị rạch mặt mới nổi giận lôi đình, ngoài câu “rất đáng
tiếc” ra, chúng ta còn có thể nói thêm được gì nữa? Hễ nói thì phải dính đến
chuyện phong bì, liệu ngài Bách Dương có chịu nổi không? Thế thì, đối với việc
thứ hai, tức là đối với ty tỷ ông thánh con vừa rộng dài học vấn, vừa ngang
nhiên đạo mạo, lại vừa có đất để dụng văn chương bằng con chữ vuông kia, không
thể không kính mời họ lắng nghe câu nói của ngài Tônxtôi.
Cô Hà Tú Tử làm gái điếm là một việc khác, nhân quyền lại
là một việc khác, phải chăng hiến pháp Trung Quốc quy định gái điếm không được
tiếp đãi phóng viên? Một cô gái điếm bị thiệt thòi oan uổng, phải chăng không
được kêu rên, hễ rên rỉ là “còn ra thể thống gì”? Chỉ có kẻ chinh phục - đế
quốc Mông Cổ mới chia người Trung Quốc thành bốn đẳng mười cấp, “Người Nam” là
loại kém nhất, chẳng lẽ bản thân người Trung Quốc cũng đem gái điếm quy vào
tầng lớp thấp nhất, không được hưởng bảo hộ của nhân quyền và luật pháp ư?
Ðó thuộc một vấn đề rất cơ bản, ngày nay chính phủ nhiều
lần ra lệnh cấm cảnh sát ép cung phạm nhân, không biết có làm được hay không,
nhưng đều đứng trên quan điểm này. Một con người khi phạm pháp, đương nhiên là
xử tội, nhưng nếu mọi người đều coi hắn là đồ bỏ đi, đấm đá tùy ý, thậm chí còn
cắt mũi cắt tai, còn không cho họ ho hắng: “Ho he cái gì! Mày ăn cắp của người
ta một trăm đồng còn nhân cách hả? Còn dám kêu la hả?” Cái đó đáng ra là việc
của những bộ lạc mọi rợ ăn thịt người, mà không phải việc của nước Trung Quốc
hiện đại hóa.
Ngài Pholutaylo nói: “Dù rằng tôi phản đối những lời nói
của anh, nhưng tôi vẫn hết sức tranh đấu cho anh được tự do ngôn luận.” Trong
khi đó, các nhân sĩ hay mệnh danh dân chủ lại sử dụng ngòi bút to tướng của họ
đi bịt miệng một người đàn bà khốn khổ, khiến người ta lâm vào cảnh như mất mẹ
mất cha!
Trích
từ tập “Nghe chửi”
Chỉ tôi
là ngoại lệ
Ý nghĩa cốt lõi của nền chính trị dân chủ là “Tôi không
ngoại lệ”. Mọi người đều không được vượt đèn đỏ, bản thân tôi cũng không vượt.
Mọi người đều không được khạc nhổ tùy tiện, bản thân tôi cũng không nhổ bậy
miếng nào. Mọi người đều tán thành pháp chế, thì tôi cũng không đòi đặc quyền.
Khi chế độ đã được thiết lập, thì tôi không phá hoại nó... Khốn nỗi, trò chơi
này một khi đến Trung Quốc, thì bỗng trở thành “chỉ tôi là ngoại lệ”: tôi phản
đối vượt đèn đỏ, chỉ là phản đối người ta vượt, còn tôi thì có thể vượt kiểu
như thế! Tôi phản đối nhổ bậy, chỉ là phản đối người ta, còn tôi muốn nhổ kiểu
gì thì nhổ. Trước khi tôi tán thành luật pháp mọi người bình đẳng, nhưng tôi
thì không thể bình đẳng với mọi người. Tôi tán thành thiết lập chế độ, nhưng
chỉ hi vọng các người tuân thủ, bản thân tôi thông minh tài giỏi hơn người,
không thể chịu sự gò bó như thế. Nói tóm lại ngài tôi đây nếu không ngoại lệ,
thì còn đâu là thể diện, sống trên đời còn thú vị gì nữa!
“Thể diện” của ngài Phu Tử là gì vậy? Các đại nhân phương
Tây nghiên cứu mãi vẫn không hiểu nghĩa, có vị giải thích là “mặt mũi”, nói vậy
thì chỉ tính lớp vỏ bề ngoài, không tính đến nội dung thực tế. Có vị giải thích
là “Tự trọng”, nói vậy là danh hão đứng đầu, thực chất theo sau. Lão tôi đây
thiết nghĩ, cái gọi là thể diện ấy, là sản phẩm của thần kinh bạc nhược và tính
ích kỉ bền vững. Vì thần kinh bạc nhược, có tật giật mình, nên mới lấy sự kiêu
ngạo để bù đắp lòng tự ti ở bất cứ đâu đâu. Vì tính ích kỉ bền vững, cứ sợ rằng
không được lợi lộc gì, nên ở đâu đâu cũng đòi “tôi là ngoại lệ”.
Phàm là con người đều mang tính ích kỉ, không nên phủ
nhận điều đó một cách thái quá, hơn nữa nó còn là nguồn động lực thúc đẩy xã
hội tiến bộ. Nhưng một khi tính ích kỉ đó vượt quá giới hạn, là thành ra cục
phân thối, chỉ có thể khiêng đến cửa Nhà Vĩnh Biệt để nằm chờ tắt thở. Than ôi!
Một kế hoạch cũng được, một biện pháp cũng được, một hội nghị cũng được, một
quyết sách cũng được, thậm chí một vụ kiện cáo cũng được, kẻ nào tham dự vào
việc đó, cái suy nghĩ đầu tiên ắt là: “Mình được cái lợi gì ở trong đó đây?”
Tức là, mình có thể kiếm được bao nhiêu tiền? Ðược hưởng quyền lợi gì? Bớt được
bao phần trách nhiệm? Từng câu từng chữ, nhất cử nhất động, đều quẩn quanh mấy
thứ đó, trên cũng vậy, dưới cũng vậy, anh cũng vậy, tôi cũng vậy, tất cả đều ôm
chặt lấy cục phân ấy, không chịu buông tha.
Trích
từ tập “Ðâm mạnh vào vại tương”
Mưu lợi
có gì không đúng
Ngài Tôn Quan Hán cho rằng “Quan niệm cũ” và “Vại tương”
tuy khác nhau cách gọi, thực chất là giống nhau. Ngài Bách Dương lại nghĩ, hai
khái niệm đó chỉ giống nhau phần nào, hành vi được sản sinh dưới quan niệm cũ,
cũng có mặt sáng sủa ngang hàng với mặt trăng mặt trời. Duy có quan niệm giòi
bọ trong vại tương, dù nó có mới đi chăng nữa, cũng là sa đọa, độc ác.
Cho đến ngày hôm nay, trong “quan niệm cũ”, người ta còn
khinh thường nghề buôn bán, cho là kiếm tiền bằng nghề buôn, dù chính đáng cũng
là mất thể diện, điều đó liên quan đến vấn đề đi chệch hướng của nền văn hóa.
Nói tóm lại nền văn hóa của chúng ta đáng ra đi trên con đường sáng láng thênh
thang, nhưng bị thể chế phong kiến và những hiền thánh Nho phái bấy lâu nay gây
sức ép, vừa đánh đập vừa xô đẩy, nhét cho bằng được vào cái vại tương. Mới đầu
còn nghe thấy mọi người la ó lung tung, sau bị ướp thành giòi bọ, đừng có nói
là kêu la nữa, cả tiếng ho hen cũng thành im re. Học thuyết của ngài Mạnh Kha
là: “Nói đến lợi lộc làm gì, chỉ vì Nhân Nghĩa mà thôi”, vị tổ sư không tính
lợi lộc ấy, đã vì hàng nghìn hàng vạn con giòi trong vại tương, sáng chế ra bao
mặt nạ Nhân Nghĩa, rõ ràng đã mắc bệnh giang mai, mặt mũi bị sưng tấy lở loét
cả ra rồi, nhưng cứ lấy mặt nạ đeo vào, lại lớn tiếng: “Ra mà coi này, ta đẹp
đấy chứ!”
Dưới hình hài bề mặt bình tĩnh nhưng trong lòng nghi kỵ
không yên, các bạn hữu nhà Nho nhìn nhà buôn với con mắt đầy khinh thị, đố kỵ
và căm ghét. Mỗi khi nhắc đến nhà buôn, thì gọi là “gian thương”. Ðương nhiên
gian thương rất nhiều, bọn tồi tệ trong giới viên chức nhà nước cũng không ít,
nhưng kì lạ thay là không nghe ai nói “gian quan” bao giờ, (nhưng cái từ “tham
quan” thì xuất hiện liên tục). “Buôn phu tử” lãi được tiền bằng thủ thuật chính
đáng hợp pháp, ăn ngon mặc đẹp một chút thì người ta ghen ăn tức ở. Nhưng “Ba
năm tri phủ trong sạch, mà kiếm được mười vạn lượng bạc” thì lại thành quý phái
cao sang, mọi người đều dựng ngón tay cái lên ca ngợi hắn “giỏi”.
Một học sinh ở Học viện văn hóa Trung Quốc lớp ban đêm,
kể với ngài Bách Dương về người thày Phó Tông Mậu. Thầy Phó giảng bài được học
sinh hoan nghênh, không những thầy có khoa nói, lại rất sâu sắc, bữa trước
trong một giờ giảng cuối kì học, thầy đả kích mạnh mẽ học thuyết “Giữ gìn tình
nghĩa, không màng lợi lộc” của nhà Nho. Thầy còn khuyến khích học trò nên kiếm
tiền bằng phương thức chính đáng, hợp pháp, “mưu lợi” không phải một điều sỉ
nhục, ngược lại là một điều vinh quang. Các nhà Nho luôn miệng không bàn lợi,
không nói tiền, nhưng lòng dạ lại chất đầy những quan niệm méo mó về tiền và
lợi. Cần phải sửa sang, xã hội dân sinh mới có thể vươn lên không ngừng.
Cậu học trò khi kể chuyện này, đầy lòng tôn kính thầy
giáo. Ngài Bách Dương được nghe chuyện này, cũng đầy lòng tôn kính thầy Phó
Tông Mậu. Nói tóm lại, cần phải thủ tiêu mối dục vọng ích kỉ ẩn náu trong lòng
người Trung Quốc chúng ta. Miền đất bảo lưu đó để lại thêm ngày nào, lòng ích kỉ
càng bền bỉ khó phá vỡ thêm ngày đó. “Không gì đau buồn hơn trái tim lạnh
ngắt”. Thương thay! Tim mà đã lạnh ngắt có nghĩa rằng lòng ích kỉ không thể phá
vỡ nổi. Còn một hiện tượng không biết các ngài độc giả có chú ý hay không, chất
giọng để hót về Nhân, Nghĩa, Ðạo, Ðức của người Trung Quốc thì phải công nhận
là cao nhất so với chất giọng thiên hạ. Còn tính thông minh tài trí và sức phán
đoán, chừng cũng đứng đầu thiên hạ. Vấn đề ở chỗ, chớ có chạm phải miếng đất
bảo lưu trong tâm khảm đó, chỉ cần chạm khẽ thôi, lập tức hồ đồ đến mức thành
một vại tương, nguyên tắc gì, lô-gích gì gì đi nữa đều như con gái đã khôn lớn
là có thể mười tám phép biến.
Trích
từ tập “Ðâm mạnh vào vại tương”
Cảm
khái trầm kha
Trong xã hội Trung Quốc, “phẩm cách nghĩa hiệp” đã qua
ngâm tẩm biến thành “rách việc”, họ nhìn nhận việc này, không hề có chút ý nghĩ
tử tế, càng không thể có chút mến mộ, mà chỉ còn lại những lời châm biếm và
phỏng đoán đố kỵ. Hoặc tôn: đó là “thằng ngốc”, hoặc tôn là “kẻ hiếu sự”, trở
thành trò cười thú vị nhất kể từ thời thượng cổ, và thành bài học chí lý nhất
kể từ khi có loài người. Lớp trẻ vốn tính cương trực khí khái, có thể chưa nghĩ
đến những điều đó, dù có nghĩ đến, có thể cũng xem thường. Nhưng lão Bách Dương
tôi vốn khôn ngoan xảo quyệt thì chẳng dại gì dây dưa chuyện rắc rối. Thế mới
là chỗ thông minh hơn người của lão, đời người không thể không hay. Nói tóm lại
là đặc điểm của người Trung Quốc là thông minh có thừa, xã hội Trung Quốc chính
là do vô số thông minh có thừa ấy mà hợp thành. Thông minh có thừa ắt dè sẻn
lòng xót thương, cái đó chẳng thể trách ai, nếu để lòng xót thương đầy ắp, thì
không tài nào thông minh nổi.
Về khoản túng thiếu lòng thương xót của người Trung Quốc,
khiến ngài Do Nhân Hoa có được cảm khái trầm kha, một bầu linh khí sục sôi đã
bị ngâm tẩm, trở thành một con giòi tê liệt trong hũ tương, muốn nó tươi tỉnh
lại, e rằng bỏ công sức một thời gian cũng khó mà hiệu quả.
Trích
từ tập “Ðâm mạnh vào vại tương”
Thứ
nhất là bảo vệ bản thân
Thánh nhân từng nói: “Biết mà không làm, không phải biết
thật”. Chỉ biết việc hợp tác là quan trọng, nhưng trên hành động lại không hợp
tác, thì coi như chưa phải là thật biết. Chỉ hiểu đoàn kết là sức mạnh, nhưng
trên hành động lại không đoàn kết, thì cũng coi như không thật hiểu. Căn bệnh
này hình như không phải do bản tính người Trung Quốc, mà do mọi người uống phải
thuốc Nho học quá liều, uống đến nỗi giống như cái bụng vàng của ngài Bách
Dương, mắc bệnh khó tiêu. Nói tóm lại, trên nguyên tắc Nho học không đề xướng
chủ nghĩa tập thể, mà chỉ đề xướng chủ nghĩa cá thể. Ngài Khổng Khâu đối với
những ông thánh loại hai “Hữu giáo vô loại” (Có giáo dục nhưng không cùng tông
phái - dịch giả), dạy đi rồi dạy lại, tất nhiên cũng đề cập đến hành vi tập
thể, nhưng liều lượng đề cập, so với hạt ngọc ủ trong vỏ con trai, không những
thưa mà còn ít hơn kia, đa phần lời dạy chỉ dùng vào việc đào tạo cá nhân mà
thôi. Khuôn hình lý tưởng cao nhất của các bậc nhà Nho xem ra chỉ có hai kiểu.
Một là giáo dục thứ dân cách giấu đầu cúp đuôi như thế nào, mặc kệ việc nhà
nước, chỉ cần lo cho tài sản nhà mình; dẫn một câu thành ngữ, đó là “Minh triết
bảo thân” (Sáng suốt giữ mình - dịch giả), “Thức thời vụ giả vi tuấn kiệt”
(Người thức thời mới là tài giỏi - dịch giả). Cổ vũ người Trung Quốc đi theo
con đường - sức đề kháng yếu ớt nhất trong xã hội. Còn một kiểu khác là cầu xin
sự nương nhẹ dưới bàn tay của phái cầm quyền, thương lấy tiểu dân không nơi
nương tựa, ngự chân có giẫm đạp lên đầu cũng xin đạp nhẹ chút đỉnh; thành ngữ
gọi là: “Hành nhân chính” (Thi hành chính sách nhân đức - dịch giả).
Ngài Khổng Khâu có một câu chuyện, thành nguyên tắc chuẩn
mực nhất nhằm tránh né tai vạ, ngài nói: “Ngụy bang bất nhập, loạn bang bất cư,
thiên hạ hữu đạo, tắc kiến. Vô đạo, tắc ẩn. Bang hữu đạo, bần thả tiện, sỉ dã.
Bang vô đạo, hàn thả quý yên, sỉ dã.” Dịch nôm na, thì hiểu ngay là: “Nơi có
nguy hiểm thì chớ đến. Nơi có loạn lạc thì đừng ở. Thời bình mới ra làm quan.
Thời loạn thì nên giữ khoảng cách, chuồn được thì chuồn. Nước nhà đại trị, mà
anh không kiếm được chức quan nào, thì đáng xấu hổ. Nước nhà rối ren, mà anh
lại kiếm được một chức quan, cũng đáng xấu hổ.”
Ðoạn văn “Giáo huấn của thánh nhân” đầy sự thông minh
lanh lợi, biết nhìn hướng gió chuyển tay lái, mọi người đều trở thành viên bi
trơn tru nhưng lại không dễ tuột khỏi tay. Người ta giành thiên hạ thái bình
rồi, thì hắn ra làm quan, khi cần xông trận mọi người đầu rơi máu chảy, thì hắn
bôi trơn đế giày, một mình hắn tính hết nước béo bở; các ông lão bà lão đưa hết
con gái con trai sang Mỹ để “gây giống”, đại khái thuộc loài chính thống của
nhà Nho, có thể đảm đương chức lãnh đạo ngành Khổng Mạnh học rồi đấy! Trong con
mắt của thế lực và danh lợi, chỉ có cố gắng thích nghi, cố gắng sao cho bản
thân được an toàn, “Thiên kim chi tử, tọa bất thùy đường” (Tấm thân danh giá,
không ngồi trong căn nhà sắp đổ - dịch giả). Dân trí thức không dám đến cả chỗ
có thể gặp hòn ngói rơi xuống, chắc đối với sự thối nát của chính quyền, cảnh
đau đớn của dân đen... các chuyện không liên quan đến ta, thì có mắt cũng giả
bộ không nhìn thấy. Tóm lại, nhìn thấy thì không khỏi bực bội, bực bội thì
không khỏi rêu rao, rêu rao thì không khỏi mang vạ. Hỡi ôi, toàn bộ giáo huấn
của nhà Nho, thiếu vắng lời lẽ kích thích khí chất con người, rất ít bàn đến
quyền lợi nghĩa vụ, không mấy khuyến khích cạnh tranh, chỉ một mực đòi hỏi con
đồ cháu đồ, yên phận với hiện trạng, dương dương đắc ý, việc gì cũng có thể
làm, chỉ không được phép mạo hiểm. Ðức Khổng Khâu ai cũng chẳng ưa, chỉ coi mỗi
Nhan Hội nghèo xơ nghèo xác kia như bảo bối sống, ra sức khen ngợi khí chất
chịu đựng nghèo khổ của cậu học trò, mà không hề ngẫm nghĩ nghiên cứu về trách
nhiệm xã hội: do đâu mà khiến hai bậc hiền tài nghèo đến mức như thế? Càng
không nghĩ đến việc cải tạo cái xã hội quần thể này như thế nào, chỉ biết nhắm
mắt dạy dỗ người ta “Nghèo cũng phải vui vẻ”. Nếu người Trung Quốc nào cũng vui
vẻ như thế thì quốc gia, dân tộc sẽ sa sút tới xã hội nguyên thủy có ngày.
Trích
từ tập “Ðâm mạnh vào vại tương”
Nước
tiểu ngấm tận xương
Không nghiêm chỉnh, không nghề nghiệp, sống lông bông cho
qua ngày, là đặc trưng của đại đa số người Trung Quốc. Nó hình thành một tâm lý
què quặt trong tính con người, nghĩ mà ứa nước mắt. Kết quả không nghiêm chỉnh,
không nghề ngỗng, ắt sinh ra ngón lừa lọc ma thuật chữ nghĩa gớm ghê. Tiếc rằng
“Chân” không có vị trí trong văn kiện lịch sử, văn kiện lịch sử Trung Quốc cũng
như văn hóa truyền thống Trung Quốc, bởi vậy không thể không đi nhầm hướng.
Cùng với tiếng bước chân nhầm đường lạc lối ấy, bà con Trung Quốc đều tình
nguyện đem hết sức bú mớm bình sinh kia, để theo đuổi cái “Thiện”, truy tìm cái
“Mỹ”. Ðộc có cái “Chân” thì nhắc cũng không nhắc đến, hễ nhắc đến “Chân” là lắc
đầu, muốn không lắc đầu cũng được, thì chỉ cần lờ đi là xong. Trên trên dưới
dưới, nhớn nhớn bé bé, nhất loạt đều cho rằng sức mạnh của chữ nghĩa thật tình
có thể tiễu trừ hoặc bẻ cong sự thật, có thể nhuộm trắng thành đen, tẩy đen
thành trắng, đem hai cộng với hai thành tám, chứng minh được mặt trăng là vuông
vắn bốn cạnh. Lớp trí thức hay chơi trò ảo thuật chữ nghĩa, lại nắm chắc trăm
phần trăm rằng: bàn dân thiên hạ đều là cứt chó, mà số đông giòi bọ trong vại
tương lại cam tâm tình nguyện - hơn nữa, bằng thứ tinh thần của Phan Kim Liên
uống nước tiểu, để vững tin rằng mình không bị lường gạt. Chả trách được ngài
Tô Tây Pha thở than: “Nước tiểu vào trong xương tủy, hóa thành nước mắt vại
tương”, giọt nước mắt ấy chảy đến hôm nay, vẫn chưa thôi chảy.
Trích
từ tập “Ðâm mạnh vào vại tương”