Hàn Mặc Tử Trong Riêng Tư - Phần VII - Chương 1 (Hết)
PHẦN VII
PHẦN PHỤ LỤC
LỆ THANH THI TẬP
Hàn Mặc Tử học làm thơ Đường từ
lúc còn học lớp ba trường thị xã Quảng Ngãi, ở trọ tại nhà dì dượng tôi năm mới
mười ba tuổi.
Cô em con dì, Tôn Đức kể lại:
Mỗi lần vào bàn học buổi tối, anh
thường lẩm bẩm những tiếng nghe rất kỳ lạ: bằng, bằng, trắc trắc… Đến nay đọc
thơ anh, mới biết là anh học niêm luật thơ Đường (thất ngôn bát cú).
Lệ Thanh thi tập gồm nhiều thơ
Đường, phần lớn thể thất ngôn bát cú mà đã viết ra trong thời kỳ còn họ trường
Pellerin ở Huế.
Toàn bộ bản thảo đã được đóng lại
thành tập và đã bị ông Quách Tấn lấy mang về Nha Trang, nói là để bảo vệ giá
trị thơ văn Hàn.
Từ năm mươi năm, bộ thơ đó đã lạc
mất, chưa thấy được phổ biến, ngoại trừ một ít được Hàn trích in vào tập Gái
Quê xuất bản năm 1936.
Tôi được may mắn ghi chép lại một
phần, liên quan đến những mối tình mà tôi gọi là “giấc mộng lớn và giấc mộng
con”. Tôi cũng giữ được một số thơ xướng họa của Hàn với cụ Sào Nam và một vài
bài của ông Tấn.
Đó là những bài thơ hay của Hàn
khi Hàn chưa đến hai mươi tuổi.
Bắt đầu từ năm 1933, Hàn có một
vài thay đổi, chuyển từ thơ Đường luật qua thể thơ mới. Một lẽ vì thơ Đường gò
bó theo niêm luật, ít người làm được hay, vì vậy, thiếu người xướng họa. Mặt
khác, Hàn còn rất ít bạn bè, giao du chưa rộng rãi, đề tài quanh đi quẩn lại
trong các mục “yêu nước yêu nòi, giang san cẩm tú” v.v…
Sau 1933, Hàn tiếp xúc được nhiều
môi trường khác nhau, có bạn bè, có tình yêu, suy cảm phong phú hơn. Tuy nhiên
anh vẫn còn rụt rè thường sử dùng một thể thơ tứ tuyệt hoặc ngũ ngôn, còn lệ
thuộc ít nhiều vào vận thơ. Nhưng diễn tả ý thơ, và lời thơ thoát sáo hơn. Từ
đó người ta thấy xuất hiện nhiều bài thơ tuyệt đẹp như: Đà Lạt trong mơ, Nhớ
thương, Bẽn lẽn, v.v… mà tập Gái Quê đã giới thiệu trước cho anh một chân trời
mới với bài Tình Quê đẹp như mơ.
Dù vậy ở địa hạt Đường thì, anh
cũng đã có nhiều bài thơ bất hủ vẫn còn giữ được giá trị xứng đáng cho đến ngày
nay, như những bài thơ: Thức khuya, Buồn thu, Đàn nguyệt, Chuyến đò ngang (có
nhắc đến trong tập sách “Hàn Mặc Tử anh tôi”)
Trong phần phụ lục này, tôi xin
sao chép lại một số thơ anh đã viết ra lúc còn đi học với ít nhiều xướng họa
cùng cụ Phan, trong anh em gia đình và ông Tấn (mà một số đã được kể lại trong
tập Hàn Mặc Tử trong riêng tư này rồi).
Hàn làm thơ Đường bằng Quốc văn,
nhưng vẫn rập theo khuôn mẫu thơ Hán văn, trong đó dùng chữ rất ít để diễn tả
nhưng nhờ chữ Hán rộng nghĩa và sâu sắc hơn, cho nên bài thơ được vắn gọn.
Như trong bài “Xích Bích hoài cổ”
của Đỗ Mục, chỉ có hai câu mà diễn tả được đặc điểm tình tiết của trận đánh hỏa
công ở Xích Bích:
… Đông phong bất dữ Chu Lang tiện
Đông tước xuân thâm tỏa Nhị Kiều.
Chỉ cần nhắc “Đông phong bất dữ
Chu Lang tiện” thì ai cũng hiểu đó là trận Xích Bích, vì sự cố đã phổ thông.
Hoặc bài khác của Trần Ngọc Lan,
khóc chồng đi thú:
… Nhất hàng thư tín, thiên hàng
lệ
Hàn đáo quân biên, y đáo vô!
Cũng hai câu mà nỗi lòng người vợ
xa chồng được diễn tả rất sâu sắc.
Ở đây, Hàn cũng cố dùng lối thơ
đó, nhưng cảnh mượn mùa thu thì quá quen thuộc, chỉ tình huống như vẫn còn dấu
kín dưới những nét buồn mùa thu để bày tỏ mối tình của anh, mà vốn anh rất thật
thà không giấu giếm:
BUỒN THU
Ấp úng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Buồn bã hơi mây thoáng lại rồi…
Người đọc cảm nhận được cái hay
của thơ qua lời và ý được cấu trúc nhẹ nhàng tha thiết, nhưng dụng ý của Hàn có
gì riêng tư không? Chưa ai biết.
Hàn làm thơ quá sớm, quá trẻ mà
anh thì không thể nào có được cái “nhìn” của thiên tài Vương Bột:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ công trường thiên nhất
sắc.
Vì vậy, không ai hiểu anh: một
dạo, các anh Xuân Diệu và Bích Khê chê anh là “Điên”.
Anh nghe vậy, chỉ cười đọc bốn
câu:
Ai dại đem văn bán lấy tiền
Viết ra vô số quỷ thần tiên
Ngâm nga, phút chốc cười sằng sặc
…………………………………. Điên!
Chép lại tập thơ này để quý độc
giả tìm cái hay trong thơ Đường của Hàn Mặc Tử. Mà nếu không bắt gặp được những
gì hay ho, ít ra cũng gặp những gì riêng tư thầm kính của Hàn.
Những bài thơ anh xướng họa cùng
cụ Phan, lời lẽ khích lệ, chia xẻ buồn vui đã làm cho anh già đi thêm trong
chiếc áo khoác “Phong Trần” (Bút hiệu), khiến không ai tin được một thiếu niên
mười tám đến mười chín tuổi mà giọng văn già giặn đến thế. Ta thử đọc bài:
GÁI Ở CHÙA
Rừng Thiền thấp thoáng dạng quần
thoa
Khuê các trâm anh cũng rứa à
Mùi tục chưa chi đã vội chán
Trò đời mới rứa đã lo xa
Lạt mùi son phấn say mùi đạo
Chán cảnh phồn hoa mến cảnh chùa
Dì nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm
Xuân xanh nỡ để thiệt thòi hoa.
PHONG TRẦN
HỌA VẬN
Bản lai không vết cậy gì thoa
Hóa gặp đâu thì cũng thế à
Một chữ đã đành thân quý trọng
Trăm năm phải tính cuộc gần xa
Tải vì cái kiếp con không mẹ
Hổ cũng như ai sãi có chùa
Khuya sớm hương tâm nguyền với
Phật
Nhành dương mưa rưới vạn nghìn
hoa
SÀO NAM
CHÙA HOANG
Chùa không sư tụng cảnh buồn teo
Xác Phật còn đây chuỗi Phật đâu
Réo rắt cành thông thay tiếng kệ
Lập lòe bóng đốm thế đèn treo
Hương rầu khói lạnh nằm ngơ ngác
Vách chán đêm suông đúng dãi dầu
Rứa cũng trơ gan cùng tuế nguyệt
Bên thềm khắc khoải tiếng quyên
kêu
(PHONG TRẦN) LỆ THANH
HỌA VẬN
Ba vạn giang sơn chút tẻo teo
Ai dò bể Phật tới nguồn dâu
Kệ thần mặc ý trong lòng niệm
Đèn tuệ tha hồ trước gió treo
Bờ nọ thuyền đưa giòng họ tới
Trời này mưa móc cỏ cây dầu
Xưa nay Phật pháp vô biên lượng
Muôn ước nghìn non một tiếng kêu.
SÀO NAM
Sau một chuyến đi chơi núi Vọng
Phu và thăm chùa ông Núi ở Phù Cát.
NÚI VỌNG PHU
Tháng ngày bao quản tấm lòng son
Dầu dãi phong ba núi một hòn
Giữ ngọc gìn vàng chai mặt mẹ
Chờ mây đợi gió cúng mình con
Thề tơ tóc cũ, hồn đâu mất
Hẹn nước non xưa xác hãy còn
Ví biết tình duyên ra thế ấy
Hóa làm tinh vệ khỏi thon von
CHÙA ÔNG NÚI PHÙ CÁT
Mái dột tường xiêu liễu ngẩn ngơ
Hỏi thăm duyên cớ Phật làm lơ
Vắng sư bụt đá toan hồi tục
Lạnh khói hương cây sắp thoát
chùa
Hoành cổ nhện giăng treo lỏng
chỏng
Bình phong rêu bám đứng chơ vơ
Tiếng chuông tế độ rày đâu đó
Để khách trầm luân luống đợi chờ.
Anh em cùng xướng họa với nhau:
GỞI NHẠN
Nhạn ơi tung cánh giữa mưa mây
Khéo khéo đừng rơi gói buộc dây
Cái gánh tình si ai gởi đó
Là lời tâm sự nhạn đưa ngay
Đưa người, tháng trước hòa thơ
tiễn
Đến bến ngày xưa mấy tiệc bày
Hỏi nhớ cùng không người bốn mắt
Bể dâu chưa thấy, thấy gì đây.
MỘNG CHÂU
HỌA VẬN
Vội vàng chi lắm nhạn lưng mây
Chậm chậm cho mình gởi mối giày
Về đến thần kinh khoan nghĩ đã
Ghé miền Gia Hội tỏ tình ngay
Suốt năm canh mộng hồn mê mỏi
Chỉ một lòng son muốn giải bày
Này nhạn, ta còn quên chút nữa
Trái tim non nớt, tặng ai đây?
LỆ THANH
HỌA VẬN
Trông vời bóng nhạn lần theo mây
Thấp thỏm chờ mong đếm phút giây
Mấy đoạn tình thơ chưa cạn nghĩa
Vài hàng tâm sự rõ lòng ngay
Ngăn sông cách núi, tình trao dễ
Đối diện, nhìn nhau, ý ngại bày
Cánh thiếp nhờ chim may khỏi lạc
Hồi âm đừng để phụ lòng đây.
THIỆN NAM
CÂY ĐÀN NGUYỆT
(Tặng Mệ Dung ca sĩ Huế)
Hỏi chơ mấy tuổi? Đáp mười lăm
Non nước từng phen nổi tiếng tăm
Bạc mệnh đàn chơi đau nửa kiếp
Đồng tâm tơ buộc chặt quanh năm
Chường mình trước án trông đầy
đặn
Nép mặt trong hoa nói thì thầm
Mười khúc đoan trường say chửa
tỉnh
Thuyền ai ngấp nghé muốn ôm cầm
LỆ THANH
HỌA VẬN (I)
(Cố ý nói: “Xướng ca vô loại”)
Nghe ra tuổi mới mười lăm
Oanh yến đi về đã tiếng tăm
Mái đẩy hò đưa tình vạn nẻo
“Giao duyên” chờ đợi khách trăm
năm
Tơ vương mấy đoạn đành dang dở
Nhịp lỗi nhiều phen luống thẹn
thầm
Đã trót trao thân vào trướng
nguyệt
Vui chi cay đắng, nghiệp ca cầm.
THIỆN NAM
HỌA VẬN (II)
(Nói về giải ước Mộng Cầm 1936)
Cài trâm tuổi ấy chữa bao lăm
Mà khách tài hoa mộ tiếng tăm
Phiếm trúc keo sơn tình đãi ngộ
Giây tơ ràng buộc nghĩa trăm năm
“Biết ai tâm sự” buồn chan chứa
“Đền nợ Ô-Ly” oán tủi thầm
Nhớ buổi hòa âm từ dạo ấy
Thương ai chua xót đoạn cung cầm
THIỆN NAM
Những ngày ở Sài Gòn, Hàn Mặc Tử vẫn còn làm thơ Đường, những bài sau đây:
GIANG HỒ NHỚ MẸ
Mình không hò hẹn bước giang hồ
Lưu lạc quê người mới khổ cho
Nước chảy thương thân bèo bọt nổi
Mây bay nhớ mẹ sớm hôm chờ
Thằng con bất hiếu đi đành đoạn
Trời đất vô tình lại đắn đo
Muôn dặm non Tần xa thăm thẳm
Ý chừng chim nhạn biếng đưa thư.
Cuộc sống xô bồ ở Sài Gòn cũng không làm cho anh quên được kỷ niệm êm đềm
của “Chuyến đò ngang”, “Bến đò Bạch Hổ” những ngày mà mối tình con “kỳ ngộ” đưa
anh vào ước mơ không thành, để rồi phải thở than:
BƯỚC GIANG HỒ
Suốt đời lãng mãn mặc tiêu dao
Non nước từng phen tụ thuở nào
Đúc lại can tràng nhờ hạo khí
Rồi ra thân thế được thanh cao
“Chút tình bến cũ còn đeo đẳng”
“Hụt chuyến đò đưa nghĩ nghẹn ngào”
Gặp gỡ cố nhân rằm tháng trước
Cầm tay thuật lại nỗi lao đao
Tả nếp sống ở Sài Gòn mà đã có dịp tiếp xúc, anh viết bài:
TUỒNG ĐỜI
Tuồng đời lặng lẽ vẽ nên “phông”
Mới mọc râu trê, nó tưởng ông
Xừ ấy đóng vai cười vỡ bụng
Thằng kia lên mặt giận tràn hông
Khi xưa chạy giấy, nay tri huyện
Vừa mới bồi săm đã hội đồng
Xuất xứ công danh nhiều lối thiệt
Ai đời mua tước dễ như không
THUẬT HOÀI
Ít khi vui vẻ, ít khi buồn
Giã lả cho qua phận cánh chuồn
Trước vụng đường tu duyên mới lỡ
Nay tròn quả phúc, bước chưa nên
Lòng sông, há dễ dò sâu cạn
Đầu chợ, may ra biết dại khôn
Tai vách mạch rừng ghê gớm lắm
Kìa ai, thủ khẩu rứa mà hơn
VÔ ĐỀ
(bài này ở Sài Gòn vừa về
gặp lại các bạn cũ anh có vài nhận xét)
Trời đất vô cùng bến ở đâu
Một vùng hoa cỏ giống như nhau
Giếng vàng lá rụng khô khan nước
Hòn đá rêu phong lợt lạt màu
Hồn quỷ về kêu, cây thảm thiết
Bóng trăng đi mất, gió lao xao
Ai ngờ trong đám dân quê ấy
Có kẻ gian phi mới ló đầu
Khi bước vào địa hạt thơ mới, Hàn
bắt đầu được nhiều người khen ngợi. Nhà thơ trẻ Bích Khê chê anh “Điên”, qua
lời lẽ khinh bạc mất cả…. vệ sinh trong bài thơ “Bán Thơ” dưới đây:
Hôm xưa tớ đã bàn “sầu”
Món này khá đắt khách cầu phải
mua
Còn món “thi” cũng của chua
Khách nào có thích, tớ cũng bán
đùa làm quen
“Sầu” đã bán thì “thơ” cũng bán
nốt
Mối thi sầu không cột lại làm chi
“Kìa như đau, như khổ, như oán,
như si
“Nào giọng đàn, ai oán, giọt lệ
thương bi
“Kết cuộc lại ‘mốc xì’ gì đâu
ráo!
“Hồng vẽ lối xưa, toàn những sáo
“Cua bò thơ mới, chả nên câu
“Cũng rung đùi xưng Lý, Đỗ, Hàn,
Tô
“Rõ ‘bát xáo, cởi quần mò không
thấy cái’…”
Tớ trót đã cùng mang bệnh dại
(điên)
Từ nay xin đem bán lai cho đời
Khách làng thơ ai cần đến đồ chơi
Tớ xin bán không lời cả vốn…
Nghe được, Hàn cao hứng làm luôn
bốn bài, vừa tự xướng, vừa tự họa.
Từ đó về sau nghe nói họ quen
nhau
Dưới đây là thơ của Hàn Mặc Tử:
BÁN TÚI THƠ
Ai mua ta bán túi thơ đây
Đổi lấy tiền tiêu với tháng ngày
Vay mãi non sông coi hổ mặt
Mượn hoài trời đất đã quen tay
Xuân về bố thí năm ba chữ
Tết lại tiêu pha sáu bảy bài
Nhắn khách văn chương trong bốn bể
Bằng lòng mua lấy trả tiền ngay
LỆ THANH
HỌA VẬN
Này người rao bán túi thơ đây
Văn ấy ta xem kể những ngày
Lắm đoạn tầm thường chưa xứng mặt
Đôi câu kha khá lại lên tay
Rừng Nho cao thẳm bao nhiêu chữ
Biển học sâu xa há mấy bài
Nhắn nhủ, thôi đừng mua bán nữa
Túng tiền hỏi tớ, giúp cho ngay.
H.M.T
TRẢ LỜI NGƯỜI RAO BÁN THƠ
(cùng một thi sĩ)
Một trăm người bán vạn người mua
Khế ngọt thì chanh ắt phải chua
Cái lưỡi không xương nhiều lắt léo
Con người mắt thịt lắm thêu thùa
Thôi đừng nhát khỉ rung cây nữa
Mà chớ vườn hoang múa gậy bừa
Có biết thì thưa, không dựa cột
Lên tay, xuống ngón, vội hơn thua.
L.T
HỌA VẬN
Mặc người trau chuốt, mặc người mua
Ai bảo chanh chua, khế chẳng chua
Mắt cá, hạt châu nên lựa lọc
Miệng lằn, lưỡi mối khá thêu thùa
Trống qua cửa Sấm qua đâu nổi
Đàn gảy tai trâu, tay móng nhọn
Mạt cưa mướp đắng thủa nào thua.
H.M.T
NGÂM VỊNH
1. Phong
Hiu hiu gió lọt bức rèm thưa
Tựa gối bên song, hứng chợt vừa
Bờ liễu bóng ai trông thấp thoáng
Tóc mây phất phới chạnh lòng ta
2. Hoa
Hương thơm ngào ngạt nức hương
lân
Vẻ mặt không pha mảy bụi trần
Nhơ nhởn đêm xuân lồng bóng
nguyệt
Bên rèm mê mẩn khách giai nhân
3. Tuyết
Trắng xóa rừng mai mấy lớp dày
Thẩn thơ đề vịnh thú đương say
Quê nhà, nhớ khách đà in vẻ
Ngơ ngẩn ngồi ôn chuyện những
ngày
4. Nguyệt
Cung Thiềm tỏ rạng suốt đêm thanh
Hương quế xa đưa lọt bức mành
Gảy khúc Nghê thường êm ái lạ
Phòng thư luống ngại khách đa
tình.
*
Xuân
Mát mẻ trời xuân cảnh tốt tươi
Thích tính thiếu nữ hé môi cười
Non phơi vẻ gấm hoa chường mặt
Ngọn gió xuân đưa mát cả người
Hạ
Nhành hoa héo hắt rụng bên hè
Lắng khúc đàn Nam não nuột ghê
Thiếu nữ buông rèm ra tắm nắng
Hương đưa theo gió, nức bên hè
Thu
Thuyền ai thấp thoáng giữa tràng
giang
Nhạn lạc từng mây cánh vội vàng
Vầng nguyệt đêm thu soi lạnh lẽo
Mỹ nhân nàng hỡi thấu tâm can
Đông
Trắng xóa đầu non tuyết mới đông
Gọi đàn chiu chít nhạn bên sông
Phòng tiêu thiếu nữ nằm xem sách
Hé nụ cười duyên lắm mặn nồng
*
Cầm
Quen thói phong lưu với chị Hằng
Buông ra văn võ tịch tình tang
Êm đềm gảy khúc Nghê thường lại
Ngọn gió đưa lên tận Quảng Hàn
Kỳ
Thong dong ngày tháng ngựa xe
chơi
Thao lược kinh luân quyết trổ tài
Quân tướng nép oai thằng sĩ tốt
Xông tên đụt pháp cỡi đầu voi
Thi
Đắc theo phong nguyệt để vui chơi
Bảy bước lên thiên ấy mới tài
Túi sẵn văn chương trời sẵn
nguyệt
Tao nhân mặc khách dễ thường ai
Tửu
Thềm hoa vằng vặc mảnh trăng
trong
Ba chén mua vui thấm thía lòng
Thược dược gần bên say đỏ mặt
Lắm chiều lơi lả với non sông
Một cái Tết còn nguyên vẹn của
Hàn (1936) được xem là lạc quan.
XUÂN HỨNG
Non sông ngàn dặm ngắm càng xinh
Ừ, tết năm nay thật hữu tình
Pháo nổ, nổ tan luồng thất nghiệp
Xuân về, về ghẹo khách ba sinh
Hoa tươi sách với Thiên Kiều gái
Cảnh đẹp dường như thuỷ mặc tranh
Cao hứng đã toan cầm bút vịnh
Đào nguyên đâu lại thoáng qua
mành
Những bài thơ Đường đọc được 6
cách (Hàn rất nổi tiếng về bài thơ này)
CỬA SỔ ĐÊM KHUYA
Hoa cười, nguyệt gọi cửa lồng
gương
Lạ cảnh buồn thêm sợ vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn sóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yếu ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có đế bên tường
1. Đọc xuôi
2. Đọc ngược
3. Bỏ hai chữ sau đọc xuôi
4. Bỏ hai chữ đầu đọc xuôi
5. Bỏ hai chữ sau đọc ngược
6. Bỏ hai chữ đầu đọc ngược.
ĐI THUYỀN
(cũng như bài thơ Cửa sổ đêm
khuya
đọc được 6 cách)
Bèo trôi nước dợn sóng mênh mông
Cỏ mọc bờ xa bóng liễu trông
Chèo vững thiếp qua vời khổ ải
Giữ bền chàng đến vận trung không
Theo lần nguyệt xé mây mù mịt
Họa đáp thông reo trống não nùng
Neo thả biết đâu nơi định trước
Bèo trôi nước dợn sóng mên mông.
Thể thơ lục bát
ĐÊM TRĂNG
Bữa ni sáng tỏ bóng Hằng
Thử xem thiên hạ ai bằng ta không
Thảnh thơi lầu mát ngồi trông
Muôn vàn tâm sự một dòng nao nao
Càng lên, càng tỏ, càng cao
Trăng ơi hãy ghé động đào xem hoa
Hữu tình ta lại gặp ta
Đêm nay mới thấy đậm đà khuôn thiên
Mà sao ngậm miệng làm duyên
Đã nhiều căn dặn nỗi niềm tóc tơ
Mà sao trăng khéo hững hờ
Vì trăng ta phải ngồi chờ suốt đêm
Muốn bay lên tận cung thiềm
Kéo vầng trăng xuống kết duyên
châu trần
SẦU XUÂN
Đêm xuân lạnh bóng sân tàn
Họa xuân mơn trớn can tràng
thuyền quyên
Trời xuân vắng vẻ hương nguyên
Sông xuân lặng lẽ con thuyền xa
xa
Xuân đi đi khắp sơn hà
Tuổi xuân chất mãi tóc da đổi màu
Ngày xuân như gió thoảng sau
Tình xuân một khối ai sầu hơn ai
Mưa xuân như nhắc chuyện đời
Rượu xuân như gợi những lời nước
non
Thề xuân dù chẳng vuông tròn
Khóa buồng xuân lại, vẫn còn sầu
xuân
Một ít hơi hướm thơ Hồ Xuân Hương
trong bài dưới đây:
CHƠI THUYỀN GẶP MƯA
Đêm trăng thong thả thử chèo ra
Ơn nước hôm nay tắm gội mà
Sào cắm thuyền dồi thân thể khách
Buồm trương gió táp mặt mày hoa
Cầm lòng sông dễ không sao đặng
Đứng mũi ai kia đã mệt chưa!
Đất ướt loi ngoi trời mát mẻ
Mây mưa khoan khoái trận vừa qua
LỆ THANH
HỌA VẬN
Thuyền lan, nhè nhẹ đẩy trăng ra
Thử sức mây mưa nơi đó mà
Thừa lúc tối tăm sông trở mặt
Vững tay lèo lái sóng tung hoa
Gió dông ý muốn khoe mình nhỉ
Non nước tình chung biết tớ chưa
Lái vẫn đương hăng trời đã tạnh
Ngỗng trời đeo nguyệt sẽ bay qua
THƯỜNG XUYÊN (Quách Tấn)
Một đoạn “KHUÊ PHỤ THÁN”, theo
thể song thất lục bát
Ngàn trùng nước biếc non xanh
Hoa tung lá rụng mà cành trơ trơ
Mảnh trăng thu chưa lờ gương ngọc
Tiếng oanh vàng hết học cành mai
Thuyền lan còn dấu giữa vời
Nhìn xem phong cảnh tơi bời tâm
can
Gớm con tạo đa đoan quá lắm
Đương sum vầy muôn dặm xa xôi
Liễu đào ủ dột đứng ngồi
Mây chờ gió đợi ngậm ngùi vì ai
Chiếc bào ảnh nào người cầm lái
Để linh đinh buồm ngại đường xa
Sóng cồn vùi dập cành hoa
Trăm năm thân thế thiết tha thơ
đào
Lối về xưa ong rào bướm đón
Khách tiêu phòng năm ngón bi ai
Giấc cô miên những ái hoài
Hẹn hò cổ độ đã ngoài đôi thu
Một bài thơ thuộc khẩu khí:
BÚT THẦN KHAI
Ngọn bút thần khai phước lộc nhà
Sáng như gươm báu lạnh như ma
Mực lòe khí vị vô hồn chữ
Văn hút hào quang ở miệng ta
Giấy trắng tinh khôi tuôn huyết
mạch
Lời vàng nguyên vẹn trổ tài hoa
Ấm hơn tiếng nhạc reo trong ý
Thơ đợi xuân về phát tiết ra
Thơ ngũ ngôn độc vận đã xuất bản
trong Gái quê được xem là hay nhất của thời đó.
TÌNH QUÊ
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Gió chiều quên ngừng lại
Giòng nước luôn trôi đi
Ngàn lau không tiếng nói
Lòng anh dường mê mê
Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi đến trăng thề
Dầu ai không mọi đợi
Dầu ai không lắng nghe
Tiếng buồn trong sương đục
Tiếng hờn trong luỹ tre
Dưới trời thu man mác
Bàng bạc khắp sơn khê
Dầu ai trên bờ liễu
Dầu ai dưới cành lê
Với ngày xuân hờ hững
Cố quên tình phu thê
Trong khi nhìn mây nước
Lòng xuân cũng não nề…
*
BẠT
Bếp lửa nhân tình đã nguội
Mảnh duyên văn tự lẽ nào quên
HÀN MẶC TỬ
*
LỜI BẠT
Từ ngày Hàn Mặc Tử qua đời, tôi
chưa hề nghe ai trong những bạn bè thân cận anh viết về anh, về thơ anh, tình
duyên anh, bệnh hoạn anh cho thật cụ thể. Ngoại trừ ông Trần Thanh Mai, người
đầu tiên và duy nhất đã nói lên được phần nào hiểu biết gần gũi anh.
Những người, cho đến nay vẫn tự
xưng là thân cận nhất, hiểu biết nhất Hàn Mặc Tử, thì lại để lộ cái vốn liếng
nghèo nàn của họ về Hàn.
Duy chỉ được nghe nhà thơ Chế Lan
Viên nói một cách khẳng định mà chưa nghe ai lên tiếng phủ nhận, hay tranh
luận.
“May thay, Tử là một đỉnh cao
chói lòa trong văn học thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ.”
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu
sách.]
Anh Hoan nói: “Việc gì phải dông
dài tìm hiểu cuộc đời bệnh hoạn, tình duyên anh, về cuộc đời cách mạng ly kỳ
anh.”
Phải, việc gì phải lên đến cung
trăng như Amstrong phi hành gia Hoa Kỳ để rồi mang về những viên đá cuội sù sì
xấu xa thô kệch.
Chỉ cần nhìn thấy những đêm trăng
sáng tỏa ra dìu dịu, con người cũng đã cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng để tìm
hưởng những hạnh phúc riêng tư.
Trong năm mươi năm qua, tôi gia
công tìm hiểu thơ anh, đào bới khắp nơi tìm cho ra thử xem viên đá quý nào đã
làm cho đỉnh cao Hàn Mặc Tử sáng chói, mà nửa thế kỷ rồi vẫn còn sáng chói.
Viết lại tập sách này, tôi chỉ
mong ghi lại những gì tôi đã trông thấy nơi anh, xuyên qua những bài thơ huyền
hoặc, tình tứ say sưa nhưng rất thật thà.
Quả thật tôi chưa hiểu gì hơn, mà
ngày càng thêm yêu mến anh, thích thú đọc thơ anh, sống lại với anh những ngày
còn chung sống.
Tôi như một người leo núi, đến
đây nhìn xuống đã thăm thẳm rồi, mà nhìn lên vẫn còn vòi vọi.
Vậy xin cắm ngang đây cái mốc,
ngỏ hầu, sau này giúp các bạn nào còn hiếu kỳ, muốn leo lên cái đỉnh sáng ấy,
tìm được chỗ để bám víu.
Nào, xin mời các bạn.
Tại Sài Gòn, Tiết Thanh Minh Tân
Dậu
****
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Chim Cụt – Cua Cóc - Tiểu Bảo Bình
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)

