Lửa thiêu rừng hạnh - Chương 10 - Phần 3
Tiếng cò kêu trong đêm khuya thanh vắng đã minh chứng đêm đó ở đây ắt phải có tiếng động đặc biệt.
Nhiếp Phong lập tức gọi điện thoại cho Tiểu Xuyên, anh xin được số điện thoại của cục trưởng Ngũ, tiếp đó anh liên lạc với vị cục trưởng công an giàu kinh nghiệm này.
“Cục trưởng Ngũ! Tôi là Nhiếp Phong”.
“Ồ, nhà báo Nhiếp đó hả?”. Cục trưởng Ngũ lên tiếng, giọng nói có chút ngái ngủ
“Đêm hôm khuya khuắt thế này đánh thức sếp dậy thật ngại quá. Tôi có một số việc quan trọng muốn báo cáo”.
“Cậu nói đi”. Cục trưởng Ngũ hết sức thoải mái.
“Việc phát đoán Tiểu Mai Sa là ‘hiện trường đầu tiên’ mắc phải sai lầm, theo suy luận của tôi chuyện đó sự thật là...”.
“Sự thật là gì?”.
“Đinh Lam có một chiếc ô tô nhãn hiệu Fukang màu trắng”.
“Fukang màu trắng?”. Cục trưởng Ngũ lẩm nhẩm trong miệng.
“Đúng!”. Nhiếp Phong nhấn mạnh, có phần khẳng định chắc chắn “Cho nên vị trí hiện trường đầu tiên phải là trong phạm vi trên dưới năm đến bảy phút lái xe! Tôi đã làm qua thực nghiệm từ vườn nướng đi bộ đến vườn ươm phía đông bãi biển, sau do vượt qua bức tường đê ra ngoài khách sạn Tiểu Mai Sa mất khoảng năm phút, quay ngược trở lại cả đi và về mất mười phút. Giả thiết đến vị trí tìm thấy xác Hồ Quốc Hào hết năm phút thì vẫn còn thừa mười phút, đó là khi sử dụng phương tiện xe ô tô... Nếu như từ hướng con đường “lối nhỏ tình yêu” vượt qua hàng rào trung tâm du lịch chỉ cần có ba phút cả đi và về vị chi sáu phút, cộng thêm thời gian di chuyển xác Hồ Quốc Hào năm phút. Nếu dùng ô tô cả đi lẫn về có thể dưới mười bốn phút, đi một chiều thì mất khoảng bảy phút”.
“Hành trình di chuyển bằng xe hơi mất từ năm đến bảy phút. Nói như vậy vị trí hiện trường đầu tiên sẽ phải xa hơn?”.
“Đúng ạ! Phạm vi này bao gồm cả những vùng trước đây ta coi nhẹ...”.
“Là Đại Mai Sa?”. Cục trưởng Ngũ sửng sốt thốt lên.
“Vâng, chính là Đại Mai Sa”. Nhiếp Phong thêm lần nữa khẳng định.
“Rất cảm ơn cậu, nhà báo Nhiếp!”.
Cục trưởng Ngũ vui mừng hiểu ra.
Hiện trường đầu tiên đó chính là Đại Mai Sa.
*
* *
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cục trưởng Ngũ, cục công an khu Y lần thứ hai triển khai điều tra trên diện rộng.
Giữa Đại Mai Sa và Tiểu Mai Sa được ngăn cách bởi dãy núi Hoãn Khâu nhấp nhô. Khoảng cách giữa hai nơi chừng sáu, bảy kilômét, phạm vi hành trình bằng xe hơi từ Tiểu Mai Sa theo hướng tây khoảng năm đến bảy phút, có thể đến phạm vi toàn bộ vùng đông Đại Mai Sa bao gồm bãi tắm phía đông, làng nghỉ mát Đại Mai Sa, nhà hàng Hải Châu, khách sạn Mai Sa, phòng khám đa khoa, chợ Mai Sa. Ngoài ra còn có hai khu dân cư là thôn Thượng Bình và thôn Thành Khanh. Dân số ở hai thôn không nhiều chỉ cỡ vài chục nóc nhà.
Đội trưởng Thôi dẫn đội hình sự phân ra thành nhiều nhóm nhỏ kiểm tra khắp hiện trường, đi kèm là các chú chó nghiệp vụ tinh khôn. Để chắc chắn phạm vi rà soát trên thực tế còn vượt quá hành trình bảy phút đi bằng xe hơi. Cảnh sát khu vực của sở công an cũng được huy động để phối hợp truy tìm.
Bên cạnh nhà hàng Minh Châu là một nhà trọ cao tầng sơn màu trắng, phía đằng sau có hai ngôi nhà nhỏ trần rất thấp, tường ốp gạch tráng men, tường bao bên ngoài cũng thấp, điển hình phong cách nhà ở của cư dân vùng Quảng Đông.
Qua nơi đó, họ phát hiện một ngôi nhà thờ tổ, phía trước cũng trồng một cây đa rất to, dưới gốc cây đặt một chiếc bàn tròn và tám chiếc đôn bằng đá. Tường ốp gạch men vàng, mái lợp ngói lưu ly. Từ cửa nhìn vào nó giống như một giếng trời nhỏ xíu, bên trái đắp nổi dòng chữ “Phúc Lộc Thọ Hỉ”, phía bên phải “Ngô Phúc Cộng Thọ”.
Nằm phía sau nhà thờ tổ là sáu, bảy gian nhà cũ nát, tất cả đều lợp ngói màu xanh hình vẩy cá, cửa gỗ cũ kỹ, tường nhà tróc vữa nham nhở, có lẽ đã rất lâu rồi không được tu sửa. Phía trước cửa không đề biển hiệu, chỉ có dòng chữ, số sơn màu đỏ nhem nhuốc “Cho thuê tạm, số 13”. Ba gian cuối cùng bên phải san sát nhau. Đội trưởng Thôi dẫn nhóm của mình đến đó, anh như có một dự cảm đặc biệt, khung cảnh hoang tàn đổ nát không dấu chân người, bốn phía đều thấp thoáng không khí mờ ám thật là nơi lý tưởng cho các hoạt động phạm pháp.
Cảnh sát kiểm tra từng gian nhà, đến gian cuối cùng cửa đã bị khóa chặt.
Người cảnh sát khu vực trong nhóm đi tìm chủ nhà, đó là một phụ nữ hơn sáu mươi tuổi, mí mắt sùm sụp, mái tóc cắt ngắn điểm nhiều sợi bạc.
Đội trưởng Thôi hỏi.
“Bà là chủ nhân gian nhà này?”.
“Vâng...”. Người phụ nữ luống tuổi gật đầu.
Anh bảo bà ta mở cửa, gian phòng tối om, nền nhà bụi bặm ẩm mốc, bên phải bức tường gạch nung ngăn ra thành một không gian nhỏ, cảm giác thật lạnh lẽo, tường trát vôi, góc trong đắp kệ bếp bằng đất, nằm trên là chiếc lò than, sát đó là hộp chứa than, cạnh cửa ra vào để thùng, chai nhựa và vài thứ lặt vặt khác.
Bậc thềm một cấp bằng đá, ngay bên vòi nước, mặt đất ẩm thấp mọc đầy rêu.
Chạy dọc cả dãy nhà cũ là một cái sân lát đá chiều rộng cỡ ba, bốn mét, việc đỗ xe ở đây không khó.
“Gian nhà này tháng trước có ai thuê không?”. Đội trưởng Thôi hỏi bà chủ.
“Có ạ, là một người phụ nữ”.
“Tên của người đó là gì?”.
“Cô ấy nói tên là Ngô Lệ, khoảng bốn mươi tuổi”.
Tiểu Xuyên lấy ra vài tấm ảnh, đưa cho bà chủ nhà.
Lật qua từng bức ảnh bà ta chỉ vào tấm ảnh chụp Đinh Lam.
“Ngô Lệ? Bà có kiểm tra chứng minh thư không?”.
“Chúng tôi chỉ cho thuê tạm thời nên tất cả đều không hỏi chứng minh thư làm gì”. Bà chủ thành thật đáp.
Đội trưởng Thôi nhướn mắt nghiêm khắc nhìn anh cảnh sát khu vực, anh ta có vẻ ngượng ngùng. Rõ ràng việc quản lý địa bàn ở đây rất lỏng lẻo. Người cho thuê nhà chỉ cần thu được tiền chứ không cần kiểm tra đó là ai, từ đâu đến, cũng không thông báo cho đồn cảnh sát.
“Chị ta thuê gian nhà này từ bao giờ?”.
“Đầu tháng trước ạ, dường như là cuối tuần. Tôi nghĩ... khoảng trước đó hai, ba ngày gì đấy. Chị ta nói là thuê cho hai người lao động ở cùng quê, trước tiên cứ thuê một tháng, đã đặt cọc ba trăm tệ”.
“Sau này gian nhà có ai đến ở không?”.
“Tôi không rõ”.
“Cho thuê phòng mà không quản lý hả?”. Anh cảnh sát khu vực bực bội trách.
“Chúng tôi không tiện hỏi việc riêng cá nhân người đến thuê”.
“Chị Ngô Lệ trả phòng từ khi nào?”.
“Cuối tháng trước đã trả phòng rồi ạ”.
“Hiện tại vẫn chưa có ai thuê mới chứ?”.
“Không có ai ạ!”.
Hiện trường ngay lập tức được phong tỏa, cảnh sát kiểm tra tỉ mỉ toàn bộ gian nhà, một cây sào tre bắc ngang gian phòng trên đó treo vài chiếc khăn len bẩn. Dựa vào bức tường bên phải là cầu thang gỗ không có tay vịn, leo lên trên cảm thấy nó rất ọp ẹp, đó là một gác xép nhỏ, dường như là nơi để ngủ, phía trên lợp ngói cũ tránh mưa, ánh sáng trong gian xép rất ít, vật dụng sơ sài song rất sạch sẽ. Đồ đạc chỉ có một chiếc giường, một chiếc bàn, hai cái ghế tựa, nền lát vật liệu phổ thông. Tiểu Xuyên lật thang giường lên phát hiện một chiếc can nhựa, dung tích hai mươi lăm lít, bên trong vẫn còn gần nửa thùng dung dịch chất lỏng đục ngàu chuyển sang màu đen xì, mùi rất tanh.
Đội trưởng Thôi bấm điện thoại, chưa đầy vài phút hai trinh sát mặc cảnh phục bước vào. Đội trưởng chỉ thị: “Đây là nơi có rất nhiều vật chứng quan trọng, các cậu hãy lấy mẫu đi”.
Hai người đó đeo găng tay, một người lấy máy ảnh chụp mọi góc độ, người kia mở chiếc hộp sắt mang theo, đó là hộp chứa bột lấy dấu vân tay. Sau đó anh cầm chiếc chổi lông cẩn thân chấm vào bột phết lên tay nắm cửa, cạnh bàn và chiếc can nhựa để lấy dấu vân tay.
Tiểu Xuyên tỉ mỉ lục soát khắp gian nhà, đằng sau cửa sổ cậu tìm thấy một búi băng dính màu vàng, kiểm tra dấu vân tay còn lưu lại là vân tay ngón cái. Can nhựa và tất cả vật chứng quan trọng đều được chuyển đến cục công an khu Y.
Buổi sáng ngày thứ hai, phòng kỹ thuật đã có kết quả dấu vân tay trên các vật chứng đưa về. Dấu vân tay trên tay nắm cửa, trên thành giường và đồ gia dụng xung quanh hết sức hỗn tạp không thể đưa ra kết luận chính xác. Trên chiếc can nhựa màu trắng lấy được hai dấu vân tay rõ nét, một ở ngón chỏ, một ở ngón cái so sánh với dấu vân tay lưu lại trên búi băng dính là cùng của một người. Đối chiếu dấu vân tay Chung Đào hoàn toàn trùng khớp.
Tất cả mọi người đều phấn chấn hẳn lên.
Trải qua một tháng mất ăn mất ngủ vất vả khổ cực truy lùng dấu vết, cuối cùng cũng tóm được vật chứng. Sự vui mừng hoan hỉ của mọi người cũng là điều dễ hiểu.
Thế nhưng dung dịch chứa trong chiếc can nhựa khi đem đi hóa nghiệm chỉ thu được kết quả là nước biển có nồng độ mặn cao, hoàn toàn không tìm thấy tảo xi câu, tảo hoàn câu, tảo đa giáp hay bất cứ thành phần tảo nào. Thành phần ba loại tảo đó là vật chứng cực kỳ quan trọng.
Tiểu Xuyên và Đào Lợi lại được giao nhiệm vụ đi Quảng Châu nhờ các chuyên gia của trung tâm giám định môi trường Nam Hải giúp đỡ.
Khi đi họ mang theo dung dịch mẫu vật, dưới kính hiển vi siêu cấp chỉ nhìn thấy một mớ hỗn độn và các mảnh vụn.
Chủ nhiệm trung tâm giải thích cho hai người rõ, tuổi thọ của tảo giáp rất ngắn, thông thường chỉ có vài giờ đồng hồ là một thế hệ mới ra đời. Cho nên còn gọi là sinh sản bạo phát. Trong điều kiện môi trường thuận lợi cũng chỉ sống được tối đa hai ngày. Trong can nhựa thiếu không khí và ánh sáng, tảo giáp chết càng nhanh. Sau một, hai ngày từ khi tảo chết, dưới kính hiển vi siêu cấp vẫn có thể nhìn rõ. Song nếu để lâu hơn, các tổ chức tế bào sẽ bị phá vỡ biến thành các mảnh vụn, không thể nhìn rõ, cho nên không thể phân biệt được.
Tiểu Xuyên và Đào Lợi ra về mang theo nỗi thất vọng và sự bất lực.
Đội trưởng Thôi cũng có cảm giác khó khăn. Tuy chỉ là lỡ một bước nhỏ song ảnh hưởng cực kỳ lớn tới công sức bao ngày của mọi người, việc phá án tưởng chừng như sắp đi đến thắng lợi cuối cùng lại dễ đổ xuống sông xuống biển, quả là đắp một ngọn núi chỉ có thiếu sọt đất mà không thể hoàn thành.
Nếu xét nghiệm được dung dịch trong chiếc can nhựa là nước biển chứa tảo ở Nam Áo thì sẽ chứng minh được căn phòng này là hiện trường đầu tiên nơi Hồ Quốc Hào bị ám hại. Trên búi băng dính màu vàng phát hiện một vệt hình dấu môi, rất có thể đây là vật bịt miệng Hồ Quốc Hào. Song hiện nay thi hài Hồ Quốc Hào đã bị hỏa thiêu. Dấu môi in trên đó có phải là của ông ta hay không không thể kiểm chứng được. Ngoài ra trong đó không hề phát hiện bất cứ dấu vết nào của Hồ Quốc Hào (bao gồm điện thoại di động, quần áo, dấu vân tay...). Chung Đào và Đinh Lam có thể hoàn toàn phủ nhận, cùng lắm là thừa nhận hai người thuê phòng để quan hệ tình cảm riêng tư.
Cuối cùng cục trưởng Ngũ quyết định: “Lập tức giám sát mọi hành động của Chung Đào và Đinh Lam”.
5
Viện bảo tàng Tam Tinh.
Trong phòng triển lãm trang trí thật rực rỡ, nơi đây tập trung đông đảo các học giả nổi tiếng. Một chiếc mặt nạ cực lớn bằng đồng xanh được đặt ở tủ kính trưng bày, cô hướng dẫn viên bảo tàng nhiệt tình giới thiệu với mọi người: “Đây là chiếc mặt nạ bằng đồng xanh nổi tiếng, nó còn được gọi là mặt nạ ánh sáng mặt trời, rộng một mét ba mươi tám, cao sáu mươi lăm centimét, có thể coi là chiếc mặt nạ nổi tiếng nhất thế giới. Xin quý vị hãy nhìn vào đây, mắt của nó lồi hẳn lên. Đó chính là biểu tượng của nhà Thục cổ(*). Trong văn giáp cốt của chữ “Thục”, phía trên chỉ có một con mắt lớn...”.
(*) Nhà Thục trong thời kỳ Tam quốc, là tỉnh Tứ Xuyên hiện nay.
Những người tham quan và các học giả thích thú lắng nghe, có người cười thầm trong bụng. Chiếc mặt nạ đó có gì đó giống hình cái thớt lớn. Miệng rộng ngoác, mắt lồi, mũi cao, đôi tai hệt như cặp binh khí phương thiên họa kích. Tất cả tạo nên một hình thù kỳ dị lạ mắt, lại có vẻ thần bí khó đoán khiến cho người ta phải bàn tán không dứt.
Nhiếp Phong đeo trước ngực tấm thẻ đại biểu hội nghị, anh đứng phía sau đoàn người tham quan, dường như tai lắng nghe người hướng dẫn giải thích song có chút gì đó bồn chồn, chốc chốc lại đưa tay lên xem đồng hồ.
Anh đang chờ đợi tin tức cuộc bủa lưới của cảnh sát cách xa đây cả nghìn kilômét.
Bốn giờ mười lăm phút chiều, máy điện thoại di động của Nhiếp Phong rung lên, là Tiểu Xuyên gọi cho anh, anh vội vã bước ra khỏi phòng triển lãm nghe điện thoại.
Cậu cảnh sát trẻ báo tin vui: “Anh Nhiếp ạ, có tin rất vui, dựa trên suy đoán của anh, tại mấy gian nhà cho thuê ở Đại Mai Sa cuối cùng bọn em cũng tìm thấy cái tổ “tò vò” gây án của Chung Đào và Đinh Lam. Rất có thể đây là “hiện trường đầu tiên” nơi Hồ Quốc Hào vong mạng”.
“Quả nhiên đúng như mình suy luận”. Nhiếp Phong cũng không giấu được niềm hưng phấn.
“Cực kỳ chính xác, bọn em đang thừa thắng xông lên. Anh Nhiếp, anh thật là quá giỏi”.
Qua điện thoại Tiểu Xuyên đã tiết lộ kết quả quá trình truy lùng dấu vết.
Việc phát hiện ra chiếc can chứa nước biển hoàn toàn không làm Nhiếp Phong bất ngờ. Anh chỉ có chút không hiểu vì sao Chung Đào lại để dấu vân tay lưu trên chiếc can nhựa? Kế hoạch gây án rất hoàn hảo cho thấy hung thủ là người vô cùng thông minh. Mỗi nước đi đều có tính toán cẩn trọng, hoàn toàn là kẻ tội phạm có trí thức. Anh ta nhất thời sơ suất hay không có đủ thời gian xóa dấu vết hoặc còn nguyên nhân nào khác nữa?
Nhiếp Phong hỏi Tiểu Xuyên: “Tại hiện trường không tìm thấy dấu vân tay Hồ Quốc Hào?”.
“Đúng ạ! Bên ngoài cửa sổ em phát hiện một búi băng dính màu vàng, trên đó cũng chỉ có duy nhất dấu vân tay Chung Đào”.
“Ồ, vậy có tìm thấy quần áo của Hồ Quốc Hào không?”.
“Cũng không thấy”.
“Xem ra hiện trường đã được xử lý một cách rất sạch sẽ...”. Anh lẩm bẩm trong miệng.
Buổi chiều cùng ngày, Nhiếp Phong hoàn thành chuyến phỏng vấn, chỉnh lý lại một chút tài liệu, ngay tối hôm đó anh quay về Thành Đô.
Từ Quảng Hán về Thành Đô theo đường cao tốc khoảng ba mươi tám kilômét, chừng nửa giờ xe chạy là đến nơi. Nhiếp Phong ngả người ra hàng ghế sau nhắm nghiền đôi mắt, sau giây phút hưng phấn giờ anh lại trầm tư.
Cảnh sắc về đêm, những cánh đồng mầu vàng xanh hai bên đường hòa vào nhau vùn vụt lướt qua.
Một tháng đã trôi đi, tất cả mọi việc ly kỳ như vừa mới diễn ra hôm qua.
Trong đầu Nhiếp Phong mường tượng ra kế hoạch và phương thức thực hiện cực kỳ tỉ mỉ của đối tượng gây án.
Buổi tối ngày hai mươi tư tháng sáu từ mười một giờ năm phút đến mười một giờ ba mươi phút, Chung Đào và Đinh Lam phối hợp cùng nhau hành động.
Mười một giờ mười phút, hai người bọn họ vượt qua bức tường thấp khu tắm phía đông để đến bãi đỗ xe của khách sạn Tiểu Mai Sa. Sau khi lái chiếc Fukang đến gian nhà đã thuê sẵn mất năm phút, tức là mười một giờ mười lăm phút.
Trong năm phút ấy, Đinh Lam đã giúp Chung Đào di chuyển thân hình bị ngấm thuốc ngủ của Hồ Quốc Hào vào gian nhà thuê, sau khi xử lý xong Hồ Quốc Hào, mười một giờ hai mươi lăm phút họ lái xe quay trở lại bãi đỗ xe và đi theo con đường cũ trở về.
Khi Chung Đào và Đinh Lam quay trở lại vườn nướng là đúng mười một rưỡi.
Ba giờ sáng Chung Đào nhẹ nhàng mở cửa phòng trọ bước ra lại đi theo tuyến đường cũ, vượt qua bức tường thấp lên xe đến Đại Mai Sa. Trong bóng đêm, cái xác Hồ Quốc Hào được đưa lên xe đi theo con đường “lối nhỏ tình yêu”, lên đến đỉnh tới đường quốc lộ, anh ta bật đèn pha, thi thể Hồ Quốc Hào được hạ xuống, vượt qua hàng rào lưới, theo những bậc thang bằng đá, cuối cùng cái xác được vứt lại một góc của bãi biển Tiểu Mai Sa. Khi vượt qua hàng rào lưới đã gây tiếng động khiến cho những con cò đậu trên cây đa cổ thụ giật mình dáo dác kêu lên.
Hồ Quốc Hào đã bị dìm chết trong thứ nước biển mà anh ta lấy từ Nam Áo vận chuyển bằng xe hơi đến từ trước.
Nhưng, vì sao Chung Đào lại muốn giết chết Hồ Quốc Hào?
Động cơ gây án của Chung Đào là gì?
Tất cả những điều đó vẫn còn nằm trong bóng tối.
Nhiếp Phong cảm thấy mình phải đi Vân Nam một chuyến, ngồi trên xe anh lấy máy di động gọi cho tổng biên tập Ngô theo số nhà riêng: “Anh Ngô ạ, công việc phỏng vấn ở Tam Tinh em đã hoàn thành rồi!”.
“Ồ nhanh vậy à!”. Tổng biên tập rất hài lòng.
“Anh cho em xin nghỉ ba ngày”. Nhiếp Phong dừng lại một lát “Em có công chuyện phải đi Vân Nam”.
“Đi Vân Nam? Đến đó ngắm cảnh thật tuyệt”.
“Không ạ”.
“Nếu không thì đến hồ Lô Cô cướp vợ hả?”. Sếp Ngô bật cười nói

