Lửa thiêu rừng hạnh - Chương 06 - Phần 2
Khuôn mặt Nhiếp Phong hiện lên vẻ suy tư.
Tiểu Mai Sa ẩn chứa những câu hỏi thần bí, sóng đánh lên cát để lại tia bọt trắng xóa lúc xa lúc gần.
Nhiếp Phong lại đăm chiêu suy nghĩ đến nhật trình ngày hai mươi tư tháng sáu xoay quanh ba người Hồ Quốc Hào, Hồng Diệc Minh, Chung Đào. Ba người đó đồng thời xuất hiện tại Đại, Tiểu Mai Sa. Điều ấy liệu có mối liên hệ gì nhỉ?
Ngoài những người đó ra còn có Châu Chính Hưng cũng đúng lúc có mặt ở biển Nam Áo. Nhiếp Phong tiếp tục kiểm tra khu phía tây của bãi biển - vườn nướng, quãng chiều tối vườn nướng nghìn người đã đông nghịt khách không còn lấy một chỗ trống. Ở một góc nhỏ có một nhóm chừng bảy, tám người bạn thân thiết đang ngồi quây quanh lò nướng nói cười, ánh lửa bập bùng soi rõ từng khuôn mặt rạng rỡ, hương vị cá nướng, thịt nướng lan tỏa khắp nơi. Nhiếp Phong đứng lặng ở đó một lúc, không biết tại sao anh lại có cảm giác không giống như lần đến trước. Lần trước nhìn những chiếc lò nướng anh thấy nó giống như khối ru bích đầy màu sắc, nhìn vào lần này lại thấy nó giống trận đồ bát quái của Gia Cát Lượng.
Trong lòng anh dấy lên mối nghi ngờ: Vì sao Chung Đào lại không tổ chức tiệc tùng với bạn bè ở Đại Mai Sa mà lại lựa chọn Tiểu Mai Sa? Đại Mai Sa cũng có vườn nướng rất tuyệt không thua kém nơi đây giá cả cũng tương đương. Hơn nữa ở đó không khí và độ náo nhiệt còn sôi động hơn nhiều.
Trời tối dần, Nhiếp Phong bỏ ra tám mươi tệ để thuê một chiếc lều có đỉnh hai màu vàng xanh (Giá cả cũng tương đương với ở nhà khách cơ quan). Nằm một mình trong căn lều anh ngắm nhìn màu biển đen thẫm, phía xa xa có ánh đèn câu mực lập lòe, nghe tiếng sóng vỗ bờ trong lòng anh tự nhiên trào lên cảm xúc không yên.
Vào nửa đêm trời đổ mưa nhỏ, tiếp đó là trận mưa rào như trút nước. Hai năm về trước Nhiếp Phong theo đoàn báo chí truyền thông đi khảo sát ở Thái Lan. Trên thực tế cũng là một chuyến tham quan tập thể, lúc ấy anh đang làm cho một tờ báo buổi chiều. Dẫn đầu đoàn khảo sát là tổng biên tập Ngô của báo “Tây Bộ Dương Quang”, ông có dáng người béo lùn, tính tình phóng khoáng. Nhớ lại lần tắm biển ở Pattaya Thái Lan, chớp giật sấm nổ cơn mưa đến bất chợt. Mấy phóng viên trẻ ngâm mình trong nước biển, chỉ thò mỗi chỏm đầu lên trên sóng, vừa có chút liều lĩnh thử thách vừa rất đã. Nhiếp Phong đã viết tùy bút “Đêm rung động lòng người ở Pattaya”, sau này bài tùy bút đó giành được giải thưởng báo chí, khi về nước không lâu tổng biên tập Ngô mời anh về làm việc cho ông. Lần đó cũng có thể coi là kỷ niệm khó quên, cũng giống như đêm mưa gió bão bùng hôm nay, căn lều Nhiếp Phong thuê không chịu được mưa lớn gió mạnh, nước tạt cả vào trong lều, gió thổi nó lắc lư chao đảo, phải cố kiên trì bám trụ thôi.
Trong thời tiết như thế này vẫn có người dám vượt sóng đùa nước ư? Không thể.
Hồ Quốc Hào càng không phải là kẻ thích đùa giỡn với mạng sống của mình.
Sau giờ Ngọ, tới hai giờ đêm mưa vẫn không ngừng, số tiền mang theo còn rất ít không thể đủ để thuê phòng, anh lại không mang ô, đành làm anh hùng hảo hán giữ thành vậy. Nhiếp Phong mặc chiếc quần cộc mỏng dính, mình để trần, anh vẫn còn một chiếc quần nữa chưa dùng đến nhưng chiếc áo phông và quần cộc đó đều đã bị ướt, chiếc mũ bóng chày màu trắng đục treo trên chiếc cột sắt bên ngoài lều, toàn thân anh sũng nước, nước mưa và mồ hôi chảy thành dòng mang theo vị mặn mòi của biển cả. Đành cứ ngồi hẳn trong lều ngắm mưa trên biển, tai nghe tiếng mưa rớt lộp bộp xuống mái lều, cảm giác thật giống như kỳ học môn quân sự ở trường đại học.
Gắng gượng tới ba giờ sáng, người lạnh cóng cộng thêm mỏi mệt, Nhiếp Phong hai tay bó ngối thiếp đi mơ màng. Trên mình chỉ còn sáu mươi tệ, số tiền đó không đủ thuê phòng, cũng chẳng đủ mua lấy chiếc khăn len hay khăn tắm, lòng anh thầm nhủ sau này chẳng bao giờ dám thuê lều nữa. Khó nhọc kéo lê đôi giày thể thao, trên mình chỉ mặc độc chiếc quần bơi, khoác trên vai chiếc áo phông màu đen đẫm nước mưa, đầu đội mũ ướt, Nhiếp Phong tìm đến quán trà Vui Vẻ nằm sát biển ngồi đợi trời sáng. Ở đó đã có khá nhiều du khách đến để tránh mưa. Cứ ba, năm người tụ lại một chỗ, cũng có vài vị hảo hán giống hệt Nhiếp Phong người ướt như chuột lột, họ nói chuyện huyên thuyên với nhau.
Có lẽ cơn mưa đêm nay là ý trời. Đám nhân viên phục vụ quán trà nói rằng đêm trên bãi biển chẳng có gì kỳ bí cả. Vô tình Nhiếp Phong nghe được một du khách đến từ Hồ Bắc trú mưa ở đó kể lại, cuối tuần trước anh ta đưa mấy người bạn thân đến đây, cùng thuê lều để ở, khoảng nửa đêm anh ta dậy đi giải chợt nghe thấy có tiếng chim đập cánh kêu loạn lên từ phía con đường “lối nhỏ tình yêu” vọng lại. Thanh âm dáo dác. Dường như có gì đó đánh thức chúng. Anh ta không mấy để tâm, vội chui vào lều đóng cửa lại ngủ tiếp.
Người phục vụ giải thích: “Trên con đường ‘lối nhỏ tình yêu’ có một cây đa cổ thụ, trên đó có nhiều tổ chim”.
Đôi mắt Nhiếp Phong bừng sáng: “Là cò!”.
Anh hỏi người đó: “Cuối tuần trước có phải là đêm ngày hai mươi tư không nhỉ?”.
“Đúng rồi!”.
Một người khách to béo thêm lời: “Buổi sáng thứ hai tuần trước, phát hiện có xác chết đuối ở cầu tàu, xe cảnh sát đỗ đầy ở đấy”.
Đợi khi mặt trời vừa ló rạng, Nhiếp Phong mặc chiếc áo sơ mi vẫn còn ẩm, thay quần bơi, anh rảo bước đến con đường “lối nhỏ tình yêu”. Kết quả là đã phát hiện được một đầu mối quan trọng mà lần trước không mấy để ý tới.
3
Bóng chiều chạng vạng, tại quán cà phê Mi Lan.
Đây là quán cà phê mang phong cách riêng biệt, nằm sau lưng một nhà hàng McDonald giữa Thâm Quyến phồn hoa náo nhiệt. Tuy quán nằm ở khu vực khá tĩnh lặng song người biết đến nó không phải là ít. Có lẽ do thích hương vị thuần chất cổ truyền, không gian yên tĩnh nên Chung Đào thường xuyên đến đây. Chiếc bàn dài giữ nguyên hoa văn gỗ, ghế nhỏ tấm tựa lưng đằng sau hình tròn nhỏ, uống một ngụm cà phê thơm nồng là có thể khiến người ta tạm quên đi bon chen, lo lắng chốn đô thị phồn hoa.
Cửa sổ bằng gỗ màu rơm vàng, tường gạch cũ rêu phong không trát. Dưới ánh đèn trang trí nhẹ nhàng, cả quán cà phê hiện lên đầy nét xa xưa cổ kính. Diện tích quán không lớn, nhìn một cái là thấy toàn bộ, trên các bức tường người ta cho treo những bức ảnh đen trắng, kích cỡ to nhỏ khác nhau, đa số là các bức chụp phong cảnh Hồng Kông mà người chụp đã từng đi qua, đường Hoàng Hậu, bến cảng, tàu điện xưa... mang đầy màu sắc hoài cổ. Trên một bức tường khác mở một lối nhỏ cửa gỗ màu vàng óng, bên cạnh trang trí một chiếc lò sưởi theo phong cách phương Tây. Nữ nhân viên phục vụ ăn mặc khá đơn giản, áo phông cổ tròn màu xanh, dáng vẻ nhẹ nhàng nhanh nhẹn. Mỗi góc quây ba tấm ngăn tạo cho khách khoảng không riêng tư.
Lúc này, Chung Đào ngồi đối diện với Đinh Lam, hôm nay anh mặc áo phông màu ô liu, quần bò xanh thái độ ung dung. Đinh Lam trang điểm nhẹ nhàng, thoải mái. Trên bàn để chiếc đèn dầu nhỏ tinh xảo màu đồng hình quả lựu lập lòe ánh sáng.
Cà phê được mang tới, Chung Đào cho gọi hai cốc cà phê Kona hảo hạng, chiếc cốc sứ men trắng sang trọng dày dặn làm nổi bật hương vị cà phê, vừa giữ cho cà phê được nóng vừa giúp người cầm không bị bỏng tay, nhấp một ngụm thấy ngay vị đậm đà thơm ngon.
“Cà phê ở đây không tồi, có vẻ hơi ít sữa”. Chung Đào với tay lấy hộp sữa nhỏ đưa cho Đinh Lam.
“Em thích uống cà phê Surong.”
Chung Đào mỉm cười nói đùa: “Cà phê Surong không thể hiện đẳng cấp”.
Chung Đào đưa cốc cà phê lên miệng, vị thơm nồng đọng nơi đầu lưỡi. Đây đúng là loại cà phê danh tiếng.
“Loại cà phê Kona này độ đậm trung bình, khẩu vị tươi mới, có mùi thơm nhẹ kèm theo chút hương rượu nho”. Chung Đào giới thiệu với Đinh Lam.
Cô nhấm một ngụm: “Ồ! Hơi thơm thơm, em có cảm giác giống vị hoa quả”.
“Đó mới đúng là hương vị cà phê Kona”.
Đột nhiên gương mặt Đinh Lam chùng xuống u uất: “Anh có còn nhớ... cái năm chúng ta trồng cà phê ở Giang Nam không?”.
“Nhớ chứ ‘hạt cà phê hồng tím, rừng cao su xanh ngắt’, nghe rất lãng mạn...”. Chung Đào không chút biểu cảm, giọng nói có vẻ châm biếm.
Tiếng nhạc du dương vang lên, hình như là một ca khúc tiếng Anh, giọng nam trung trầm ấm buồn buồn.
Tại góc bar trong quán, một cậu phục vụ trẻ mặc chiếc áo phông màu đen in hoa đang pha chế rượu, nom mặt mới gần hai mươi tuổi, mười chiếc ghế cao đặt phía trước, hai người thanh niên tóc dài ăn mặc hoa lá ngồi nhâm nhi ly rượu mạnh. Tường phía trên chiếc lò sưởi treo chiếc màn hình lớn màu trắng.
Ca khúc kết thúc, tiếng kèn acmonica nổi lên, đó là tiết mục của đài phát thanh SZJ: “Bạn nghe đài thân mến, sau đây chúng tôi xin gửi tới các bạn độc tấu kèn acmonica, ca khúc Mưa hoa hạnh...”. Khúc nhạc vang lên những nốt đầu tiên, tiết tấu khá nhanh tiếp đó là tiếng kèn như khóc như kể.
Chung Đào lặng người, thất thần.
Đinh Lam ngồi yên lặng chìm đắm trong giai điệu.
Cây đèn dầu lập lòe hắt lên thứ ánh sáng leo lắt, tiếng kèn acmonica du dương bên tai, giai điệu như từ thiên đường vọng xuống.
“Anh còn nhớ không? Lúc đó...”.
Đinh Lam chưa nói hết câu Chung Đào ra dấu cho cô dừng lại, thái độ của anh như tập trung hết sinh lực để lắng nghe tiếng kèn acmonica.
Không gian trầm lắng, anh khe khẽ lên tiếng.
“Những việc đã qua như giấc mộng”.
“Em luôn hoài niệm về những năm tháng đó, hoa quỳnh nở đêm tuy thời khắc ngắn ngủi song biết bao vui sướng”.
Đinh Lam ngắm nhìn Chung Đào không rời, ngàn vạn lời muốn nói với anh mà không thể thốt lên thành câu.
“Lúc đó chúng ta mới chỉ mười bảy tuổi!”. Chung Đào mơ màng.
“Hạnh Nhi mới mười lăm tuổi...”. Giọng nói của Đinh Lam đầy thương cảm.
Trong tiếng nhạc, trước mắt Chung Đào như ẩn hiện cơn mưa hoa hạnh.
*
* *
Ven sườn núi Lam Tước Lĩnh là rừng cây hạnh. Mùa xuân của hai mươi tám năm về trước khi từng đám những cánh hoa hạnh màu phấn hồng nở bung trên cành phủ trắng sườn núi.
Chiều muộn, Chung Đào cùng mấy người bạn, những thanh niên trí thức thành thị cùng đến nơi này. Họ đều học chung một trường trung học, giờ đây lại đều được phân về đại đội hai binh đoàn xây dựng Vân Nam. Trong nhóm có ba cô gái: Hạnh Nhi, Hạ Vũ Hồng, Đinh Lam, trong đám thanh niên trẻ hoạt bát lanh lợi nhất là Chung Đào và Đinh Cường. Họ quây tròn lại, cất tiếng hát một bài hát thịnh hành thời ấy.
Hạ Vũ Hồng có khuôn mặt trái xoan, đôi mắt to tròn, mái tóc đuôi gà. Cô là cô gái xinh đẹp nhất trong đại đội, hơn nữa tài sắc lại vẹn toàn vừa biết hát vừa biết múa, là bạn gái “thanh mai trúc mã” của Chung Đào.
Chung Đào đứng sát bên cô, làn da anh đen bóng nên mọi người đặt cho anh biệt hiệu “Hắc Oa”, khuôn mặt Chung Đào luôn rạng rỡ đôn hậu mà tinh quái. Anh hát hơi lỗi nhịp.
Đinh Cường, Đinh Lam là hai anh em ruột, họ đùa vui náo động. Đinh Lam có khuôn mặt béo tròn đôi mắt nhỏ không được coi là đẹp. Đinh Cường dáng người gầy gò, tính tình cương trực thẳng thắn, không chịu cúi đầu, biệt hiệu là “Cường Tử” anh là người bạn thân thiết nhất của Chung Đào.
Em gái Chung Đào là Hạnh Nhi thổi kèn acmonica làm nhạc đệm cho mọi người hát. Thời đấy kèn acmonica là loại nhạc cụ được đám thanh niên trí thức yêu thích nhất. Bài hát mọi người hát là ca khúc nói về thành phố quê hương, đổi lời dựa trên giai điệu của bài hát Thu thủy y cựu của những năm ba mươi, giai điệu du dương buồn buồn. Hạnh Nhi hai tay giữ chặt chiếc kèn màu hồng đưa ngang miệng, cô thổi một cách say sưa. Ánh mắt dõi nhìn rừng hạnh nở hoa trên khắp sườn núi. Cô mặc chiếc áo in hình những bông hoa nhỏ, tóc tết bím hai bên, dáng vẻ thơ ngây trong sáng.
Những tháng ngày vui vẻ đã qua.
Trước mắt chỉ còn nỗi cô đơn hiện hữu.
Hồn mộng giờ ở nơi nao?
Ngước mắt lên, lệ trào dâng trong mắt.
Mẹ ơi!
Biết đến bao giờ được trở về quê hương.
Nơi dòng sông êm đềm cuộn chảy.
Nơi con đường Nhân Dân Nam Lộ tráng lệ yêu thương.
Tất cả tháng ngày như còn vẹn nguyên xưa...
...
Khúc nhạc du dương của tiếng kèn acmonica như đưa mọi người trở về những căn gác xép gần công viên Uông Giang, về con đường Nhân Dân Nam Lộ đông đúc người qua lại, những khe nước chảy nơi mọi người giặt giũ, những khu đất hoang tràn đầy hoa cải dầu khoe sắc vàng. Bọn họ người nhiều tuổi nhất mới chỉ mười bảy, vừa mới tốt nghiệp trung học. Những chàng trai, cô gái mười sáu, mười bảy tuổi hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Mao Trạch Đông tới vùng Lam Giang nơi biên cương Vân Nam mới được hơn hai tháng nay.
Em gái Chung Đào, Hạnh Nhi lúc đó đang học năm nhất trung học. Cô bé mới có mười lăm tuổi, cũng đi theo anh. Tới nơi biên cương Vân Nam cách xa thành phố hàng nghìn kilômét, trong mộng tưởng họ luôn mường tượng “Trên đầu có chuối tiêu, dưới chân là dứa”. Nhưng hiện thực lại khác hẳn, bữa ăn kham khổ ngày ngày chỉ có củ cải luộc, rau cải trắng luộc không hề có lấy chất tanh. Nơi hoang vu rừng núi, cả ngày lao động vất vả, xếp phôi gạch, chặt tre mệt mỏi tới mức không thở được. Trong lúc chạng vạng tối, đến giờ nghỉ ngơi họ khó tránh khỏi việc nhớ quê hương, nhớ cha mẹ ở nhà.
Có người hai khóe mắt tràn lệ.
Tiếp đó, cùng với thanh âm tiếng kèn acmonica của Hạnh Nhi, đám thanh niên trẻ cất lời hát hòa theo cổ vũ tinh thần.
“Tới nơi thôn dã, tới miền biên cương, tới bất cứ nơi đâu tổ quốc cần nhất...
Tất cả bọn họ trong lòng bất giác nghĩ đến lúc rời thành phố thân yêu, không thể quên được thanh âm chiêng trống hào hùng, dưới lá cờ đỏ tung bay trước gió, ngày tiễn biệt lên đường thật cảm động biết bao. Làm sao có thể quên nước mắt của mẹ ướt đẫm khuôn mặt.
Bên sườn núi Lam Tước Lĩnh, ánh mặt trời chiếu bóng hình của họ đứng sừng sững hiên ngang. Ánh nắng chiều chiếu trên những bông hoa hạnh tạo thành đám mây màu hồng rực rỡ. Cường Tử vô tình phát hiện ra rừng cây hạnh bên sườn núi từ mấy ngày hôm trước. Những bông hoa hạnh nơi đất khách quê người đem đến cho họ, những người con viễn xứ một thứ tình cảm ấm áp yêu thương kỳ lạ.
“Chẳng ngờ được nơi miền biên viễn Vân Nam lại có thể nhìn thấy hoa hạnh!”.
“Thật đẹp quá!”.
Cường Tử bị tiếng đàn của Hạnh Nhi hớp hồn, anh chăm chú ngắm cô, Hạnh Nhi đột nhiên phát hiện ra, cô dừng lại, lớn giọng: “Này, anh dùng đôi mắt trâu nhìn người ta làm gì?”.
Cường Tử mắc cỡ xấu hổ, nhỏ giọng chối: “Anh có nhìn đâu”.
“Lại còn chối hả. Phạt anh phải hát một bài”. Cô hếch hếch cái mũi lúc lắc hai bím tóc ra lệnh.
Hạ Vũ Hồng thay Hạnh Nhi dồn ép: “Bảo Cường Tử hát một bài có được không?”.
“Được đấy!”. Mọi người cười ồ lên tán thưởng.
Cường Tử cười khổ biết là không thể tránh được anh cất cao giọng.
Tri muội thổi kèn.
Tri ca hát họa.
Cả hai cùng vui.
Một tổ có hai con chim tước.
Tri ca cũng muốn thổi bay lên.
“Thổi bay lên” trong tiếng địa phương Tứ Xuyên nghĩa là yêu đương.
Mọi người vỗ tay hoan hô.
Những chàng trai, cô gái cùng nhau cất lời ca vang khắp núi rừng.
Đó là những người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, có hoài bão lớn lao muốn thay đổi cả thế giới. Sau đó “Hắc Oa” bắt nhịp bài hát Bài ca thanh niên trí thức mà họ vừa mới học chưa lâu. Bài hát này được một thanh niên trí thức Nam Kinh họ Nhậm sáng tác, khá nổi tiếng được lan truyền từ Nam đến Bắc, lời bài hát được truyền miệng nên không còn giữ nguyên bản gốc.
Mười mấy nam, nữ thanh niên trí thức cùng hòa nhịp cất cao lời ca nhạc điệu có lúc hùng tráng có lúc bi thương.
“Từ biệt mẹ yêu, từ biệt quê hương
Thời học sinh vàng son đã ghi vào sử sách, một đi không bao giờ trở lại.
A, con đường phía trước biết bao khó khăn, vừa khúc khuỷu lại dài xa lắm.
Dưới chân sự sống in hình lên những vùng đất hoang vu xa lạ
Đi cùng vầng thái dương, về cùng ánh trăng tỏ.
Vận mệnh của chúng ta là làm thay đổi thế giới, một thiên chức vinh quang và thần thánh
A, trái tim ai nói lời từ giã bạn, hãy hướng về nơi xa.
Bông hoa tình yêu sẽ mãi mãi không thể nở, không thể nở!”.
Một cơn gió thổi qua rừng hạnh, Hạ Vũ Hồng ngoảnh đầu lại, đôi mắt cô ngước lên si mê. Dưới ráng chiều, những cánh hoa màu hồng mong manh rơi xuống liệng bay rợp trời như múa.
“A, mưa hoa hạnh!”. Có người chợt kêu lên.
“Mưa hoa hạnh! Mưa hoa hạnh!”.
Chàng trai trẻ Chung Đào ngốc nghếch dõi theo. Đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy mưa hoa hạnh, cảnh sắc đẹp mê đắm lòng người.
Trong khe núi, nơi có ngôi nhà của họ, những cánh hoa hạnh bị gió mạnh thổi qua bay lả tả phủ kín trời rồi rơi xuống đất, khung cảnh thật đẹp mà cũng đầy thê lương. Có lẽ cả đời này họ sẽ không bao giờ quên được. Đám thanh niên nam nữ nhảy múa đùa vui dưới cơn mưa hoa hạnh. Đột nhiên, có người bật khóc nức nở.
Chiếc đèn dầu trên bàn dao động lắc lư.
Chung Đào bất giác khe khẽ nhẩm hát khúc ca Bài ca thanh niên trí thức. Trước mắt anh như hiện ra gương mặt si mê của Hạ Vũ Hồng.
Đinh Lam thất thần nhìn anh, ở khóe mắt đôi dòng lệ lặng lẽ lăn trên má. Tuổi xuân tươi đẹp, lý tưởng cao vợi, mộng ước lớn lao, những lời đao to búa lớn như muốn nhuộm hồng cả thế giới này... Tất cả dường như mới chỉ diễn ra ngày hôm qua.
Khúc nhạc acmonica dừng lại.
Khuôn mặt Chung Đào đanh lại như bức tượng bằng đồng xanh.
Đinh Lam quay trở về với thực tại.
Cô khẽ hỏi Chung Đào.
“Anh có biết tại sao quán cà phê này có tên là ‘Mi Lan’ không?”.
“Ồ, vì nó mang phong cách Ý”.
“Không phải, người mở quán là một cô gái Hồng Kông có tên Mi Lan”.
“À, anh không biết”.
“Sau này cô ấy không làm nữa, quán cà phê vẫn giữ lại cái tên đó”.
Chung Đào hỏi thăm một số người bạn cùng trường, Đinh Lam nói họ đều rất bận.
“Tề Hiểu Huy, cái cậu đó hôm trước vẫn hỏi mọi người đợi khi nào lại tổ chức bữa nữa đấy”.
“Để nói sau”. Chung Đào đề nghị.
“Anh cần phải chú ý...”. Giọng của Đinh Lam bỗng nhỏ lại, hình như cô đang rất lo lắng cho anh.
“Anh còn một việc nữa cần hoàn thành, sẽ kết thúc việc này sớm thôi!”.
Ngọn lửa xanh ma quái nhảy múa trước mắt... Nó như tiếng kêu xé lòng vọng mãi.
“Nên nhớ, cái gì em cũng không biết nhé!”. Chung Đào nhìn kỹ Đinh Lam nhắc từng câu một.
Đinh Lam gật đầu nhè nhẹ.
“Thế nhưng...”. Cô vẫn còn điều muốn nói với anh.
“Chúng ta chuyển sang chuyện khác đi”. Chung Đào ngắt lời cô.
“Anh có tin tức gì của chị Hạ Vũ Hồng không?”. Đinh Lam hỏi Chung Đào.