Ấn tượng sai lầm - Chương 04 - 05
Chương 4
Anna chạy chậm dọc theo phố
East 54, qua Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, vượt Đại lộ 6 trước khi rẽ phải vào
Đại lộ 7. Cô hoàn toàn không để ý đến những cái mốc quen thuộc như tác phẩm
điêu khắc mang tên Tình yêu ngự trị ở góc phố East 55, hay toà nhà Carnegie khi
cô vượt qua phố East 57. Phần lớn sự tập trung và sức lực của cô là để tránh va
vào những người đi làm theo vé tháng khi họ đâm sầm vào cô hay cắt ngang đường
cô bằng những bước chân vội vã. Đối với Anna, việc chạy chầm chậm tới công viên
Central Park chỉ là bước khởi động để cho người ấm lên, và cô không khởi động
chiếc đồng hồ bấm giờ trên cổ tay trái cho đến khi cô qua Artisan’s Gate và
chạy vào trong công viên.
Khi đã ổn định tốc độ như mọi
ngày, cô tập trung suy nghĩ vào cuộc hẹn với vị chủ tịch công ty vào lúc 8 giờ
sáng hôm đó.
Anna đã từng cảm thấy ngạc
nhiên và nhẹ nhõm khi Bryce Fenston mời cô về làm việc tại công ty Fenston
Finance chỉ vài ngày sau khi cô bị sa thải khỏi vị trí Phó phòng Ấn tượng của
nhà đấu giá Sotheby.
Người chủ trước của cô đã gần
như nói thẳng với Anna rằng cô không còn đường tiến ở hãng nữa khi cô đã nhận
về mình cái tội đánh mất một khách hàng quan trọng và để việc bán đấu giá một
bộ sưu tập lớn lọt sang tay đối thủ cạnh tranh của họ là nhà đấu giá Christie.
Anna đã bỏ ra hàng tháng để thuyết phục, tán tỉnh, phỉnh phờ người khách hàng
đặc biệt này để ông ta nhờ nhà đấu giá Sotheby đưa ra bán hộ mình bộ sưu tập
của gia đình, và khi chia sẻ chuyện này với người tình, cô đã ngây thơ tin rằng
anh ta sẽ giữ bí mật cho mình. Suy cho cùng, anh ta là một luật sư.
Khi tên vị khách hàng kia
xuất hiện trên tờThời báo New
York, Anna mất cả công việc lẫn người tình. Cũng
chẳng có ích gì khi vài ngày sau, lại chính tờ báo này đưa tin rằng Tiến sỹ
Anna Petrescu đã rời hãng Sotheby vì bị “chơi bẩn”, và nói thêm rằng chắc chắn
cô sẽ có một công việc tốt ở hãng Christie nếu cô muốn.
Bryce Fenston là người luôn
có mặt tại tất cả các cuộc đấu giá lớn của phòng Ấn tượng, và chắc chắn là ông
ta thấy rõ Anna luôn đứng trên chiếc bục cạnh người điều khiển đấu giá, ghi
chép và làm công việc phát hiện người ra giá. Cô luôn bực mình khi nghe thấy ai
đó bàn tán rằng sở dĩ cô được nhà đấu giá Sotheby thường xuyên đặt vào những vị
trí nổi bật là vì cô xinh đẹp và có dáng thể thao chứ không phải vì cô được
việc hơn người khác.
Anna nhìn đồng hồ khi khi cô
chạy qua Playmates Arch: 2 phút 18 giây. Cô thường đặt ra mục tiêu kết thúc
vòng chạy trong vòng mười hai phút. Cô biết như thế là không nhanh, nhưng mỗi
khi có ai đó vượt mình, cô vẫn cảm thấy bực, và thậm chí phát điên nếu đó là
một phụ nữ. Anna về thứ 97 trong cuộc đua maratông ở New
York hồi năm ngoái, vì vậy trên đường chạy ở công viên Central Park, ít có sinh vật hai chân nào có thể vượt
được cô.
Những suy nghĩ của cô lúc này
lại quay trở về với Bryce Fenston. Từ lâu trong giới nghệ thuật và ăn theo nghệ
thuật - những nhà đấu giá, những phòng tranh và các nhà buôn - người ta đã biết
rõ rằng Fenston đang sưu tầm tranh của các hoạ sỹ theo trường phái Ấn tượng.
Ông ta, cùng với Steve Wynn, Leonard Lauder, Anne Dias và Takashi Nakamura
thường là những người tranh mua sau cùng mỗi khi có một bức tranh nào đó của
trường phái này được đem ra đấu giá. Với những nhà sưu tầm như vậy, thứ ban đầu
chỉ là một sở thích vô hại sẽ nhanh chóng trở thành một chứng nghiện, ngày càng
nặng giống như nghiện ma tuý. Với Fenston, người sở hữu những mẫu tranh của mọi
hoạ sỹ thuộc trường phái Ấn tượng và hậu Ấn tượng trừ Van Gogh, thậm chí ý nghĩ
về việc sẽ được sở hữu một tác phẩm của hoạ sỹ bậc thầy người Hà Lan này cũng
giống như được tiêm một liều hêrôin, và một khi đã mua được tác phẩm mà mình
đang khao khát, ông ta lại khao khát một tác phẩm mới, giống như một con nghiện
dật dờ đi tìm kẻ cung cấp ma tuý để cắt cơn. Anna Petrescu là người có thể cắt
cơn cho ông ta.
Khi Fenston đọc được trên
tờThời báo New Yorkrằng
Anna bị sa thải khỏi nhà đấu giá Sotheby, ngay lập tức ông ta đề nghị cô về làm
việc cho mình với một mức lương thể hiện mức độ nghiêm túc của ông ta trong
công việc xây dựng bộ sưu tập của mình. Anna đi đến quyết định nhận lời mời của
ông ta khi cô biết thêm rằng Fenston vốn là người gốc Rumania giống cô, và cũng giống như
cô, đã chạy trốn khỏi chế độ Ceausescu và xin tị nạn tại Mỹ.
Chỉ vài ngày sau khi Anna về
làm việc tại ngân hàng của ông ta, Fenston đã tìm cách thử thách kiến thức nhà
nghề của cô. Phần lớn những câu hỏi mà ông ta đặt ra tại cuộc gặp đầu tiên của
hai người trong bữa ăn trưa đều liên quan tới những bộ sưu tập lớn đang còn
trong tay những gia đình thuộc thế hệ thứ hai hay thứ ba. Sau sáu năm làm việc
tại Sotheby, hầu như không có bức tranh nào của các hoạ sỹ Ấn tượng được đem ra
bán mà không qua tay Anna, hoặc ít nhất cũng phải qua mắt cô và nằm trong kho
dữ liệu của cô.
Một trong những bài học đầu
tiên mà Anna tiếp thu được sau khi vào làm cho Sotheby là tiền cũ thường là
người bán và tiền mới thường là người mua, đó là lý do tại sao cô tiếp xúc với
Phu nhân Victoria, con gái của Bá tước xứ Wentworth, đệ thất-tiền cũ, rất
cũ-thay mặt cho Bryce Fenston-tiền mới, rất mới.
Anna cảm thấy ngạc nhiên
trước việc Fenston luôn bị ám ảnh bởi những bộ sưu tập của người khác, cho đến
khi cô phát hiện ra rằng chính sách của công ty là chấp nhận tài sản thế chấp
bằng các tác phẩm nghệ thuật khi cho vay những khoản tiền lớn. Ít có ngân hàng
nào chấp nhận “nghệ thuật”, dù là dưới hình thức nào, làm tài sản thế chấp. Bất
động sản, cổ phiếu, trái phiếu, thậm chí nữ trang đều được, nhưng hiếm khi là
nghệ thuật. Các chủ ngân hàng không hiểu gì về thị trường tranh và rất ngại
nhận những tác phẩm nghệ thuật, vì việc cất giữ, bảo vệ và thường là phải đem
bán những bức tranh ấy vừa tốn kém thời gian vừa không mang tính thực tế.
Fenston Finance là một ngoại lệ hiếm hoi. Chẳng cần phải mất nhiều thời gian để
Anna phát hiện ra rằng Fenston thực tế không có tình yêu đích thực dành cho
nghệ thuật, và cũng không hiểu gì về nghệ thuật. Ông ta là hình mẫu để Oscar
Wilde đưa ra câu cách ngôn: Người biết giá cả của mọi thứ là người chẳng biết
giá trị của bất cứ thứ gì. Nhưng phải mất nhiều thời gian Anna mới khám phá ra
mục tiêu đích thực của ông ta.
Một trong những nhiệm vụ đầu
tiên của cô là bắt tàu thuỷ sang Anh quốc để thẩm định giá trị gia sản của Phu
nhân Victoria Wentworth, một khách hàng tiềm năng, người vừa xin vay một khoản
tiền lớn từ công ty tài chính Fenston Finance. Bộ sưu tập tranh ở Lâu đài
Wentworth hoá ra có rất nhiều tranh của các hoạ sỹ người Anh, bắt đầu được sưu
tập từ đời Bá tước Wentworth đệ nhị. Ông ta là một nhà quý tộc lập dị rất giàu
có, có khiếu nghệ thuật đủ để các thế hệ sau trong dòng họ này gọi ông ta là
một hoạ sỹ nghiệp dư thiên tài. Trong đời mình, ông ta đã sưu tầm tranh của
nhiều hoạ sỹ nổi tiếng như Romney, West, Constable, Stubb và Morland, cùng một
tác phẩm kiệt xuất của Turner, bứcHoàng hôn ở Plymouth.
Bá tước đệ tam chẳng quan tâm
gì tới nghệ thuật, và để cho bụi phủ kín bộ sưu tập cho đến khi con trai của
ông ta, Bá tước đệ tứ, thừa kế gia tài và cùng gia tài ấy là con mắt nghệ thuật
của ông mình.
Jamie Wentworth bỏ ra gần một
năm để thực hiện một cái gọi là Chuyến đi Vĩ đại. Ông ta tới Paris, Amsterdam,
Rome, Florence, Venice và St Petersburg trước khi quay trở lại Lâu đài
Wentworth cùng với những bức tranh của Raphael, Tintoretto, Titian, Rubens,
Holbein và Van Dyck, đấy là chưa kể đến một cô vợ người Ý. Tuy nhiên, Bá tước
đệ ngũ, Charles Wentworth, mới là một tay chơi đích thực, cả theo nghĩa đen và
nghĩa bóng. Ông ta không chỉ sưu tầm tranh mà còn sưu tầm cả gái. Trong một lần
vui chơi ở Paris-chủ yếu là ở trường đua tại Longchamp, nhưng cũng có những lúc
ở trên một chiếc giường tại khách sạn Crillon - cô bồ non của ông bá tước
thuyết phục ông ta mua một bức tranh của một hoạ sỹ không tên tuổi tại chỗ ông
bác sỹ của mình. Charles quay trở về Anh sau khi đã vứt bỏ cô nhân tình nhưng
không quên bức tranh đó. Ông ta gần như lãng quên nó trong phòng ngủ dành cho
khách, dù ngày nay những phần lớn những người yêu thích tranh đều đánh giá
bứcChân dung người cụt tailà một trong những kiệt tác của
Van Gogh.
Anna đã nói với Fenston là
phải hết sức thận trọng khi mua một tác phẩm nào đó của Van Gogh, bởi vì chuyện
gian lận trong nghề này còn nhiều hơn chuyện gian lận trong giới chủ nhà băng -
một lối nói nhiều ẩn ý mà Fenston chẳng thèm quan tâm. Cô nói với ông ta rằng
có rất nhiều tranh giả được treo ở các phòng trưng bày tư nhân hoặc trong các
bộ sưu tập cá nhân, thậm chí ở cả một vài bảo tàng lớn, kể cả bảo tàng quốc gia
Oslo. Tuy
nhiên, sau khi Anna xem xét kỹ những tài liệu liên quan đến bứcChân
dungcủa Van Gogh, trong đó có một bức thư của Tiến sỹ Gachet có nhắc
đến Charles Wentworth, một tấm biên lai cho khoản tiền 800 phờ răng từ vụ mua
bán ngày xưa, một giấy chứng thực của Louis van Tilborgh, người phụ trách phòng
tranh ở Bảo tàng Van Gogh tại Amsterdam, cô cảm thấy đủ tự tin để nói với vị
chủ tịch rằng bức tranh ấy đích thực là do bàn tay của vị hoạ sỹ thiên tài vẽ
nên.
Với những người nghiện tranh
Van Gogh, bứcChân dung người cụt tailà đỉnh cao mơ ước của
họ. Dù bậc thầy hội hoạ này vẽ tới ba mươi lăm bức chân dung trong suốt cuộc
đời mình, chỉ có hai bức là được vẽ sau khi ông cắt tai trái của mình. Điều
khiến các nhà sưu tập đều khao khát có được tác phẩm này là ở chỗ tác phẩm còn
lại đang nằm ở Viện Courtauld ở London.
Anna ngày càng lo lắng về mức độ nghiêm túc của Fenston trong việc giành bằng
được bức tranh này.
Anna đã có mười ngày vui vẻ ở
Lâu đài Wentworth. Trong thời gian đó, cô lập danh mục và thẩm định giá trị của
từng bức tranh trong bộ sưu tập. Khi quay trở lại New York, cô đã nói với ban
giám đốc - chủ yếu gồm toàn bạn chí thân của Fenston hoặc các chính trị gia có
quan hệ thân tình với ông ta - rằng bộ sưu tập đó thừa đủ để thế chấp cho một
khoản vay trị giá 30 triệu đôla.
Cho dù Anna không quan tâm
tới lý do tại sao Victoria Wentworth lại cần vay một khoản tiền lớn như vậy, cô
thường nghe Victoria nói về nỗi đau buồn của mình trước cái chết yểu của người
cha, sự từ chức của viên quản lý và nhiều chuyện khác. “Giá mà Arabella sinh
trước mấy phút có phải là tốt hơn không…” là câu nói mà Anna nghe thấy nhiều
nhất trong mười ngày cô sống ở Lâu đài Victoria Wentworth.
Trở về New York, Anna vẫn có thể nói rõ đến từng
chi tiết của mỗi bức tranh trong bộ sưu tập mà không cần phải nhìn vào bất cứ
tài liệu nào. Một khả năng thiên bẩm giúp cô luôn nổi bật so với chúng bạn tại
đại học Penn và các đồng nghiệp tại nhà đấu giá Sotheby là trí nhớ kiểu đồ hoạ
của cô. Một khi đã nhìn thấy một bức tranh nào đó, cô sẽ không bao giờ quên
những hình ảnh được thể hiện trong tranh cũng như vị trí và lai lịch của nó.
Vào các ngày chủ nhật thư nhàn, cô lại đem tài năng của mình ra thử bằng việc
tới thăm một phòng tranh mới hay đảo qua các bảo tàng. Khi trở về căn hộ của
mình, cô sẽ viết lại tên của tất cả những bức tranh mà cô đã ngắm, trước khi
kiểm tra lại trong các cuốn catalog. Kể từ khi tốt nghiệp đại học, Anna đã bổ
sung bảo tàng Louvre, bảo tàng Prado, bảo tàng Uffizi, Phòng tranh Quốc gia ở
Washington, bộ sưu tập Phillips và bảo tàng Getty vào ngân hàng trí nhớ của
mình. Ba mươi bẩy bộ sưu tập cá nhân và vô vàn các cuốn catalog cũng được lưu
trữ trong đầu cô, và đó chính là thứ tài sản mà vì nó Fenston sẵn sàng trả cô
một khoản tiền lương trên cả hậu hĩnh.
Trách nhiệm của Anna không
vượt quá việc kiểm định giá trị các bộ sưu tập cá nhân của các khách hàng tiềm
năng và viết báo cáo gửi lên ban giám đốc. Cô không bao giờ liên quan đến việc
soạn thảo bất cứ một hợp đồng nào. Tất cả chuyện đó được giao vào tay một người
duy nhất là Karl Leapman. Tuy nhiên, Victoria
đã tiết lộ với cô rằng ngân hàng Fenston Finance bắt bà ta phải trả một khoản
lãi kép là mười sáu phần trăm một năm. Anna nhanh chóng nhận ra rằng nợ nần, sự
cả tin, sự ngây thơ và sự non nớt trong lĩnh vực tài chính của người khác là
môi trường sống của Fenston Finance. Đây là một ngân hàng chỉ mong cho khách
hàng của mình không trả được nợ.
Anna chạy những bước dài hơn
khi qua khu đu quay. Cô liếc nhìn đồng hồ - quá mười hai giây. Cô chau mày,
nhưng ít nhất thì cũng không có ai vượt cô. Những suy nghĩ của cô lại quay trở
về với bộ sưu tập của gia đình Wentworth, và kiến nghị mà cô sẽ đưa ra với vị
chủ tịch vào sáng hôm đó. Anna đã quyết định là sẽ từ chức nếu vị chủ tịch cảm
thấy không thể chấp nhận lời khuyên của cô, bất chấp việc cô nhận thấy mình
không hề muốn quay trở lại làm việc cho Sotheby hay đầu quân cho Christie sau
khi đã từng làm việc cho Fenston Finance.
Trong suốt gần một năm làm
việc cho công ty của Fenston, cô đã học được cách sống chung với thói tự phụ
của ông ta, thậm chí đã quen với những cơn giận dữ bất thường của con người đó,
nhưng cô không thể tha thứ cho việc lừa dối khách hàng, đặc biệt là những khách
hàng ngây thơ như Phu nhân Wentworth. Rời bỏ Fenston Finance sau một thời gian
làm việc ngắn như vậy không tốt cho lý lịch của cô, nhưng một cuộc điều tra
gian lận hẳn sẽ tồi tệ hơn nhiều.
Chương 5
“Khi nào thì chúng ta sẽ biết
rằng bà ta đã chết?” Leapman nhấp một ngụm cà phê rồi hỏi.
“Tôi đang chờ sự khẳng định
chắc chắn vào sáng nay”, Fenston nói.
“Bởi vì tôi phải liên hệ với
luật sư của bà ta để nhắc ông ta rằng” ông ta dừng lại “khi có một cái chết
đáng ngờ nào đó” ông ta dừng lại lần thứ hai “mọi chuyện sẽ thuộc thẩm quyền
của Luật sư đoàn New York”.
“Lạ là không có ai trong bọn
họ thắc mắc về điều khoản đó trong hợp đồng”, Fenston vừa nói vừa cho một miếng
bánh xốp vào miệng.
“Tại sao họ lại phải thắc
mắc?” Leapman nói. “Suy cho cùng, họ làm sao biết được rằng mình sắp chết”.
“Và liệu cảnh sát có lý do gì
để nghi ngờ chúng ta có liên quan đến chuyện này hay không?”
“Không”, Leapman trả lời.
“Ngài chưa bao giờ gặp Victoria Wentworth, ngài không ký hợp đồng gốc, và ngài
cũng chưa từng thấy bức tranh”.
“Chẳng có ai ngoài gia đình
Wentworth và Petrescu”, Fenston nhắc. “Nhưng điều tôi vẫn muốn biết là còn bao
nhiêu thời gian trước khi tôi có thể”.
“Khó nói lắm, nhưng có lẽ
phải nhiều năm trước khi cảnh sát thừa nhận là họ thậm chí còn không biết phải
nghi cho ai, đặc biệt là trong những vụ liên quan tới các nhân vật nổi tiếng”.
“Vài năm là đủ”, Fenston nói. “Đến lúc đó, khoản tiền lãi đủ để tôi giữ lại
bức tranh của Van Gogh và bán hết các bức còn lại mà không hao mất một đồng vốn
nào”.
“May mà tôi đã đọc được báo cáo của Petrescu”, Leapman nói, “bởi vì nếu bà
ta nghe theo lời khuyên của cô ta, chúng ta sẽ chẳng thể làm gì”.
“Đúng thế”, Fenston nói, “nhưng bây giờ phải tìm cách rũ bỏ cô ta”.
Một nụ cười nửa miệng xuất hiện trên khuôn mặt của Leapman. “Dễ thôi”, ông
ta nói, “chúng ta sẽ tấn công vào điểm yếu của cô ta”.
“Đó là gì vậy?” Fenston hỏi.
“Sự trung thực”.
Arabella ngồi một mình trong phòng khách, hoàn toàn không biết đến những gì
đang diễn ra xung quanh mình. Chén trà
Earl Grey trên chiếc bàn bên cạnh bà đã nguội lạnh, nhưng bà không để ý đến
điều đó. Tiếng kêu duy nhất trong phòng là tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ
treo tường. Đối với Arabella, thời gian dường như đã dừng lại.
Một chiếc xe cứu thương và
vài chiếc xe cảnh sát đang đỗ trên đám sỏi trước đại sảnh. Mọi người đều vội vã
với công việc của mình, những con người mặc đồng phục, áo khoác trắng, complê
đen và thậm chí có người còn đeo cả mặt nạ, đến rồi đi mà không buồn để ý tới
bà.
Có tiếng gõ cửa nhẹ. Arabella
ngẩng lên và nhìn thấy một người bạn cũ đang đứng giữa cửa. Viên chánh thanh
tra cảnh sát bỏ chiếc mũ đồng phục ra rồi bước vào phòng. Arabella đứng dậy
khỏi ghế sô pha, đôi mắt đỏ ngầu, khuôn mặt tái nhợt. Người đàn ông cao lớn cúi
xuống và hôn nhẹ lên cả hai má bà, rồi đợi cho Arabella ngồi xuống trước khi
ông ta cũng ngồi xuống một chiếc ghế bọc da đối diện với bà. Stephen Renton đưa
ra những lời an ủi. Đó là những lời an ủi thực lòng. Ông ta đã quen biết với Victoria
trong nhiều năm.
Arabella cảm ơn ông ta, rồi ngồi thẳng người lên và hỏi khẽ, “Kẻ nào có thể
làm một chuyện khủng khiếp như vậy, đặc biệt lại là đối với một người hiền lành
như Victoria?”
“Dường như không có một câu trả lời đơn giản hay hợp lý cho câu hỏi đó”,
viên sỹ quan cảnh sát nói. “Và việc truy tìm thủ phạm càng khó khăn hơn khi
phải nhiều giờ sau xác chết mới được phát hiện. Kẻ sát nhân đã có đủ thời gian
để trốn thoát”. Ông ta dừng lại. “Bà có thể trả lời một vài câu hỏi được
không?”
Arabella gật đầu. “Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp ông tìm ra kẻ sát
nhân”. Bà ta nói lên cụm từkẻ sát nhânbằng một giọng thể
hiện sự căm hờn.
“Thông thường, câu hỏi đầu tiên của tôi trong các cuộc điều tra án mạng là
bà có biết chị gái của mình có kẻ thù hay không, nhưng tôi phải thú thật rằng
vì tôi biết quá rõ bà ấy nên tôi cho rằng chuyện bà ấy có kẻ thù là điều không
thể xảy ra. Nhưng tôi muốn hỏi là bà có biết rõ những vấn đề mà Victoria đang
phải đối mặt không, bởi vì” ông ta ngập ngừng “đã có nhiều lời đồn đại rằng từ
khi cụ nhà mất, bà ấy đã phải gánh chịu nhiều khoản nợ”.
“Tôi không biết có phải như vậy không”, Arabella nói. “Sau khi lấy Angus,
tôi chuyển đến sống ở Scotland và chúng tôi chỉ về thăm Lâu đài mỗi năm vài
tuần vào mùa hè, vào dịp Lễ giáng sinh thì hai năm một lần. Mãi đến khi ông nhà
tôi mất, tôi mới chuyển đến sống ở Surrey”, viên chánh thanh tra cảnh sát gật
đầu, nhưng không ngắt lời “và cũng nghe được những lời đồn đại đó. Người ta
thậm chí còn đồn rằng nhiều đồ đạc trong cửa hàng đồ cổ của tôi vốn là đồ gia
bảo, để Victoria có tiền trả cho nhân viên”.
“Và có chút sự thật nào trong những lời đồn ấy hay không?” Stephen hỏi.
“Không, chẳng có chút sự thật nào”, Arabella trả lời. “Khi Augus chết và
tôi bán trang trại của mình ở Perthshire, tôi có thừa tiền để quay trở về
Wentworth, mở một cửa hiệu nhỏ như mọi người thấy và biến một sở thích lâu nay
của tôi thành một thứ giúp tôi kiếm tiền. Nhưng đúng là thi thoảng tôi cũng hỏi
chị Victoria xem những lời đồn về tình hình tài chính của Cha có đúng hay
không. Chị ấy nói chẳng có gì đáng phải lo và luôn khẳng định mọi chuyện đều
trong vòng kiểm soát. Nhưng cũng không biết được, chị ấy rất ngưỡng mộ Cha, và
trong con mắt của chị ấy, Cha không thể mắc sai lầm”.
“Liệu bà có thể nghĩ đến bất cứ điều gì có thể giúp tìm ra đầu mối…”
Arabella đứng dậy khỏi ghế sô pha, rồi không giải thích gì mà đi thẳng tới
chiếc bàn làm việc ở góc phòng phía xa. Bà cầm bức thư dính đầy những vết máu
được tìm thấy trên bàn làm việc của Victoria lên, quay trở lại chỗ ngồi của
mình và đưa nó cho Stephen Renton.
Viên chánh thanh tra cảnh sát đọc bức thư đang viết dở giữa chừng đó hai
lần trước khi hỏi, “Bà có hiểu Victoria định nói gì trong câu“một giải
pháp đã được tìm ra”hay không?”
“Không”, Arabella thừa nhận, “nhưng có thể tôi sẽ trả lời được câu hỏi này
nếu tôi nói chuyện với Arnold Simpson”.
“Tôi không dám tin là như vậy”, Stephen nói.
Arabella không trả lời. Bà ta biết bản năng của một chánh thanh tra cảnh
sát nhắc nhở ông ta phải nghi ngờ tất cả các luật sư, những người không thể che
dấu được việc họ luôn cho rằng mình ăn đứt bất kỳ một sỹ quan cảnh sát nào.
Viên chánh thanh tra cảnh sát đứng dậy, bước vòng qua bàn lại gần Arabella
và ngồi xuống cạnh bà ta. Stephen cầm tay Arabella rồi nhẹ nhàng nói, “Gọi cho
tôi bất cứ khi nào bà cần. Đừng giữ bí mật với tôi, bởi vì tôi cần biết mọi thứ
và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để tìm ra thủ phạm đã sát hại chị gái của
bà”.
“Chết tiệt”, Anna chửi thầm khi một người đàn ông có mái tóc màu đen và
dáng thể thao chạy vượt qua cô, giống như anh ta đã làm như vậy vài lần trong
mấy tuần vừa qua. Anh ta không ngoảnh lại
nhìn - những người chạy nghiêm túc không bao giờ nhìn lại kẻ chạy sau mình.
Anna biết mình sẽ chẳng thể nào đuổi kịp anh ta, bởi vì nếu cố thì chỉ trong
vòng 100 yard nữa, cô sẽ bị “rụng chân”. Đã có lần cô thoáng nhìn thấy khuôn
mặt của tay cao thủ này, nhưng rồi anh ta lướt qua và tất cả những gì cô có thể
thấy rõ là lưng chiếc áo phông màu xanh của anh ta trong khi anh ta tiếp tục
chạy về phía Strawberry Fields. Anna cố gạt bỏ hình ảnh anh ta ra khỏi đầu và
lại tập trung suy nghĩ về cuộc gặp sắp tới với Fenston.
Anna đã gửi bản sao báo cáo
của mình tới văn phòng của chủ tịch công ty, trong đó cô đề nghị ngân hàng nên
bán bức chân dung càng nhanh càng tốt. Cô biết một nhà sưu tầm ở Tokyo rất say mê tranh của
Van Gogh và có rất nhiều tiền để theo đuổi thú sưu tầm của mình. Và với bức
tranh đó, cô còn phát hiện ra một điểm nữa có thể lợi dụng mà cô đã trình bày
rõ trong báo cáo của mình. Van Gogh luôn ngưỡng mộ nền hội hoạ của Nhật Bản, và
ở mặt sau tấm chân dung, ông đã vẽ lại bức tranhNàng Geishasngắm
cảnh, điều mà Anna cho rằng sẽ khiến cho bức tranh càng trở nên hấp dẫn đối với
Takashi Nakamura.
Nakamura là chủ tịch công ty
thép lớn nhất ở Nhật Bản, nhưng gần đây ông ta đã dành rất nhiều thời gian để
xây dựng bộ sưu tập nghệ thuật của mình. Ông ta đã phao lên rằng bộ sưu tập ấy
sẽ là một phần của một quỹ mà cuối cùng ông ta sẽ hiến cho Nhà nước. Anna cũng
cho rằng việc Nakamura là một con người đặc biệt kín đáo cũng là một lợi thế.
Ông ta luôn giữ kín những chi tiết về bộ sưu tập của mình với kiểu cẩn thận
điển hình của người Nhật Bản. Một vụ mua bán như vậy sẽ giúp Victoria Wentworth
giữ thể diện – một điều mà người Nhật Bản luôn hiểu rõ. Anna đã từng có lần mua
được một tác phẩm của Degas có tên làLớp khiêu vũ của quý bà Minette.
Trong vụ mua bán đó, người bán muốn được giữ bí mật và những nhà đấu giá lớn
thường có sẵn dịch vụ như vậy dành riêng cho những người muốn tránh những cặp
mắt tò mò của cánh nhà báo luôn đeo bám tại các phòng bán tranh. Cô hoàn toàn
tin rằng Nakamura sẵn sàng bỏ ra ít nhất là 60 triệu đôla để có được bức tranh
quý của hoạ sỹ bậc thầy người Hà Lan này. Vì vậy nếu Fenston chấp nhận đề nghị
của cô – tại sao lại không? – mọi người đều sẽ hài lòng với kết quả mà điều đó
đem lại.
Khi Anna chạy qua quán Tavern
ở khu Green, cô lại liếc nhìn đồng hồ. Cô sẽ phải tăng tốc nếu cô vẫn hy vọng
quay trở lại Artisan’s Gate trong vòng mười hai phút. Khi cô tăng tốc chạy
xuống chân đồi, cô nghĩ đến chuyện nhẽ ra cô không nên để cho tình cảm cá nhân
của một khách hàng làm ảnh hưởng đến nhận định của mình. Nhưng thành thật mà
nói, Victoria
cần phải được giúp đỡ. Khi Anna chạy qua Artisan’s Gate, cô bấm vào nút dừng
trên chiếc đồng hồ của mình: 12 phút 4 giây. “Chết tiệt!”.
Anna chạy chầm chậm theo
hướng về nhà mà không biết rằng mình đang bị người đàn ông mặc áo phông xanh
bám theo sát gót.