Hàn Mặc Tử Trong Riêng Tư - Phần III - Chương 1
PHẦN III
ÔI! KIẾP TÀI HOA!
1. CÔ GÁI ĐỒNG TRINH
Khi Hàn Mặc Tử đã thực sự biết
mình mắc bệnh nan y, anh vẫn không hề tỏ vẻ sợ hãi lo lắng bên ngoài, nhưng có
nhiều hiện tượng cho thấy anh tự đè nén nỗi lo âu từng giây từng phút.
Mặc dù mọi người trong gia đình
vẫn tìm cách bưng bít dư luận xôn xao bên ngoài cái thành phố bé nhỏ này, mà
mỗi một gia đình, mỗi một người dân đều như thông cảm nhau, hiểu biết lặng lẽ
với nhau, như qua cả hơi thở. Vì vậy, cái truyền thống cảm nhận đó cũng đã đến
với anh được.
Anh Trí vẫn biết cả: Từ con đường
Khải Định, con đường Jules Perry cho đến Gia Long, những ai đã có triệu chứng
mắc bệnh phong, anh đếm được cả trên đầu ngón tay. Câu chuyện Giang Đông Nhị
Kiều ở Gia Long bỗng nhiên mất tích, vắng bóng từ một năm nay cả mùa hè trên bờ
biển, càng làm cho anh xót xa hơn.
Nỗi đau buồn càng dồn dập cho
anh, từ khi Hoàng Hoa về Huế, Mộng Cầm giải ước, khiến cho anh phải nhiều đêm
thao thức, bồi hồi tâm sự nhiều tam canh, và tiếng đàn tranh của “Nàng” trước
kia nghe sao dịu dàng, say đắm bao nhiêu thì nay trở nên dày vò ray rứt anh bấy
nhiêu.
“Nàng” là Mỹ Thiện, ở cách nhà
chúng tôi độ 30 mét thôi, một thiếu nữ người Huế, con gái nhà giáo họ Cung, vốn
là một cây đàn tỳ bà lỗi lạc, lại còn nổi tiếng đàn đủ năm cây (tranh, tỳ, nhị,
nguyệt, bầu).
Cho nên, cây đàn tranh dưới bàn
tay tuyệt kỹ của nàng đã làm cho bao nhiêu con tim xao xuyến một vùng trời Khải
Định.
Nàng đẹp như bức tranh thuỷ mặc
tàu mà vẻ kiều mị tình tứ như ẩn như hiện dưới nét đan thanh mờ ảo.
Hình như con người nàng có nhiều
tâm sự, mà chỉ bộc lộ vào những đêm khuya thanh vắng qua tiếng đàn tranh nỉ non
như than thở, như bơ vơ tìm kiếm, đuổi theo vào tận cùng giấc cô miên trằn
trọc, những tâm hồn nghệ sĩ, lẻ loi.
Tiếng đàn đó làm cho anh Trí vừa
sợ hãi vừa lo lắng đợi chờ, những đêm dài tuyệt vọng vì biết mình mắc phải
chứng nan y ghê gớm.
Anh thường đánh thức tôi dậy để
cho có bạn, để cùng theo dõi tiếng đàn ma quái đó.
Có đôi khi bảo tôi gióng dây tơ
cây đàn nguyệt, so phím cách không hòa điệu, khiến nhiều căn phố kế cận vang
nhẹ tiếng động của tò mò.
Có phải vì thế mà nhiều bà đạo
đức lên giọng nặng nề phê phán lẳng lơ mất nết. Nhất là bà kế mẫu nàng, vốn
không lớn tuổi hơn nàng bao nhiêu, theo dõi hằn học, chỉ vì bà cũng rất đẹp.
Tôi thỉnh thoảng có dịp đến hòa
đàn với ông giáo, đôi khi cũng có nàng dự hòa, vì ông giáo rất nghệ sĩ và phóng
khoáng, trẻ trung.
Anh Trí chỉ nghe danh nàng nhưng
chưa biết mặt. Có lần anh hỏi tôi về nàng, tôi cười, đọc cho anh nghe mấy câu:
… Và đôi mắt ai rười rượi buồn
Ngón tay trên phiếm nhẹ sầu buông
Trễ tràng mái tóc gây thương nhớ
Chỉ bấy nhiêu thôi đủ vấn vương.
Quả thật là tai họa “bạc số”. Chỉ có cách bảy tháng sau đó, khi tôi lên Đà
Lạt, bỗng được tin nàng quyên sinh trong một giấc ngủ dài với mười viên thuốc
Véronal để từ giã cõi đời khắt khe độc ác.
Nàng đã mất, một buổi sáng cuối thu buồn thảm.
Nhà thương đã ra công chạy chữa. Họ không phục hồi được mạng sống nàng,
nhưng đã phục hồi được tiếng thơm trinh bạch nàng, mà phương pháp chạy chữa đã
có dịp chứng minh ngược lại những gì gièm siễm thị phi về nàng.
Mọi người đều ứa lệ. Vậy mà trước đó chỉ mấy tiếng đồng hồ, khi nghe Mỹ
Thiện quyên sinh, đã có xôn xao luận điệu hoang thai. Ôi xót xa chưa!
Anh Trí khi nghe anh Bửu Dòng, từ nhà thương chạy về vội vã báo tin buồn
cho cả xóm đang chờ đợi, bỗng sững sờ ngơ ngác.
Anh ngậm ngùi hồi lâu rồi lặng lẽ đi vào phòng riêng đóng cửa lại viết ngay
bài thơ:
CÔ GÁI ĐỒNG TRINH
Ôi chao, ghê quá, ôi ghê quá
Cảm thấy hồn tôi ớn lạnh rồi
Đêm qua tranh vướng trên cành trúc
Cô láng giềng bên chết thiệt rồi
Trinh tiết vẫn còn nguyên vẹn mới
Chưa hề âu yếm ở trên môi.
Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc
Cả một mùa xuân đã hiện hình
Thinh sắc cơ hồ lưu luyến mãi
Chết rồi xiêm áo trắng như tinh
Có tôi đây, hồn phách tôi đây
Tôi nhập vào trong xác thịt này
Cốt để dò xem tình ý lạ
Trong lòng bí mật ả thơ ngây
Biết rồi, biết rồi, thôi biết cả
Té ra nàng sắp sửa yêu ta
Bao nhiêu mơ ước trong tim ấy
Như chục xuân về thổ lộ ra.
Mấy tháng sau đó tôi về Quy Nhơn
nghỉ tết. Anh Trí đem bài thơ trao cho tôi, giọng nghẹn ngào anh nói: Tao giải
oan cho Mỹ Thiện đó. Rồi anh hỏi: “Sao, mi có khóc cho nàng được câu nào
không?” Tôi nói: Bận công việc quá, đầu óc không còn minh mẫn, chỉ làm được mấy
câu trên chuyến xe Đà Lạt về đây:
… Ôi! Nhớ bàn tay, nhớ những đêm
Trăng sao mờ nhạt gió ngàn êm
Tim ai thổn thức trên đầu ngón
Xao xuyến lòng ta thập lục huyền
Hòa âm buổi ấy dưới trăng thâu
Thánh thót đàn ai nhỏ lệ sầu
Sao em không nói câu ân ái
Nỡ để nàng gieo xuống mộ sâu.
Anh xem xong nói “được lắm” Mỹ
nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
Mỹ Thiện mất đi, Hàn Mặc Tử cảm
thấy thiếu vắng tiếng đàn tranh vẩn vơ quen thuộc mà hàng đêm anh hồi hộp đợi
chờ đến với anh, như một nỗi xót xa, xa không thể nào tránh được. Bây giờ xót
xa đó càng ray rứt hơn, dày vò hơn, bởi vì anh lại vừa mất đi cái giây phút đợi
chờ một cuộc hẹn hò, vừa lo lắng bồn chồn, vừa thích thú say sưa…
Tiếng đàn tranh huyền hoặc này
trở thành thói quen của anh.
Ông Trần Thanh Mại viết về anh đã
nói: Hàn Mặc Tử có một nguồn cảm thụ rất mạnh khiến anh hòa nhập dễ dàng vào
tiếng đàn, như chính anh cũng là dây đàn, cũng run rẩy, cũng quằn quại mỗi khi
bàn tay nghệ sĩ bấm vào cung bậc dây đàn.
Có nhiều khi anh thét lên, nức nở
như tiếng đàn bị uốn nắn mà anh cảm thụ qua âm thanh. Tiếng đàn có vẻ như ma
quái ám ảnh anh suốt thời kỳ đau nặng. Cũng có khi an ủi, khi thì dằn vặt không
buông tha anh:
Nàng lạy Nàng, hãy nghe tôi cầu
khấn
Hãy khoan tay cầm lại trí tương
tư
Đang chờn vờn trong nguồn sáng
ngất ngư
Đang lướt rướt ở trong màu hoa lệ
Đó là những lời than vãn năn nỉ,
mà anh đang cảm thụ nỗi đau nhức.
Và cũng có khi anh say sưa mê mẩn
khoan khoái
Bằng trăm tiếng vẽ nên trăm màu
sắc
Với đôi tay Nàng trút hết đê mê
Dạ lan hương bừng mở cánh e dè
Trong khúc nhạc rên đều hơi gió
tới.
Những câu thơ vừa nhức nhối vừa
say mê này đã được Hàn viết lên trong bài thơ sau:
ĐÀN NGỌC
Điện Hàm Chương mai hoa còn rất
ngọc
Xiêm nghê nàng ven vén để hương
lay
Nốc đi cho làn phấn điểm màu say
Cho ứ đọng toàn thân người rớm
khóc
Rồi muôn xuân đã nư chiều thổn
thức
Đều run rên như thể tâm hồn mơ
Ai gieo chi thương tiếc giữa
đường tơ
Cho lỡ dở vang lên từng tiếng nấc
Nguồn ánh sáng lờ đi trong sự
thật
Trong ão huyền và trong cả mê ly
Ai nỡ nào cắt nghĩa tới hàng mi
Là ứ lại, là trào ra nước mắt
Bằng trăm tiếng vẽ nên trăm màu sắc
Với đôi tay Nàng trút hết đê mê
Dạ lan hương bừng mở cảnh e dè
Trong khúc nhạc rên đều hơi gió tớt
Đàn ngọc đã rít lên chiều nã nớt
Tôi kêu rên van khóc lạy nàng thôi
Hãy uống đi cốc rượu ngấm đầy hơi
Chan chứa vị nồng cay đêm hợp cẩn
Nàng lạy Nàng hãy nghe tôi cầu khẩn
Hãy khoan tay cầm lại trí tương tư
Đang chờn vờn trong nguồn sáng ngất ngư
Đang lướt mướt ở trong màu hoa lệ
Trên cung bực hãm mau niềm ngọc kể
Với lòng run ngưng hết cả thanh âm
Cho lửng lơ chới với điệu phong cầm
Cho tôi bớt bồi hồi trong một phút.
Bài Đàn Ngọc trên đây, Hàn thú nhận sự yếu đuối của anh trước ảnh hưởng
huyền hoặc của tiếng đàn tranh mà anh hoàn toàn bị chế ngự.
Cô Gái Đồng Trinh từ đó trở thành một hiện tượng kỳ lạ, một Nàng thơ, dẫn
dắt anh vào những nhớ thương bàng bạc bâng quơ, hoặc hòa nhập vào những lời thơ
quằn quại xót xa mà cuộc đời nàng đã đi qua ngắn ngủi.
Những năm Hàn đau nặng, nỗi u buồn tuyệt vọng đã đưa Nàng đến giấc ngủ vĩnh
viễn, cũng đã được Nàng san sẻ cho anh trong những đêm cô quạnh trên bờ biển xa
xôi.
Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả
Xin để tang anh đến vạn ngày
Bất cứ lúc nào bóng Nàng cũng mơ
hồ chập chờn hiện ra trong tầm mơ ước của anh.
Muốn gởi thương về người cổ độ
Mà sao tình chẳng nói cho nhau…
Chiều xưa khúc nhạc nóng ran lên
Không có ai đi để lỗi nguyền
Nguồn thơ ứa mắt hai hàng lệ
Tờ giấy hoa tiên cũng ướt mèm.
Có những khi anh hình dung Nàng
như một bóng ma ghê rợn trên bãi cô liêu.
Tôi ngồi dưới bãi đợi Nường Mơ
Tiếng rú ban đêm rạng bóng mờ
Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng
Rung từng không khí bạt vi lô
Ai ai lẳng lặng trên làn nước
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi
Mơ sao ngậm cứng tơ đầy miệng
Không nói không rằng nín cả hơi
Ôi chao, ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời.
Hiện tượng Mỹ Thiện là một sự
tiếc nuối bâng quơ dông dài, cô đọng lại từ những cuộc tình dang dở xa xưa.
NHỮNG GIỌT LỆ
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Mỹ Thiện đã giam hãm tâm tư anh
một thời gian khá lâu, cho đến khi anh gặp lại con trăng cũ, con trăng lãng mạn
nằm sóng soài trên cành me, bên cửa sổ cái gác trọ con đường Espagne Sài Gòn.
Nhưng càng về lâu dài, anh rất
thích thú sống với trăng, nào là đi chơi với Trăng, ngủ với Trăng, như chính
thân anh hòa lẫn với trăng (tôi đã từng kể lại trong tập hồi ký Hàn Mặc Tử -
anh tôi) trong nhiều trạng thái xuất thần.
Những trường hợp xuất thần ngày
càng xảy ra nhiều.
Khi anh Trần Thanh Địch giới
thiệu Thương Thương với anh, Thương Thương chiếm ngay chỗ của Trăng dễ dàng, và
trở thành thật sự một Nàng Tiên bằng xương bằng thịt, có thể giao thiệp với anh
bằng thơ văn. Thật tuyệt vời.
Anh bỗng nhiên suy cảm phong phú
lạ lùng, mọi vật đều trở thành một cõi Bồng Lai. Chim hoa lá đều hiểu anh và
anh đã sáng tác Cẩm Châu duyên, Quần tiên hội, những vần thơ trác tuyệt còn lưu
lại đến ngày nay như những viên ngọc quí của nền văn học.
Đó là hương vị chót, những ngày
cuối đời, mà định mệnh dành cho anh như để đền bù những gian khổ mà anh đã trải
qua.
*
2. NHỚ NHUNG
Từ ngày Mỹ Thiện mất đi, âm hưởng
tiếng đàn tranh nức nở tủi hờn, nghe như ma quái của nàng vẫn còn chập chờn ám
ảnh Hàn Mặc Tử cả năm trời, mà anh không có cơ hội nói lên nỗi lòng bứt rứt đó.
Đối với anh Trí, thơ là phương
tiện để phát ngôn thật thà các mối tình như lâu nay, mà anh không thể nói ra
bằng lời được cho ai hết.
Ở đây thì anh lại không thể viết
ra được những lời thơ chân tình nói lên hoàn cảnh bệnh hoạn, cô đơn trong dày
vò mà tiếng đàn Mỹ Thiện là niềm an ủi duy nhất cho anh.
Anh Trí mê tiếng đàn rồi, từ đó,
bóng dáng mơ ước về nàng cũng trở nên một ám ảnh cho anh nữa, tuy không thể bộc
lộ được mà thôi. Chỉ vì Hồ Tùng Ngâm, bạn thân của anh hồi đó, lại cũng say đắm
Mỹ Thiện mà chị Cúc tiết lộ: “Mỗi tuần Ngâm đều đến, để vọng về căn nhà đối
diện lặng lẽ ngắm nàng.”
Cái nghĩa bạn bè nặng nề đến nỗi
Hàn Mặc Tử phải nhận sâu mối tình anh trong đáy lòng thầm kín không hề tiết lộ
cho ai.
Bài Nhớ Nhung tôi kể đây là một
công trình ngụy trang đặc biệt cho mối tình anh đối với Mỹ Thiện. Cho nên ít ai
hiểu được bài thơ này Hàn viết về ai. Có người cho là anh tặng Hoàng Hoa, khi
anh đi Sài Gòn là báo. Điều này không thể đúng đuợc với Hoàng Hoa.
Bài thơ, nói về một cuộc chia ly
mà chủ yếu là cây đàn tranh: nào là tiếng dương cầm, cánh cô nhạn, những ngôn
từ ám chỉ tiếng đàn tranh mà anh nhớ nhung đến khô héo.
Trong giới cổ nhạc hồi đó, người
ta nói “phiếm nhạn” là đàn tranh, còn “phiếm trúc” là đàn nguyệt, chỉ vì bộ
phiếm gỗ mười sáu con có hình dáng con chim nhạn chạy dài trên mặt đàn. Đàn
tranh còn được gọi là Thập Lục Huyền Cầm.
Hàn Mặc Tử nói trong bài thơ,
nghe như chính anh chủ động. Nếu ta đặt chữ “em” ngôi thứ nhất trong bài thơ
bằng tiếng “anh” ngôi thứ hai thì tâm sự Hàn thật quá rõ ràng, không còn giấu
giếm được:
Từ ấy em ra đi
Ngoài hiên không gió thoáng
Hoa đào vắng mùi hương
Lòng anh xuân hờ hững
Từ ấy em ra đi
Bóng trăng vàng giải cát
Cánh cô nhạn bơ vơ (tiếng đàn
tranh bơ vơ)
Liệng dưới trời xanh ngắt
Từ ấy em ra đi
Tiếng dương cầm vắng bặt
Dường tan trong đám sương
Thoáng về nơi hoàng hạc
(trở về cõi huyền hoặc)
Từ ấy em ra đi
Anh gầy hơn gốc liễu (Hàn bắt đầu
đau nặng)
Anh buồn như đám mây
Những đêm vừng trăng thiếu. (Đêm
cả trăng cũng không có với anh)
Cứ bên ngoài bài thơ, thì chị Cúc
cũng có thể được nhắm vào. Nhưng có lần tôi hỏi thì chị cười: “Cậu có nghe tôi
đàn tranh bao giờ chưa? Tôi chỉ biết đàn nguyệt còn đàn tranh tôi mới học. Khi
dọn về ở trước mặt nhà Mỹ Thiện và cả ông giáo nữa, tôi đâm ra mặc cảm, không
dám lên tiếng.” Chị lại cười: “Chỉ có cậu mới dám so tài thôi.”
Một luận điệu khác ở Huế cho
rằng: bài Nhớ Nhung là anh Trí nhớ một người bạn, cô giáo ở An Cựu tên Nhung.
Tôi cũng đã tìm hiểu: ở Huế, hẳn có một mối tình sơ ngộ với một cô gái tên là
Thu Hà mà bài thơ Chuyến Đò Ngang là gạch nối, nhưng Hàn bận lo giấy tờ để du
học Pháp nên lãng quên và có lần bị “nhắc khéo” tôi đã nói trong bài Chuyến Đò
Ngang.
Anh Trí không hẳn đã yêu Mỹ
Thiện, như thông thường, mà chỉ bị ám ảnh vì tài sắc được nghe nói về nàng.
Anh hay hỏi han về “tình hình” Mỹ
Thiện như trước kia, khi Hoàng Tùng Ngâm còn ở Quy Nhơn, hay tâm sự với anh. Có
lẽ anh cũng có làm một vài bài thơ nào đó, nhưng kín đáo xem rồi xé đi.
Tôi cũng có dịp tả hình dáng nàng
cho anh nghe. Anh trầm ngâm thích thú như câu:
Trễ tràng mái tóc gây thương nhớ
Chỉ bấy nhiêu thôi đủ vấn vương…
(đã chép trong bài Mỹ Thiện)
Những câu đó để tạo cảm nghĩ cho
anh làm thơ, nhưng anh lại không dám làm. Có lẽ anh lại ngần ngại vì tôi chăng?
Khi vắng Ngâm, anh nuối tiếc cái
mối liên cảm trong tinh thần với Ngâm nên anh kéo tôi vào thay thế chỗ trống
của Ngâm. Anh đặt bút hiệu cho tôi là Thiện Nam. Tôi hỏi nghĩa là sao? Anh cười
lớn: “Thiện nam tín nữ”. Chúng tôi cùng cười cho anh vui.
Với Mỹ Thiện, anh có vẻ như tôn
thờ một thần tượng, một hình bóng mơ hồ dễ tan biến.
Những đêm mà vì lẽ nào đó, Mỹ
Thiện không đàn, anh xao xuyến kỳ lạ, đứng lên nằm xuống, gần như không ngủ,
suốt đêm chờ đợi.
Cuộc đời tình cảm của anh, đã hai
lần thất bại với Hoàng Hoa với Mộng Cầm. Hai lần đó đã để lại cho anh nhiều
tiếc nuối những gì anh được hưởng ít oi. Nhưng với Mỹ Thiện, anh chưa hề được
gì hết, ngay cả chưa trông thấy được dung nhan kiều diễm Nàng, mà chỉ nghe tả
lại thôi.
Nhưng tiếng đàn tranh đã nói hết
về nàng, làm cho anh nhớ nhung nuối tiếc như mất đi những gì tuyệt đẹp mà anh
đã có.
Bởi vậy, sự chờ đợi hằng đêm tuy
xót xa nhức nhối với anh là một điều thua thiệt, mà anh sẵn sàng chấp nhận để
trao đổi một chút say sưa huyền hảo trong mơ màng thôi.
Anh không hề nghĩ cái ân huệ tối
thiểu đó lại cũng mất đi dễ dàng quá trong một giấc ngủ dài, chẳng khác gì mọi
giấc ngủ. Nàng đã từng sống, mà anh ngờ vực còn vói nắm cuộc đời anh.
Tôi rất thấm thía với câu anh
than thở:
… Cô láng giềng bên chết thiệt
rồi.
Từ đó:
Ngoài hiên không gió thoảng
Hoa đào vắng mùi hương
Lòng anh xuân hờ hững…
Từ đó:
Tiếng dương cầm vắng bặt…
Cánh cổ nhạn bơ vơ…
Xứ Huế, cái xứ có nhiều liên quan
đến anh từ thời biết yêu vừa mất đi một tài hoa, một thần tượng của anh.
Tôi vẫn còn nghe anh thỉnh thoảng
ngâm một câu thơ cũ mà lâu ngày không nhớ tác giả là ai, đã nói lên nỗi nhớ
thương của xứ Huế về một vị Phế Đế bị lưu đày:
Khô héo lá gan cây Đỉnh Ngự
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương.
Lại một lần nữa, anh tôi ngụy
trang đến tâm tư rồi.