Tam sinh tam thế - Chẩm thượng thư (Tập 2B) - Phần IV - Chương 15 - Phần 3
Chàng sẽ không lấy Quất Nặc, mà sức mạnh của thần cung nếu đã không thuộc về Quất Nặc, Khuynh Họa cũng không để nó thuộc về A Lan Nhược. Muốn đưa nàng trở về thần cung an toàn, đây là cái cớ tốt nhất.
Nhưng cuộc đời này của chàng, sai lầm lớn nhất là đã đánh giá thấp Khuynh Họa.
Đêm mười sáu tháng bảy, Tương Lý Khuyết băng hà. Ngày mười chín tháng bảy, chàng được vội vã đón về thần cung, chủ trì đại tang cho Tương Lý Khuyết. Mà chưa quá ba ngày, lại có một thông tin được truyền vào thần cung, A Lan Nhược giết vua, đã bị bắt giam. Lúc đó, trên đại điện của thần cung, chiếc bình tế lễ màu đen trên tay chàng rơi xuống nền nhà, một tiếng “xoảng” giòn giã vang lên. Khuynh Họa không thực hiện lời hứa của bà ta. Bây giờ bà ta suy tính mọi chuyện chu toàn trên cả dự liệu của chàng.
Chàng có tình cảm thật sự hay giả dối với A Lan Nhược, Khuynh Họa sao có thể biết được. Chiêu này của bà ta, chẳng qua chỉ muốn đề phòng một ngày nào đó, ngộ nhỡ chàng nảy sinh chân tình với A Lan Nhược, sẽ giúp A Lan Nhược uy hiếp vương vị của Quất Nặc. Bà ta phải ép A Lan Nhược vào chỗ chết, bà ta chưa từng coi mình là mẫu thân của nàng. Sao chàng lại có thể không nghĩ tới điều này.
Sau khi A Lan Nhược bị bắt giam, chàng cũng bắt đầu bị giám sát một cách chặt chẽ.
Khuynh Họa đã tới thần cung một lần, nói rất dài trước mặt chàng, dường như xuất phát từ nỗi khổ tâm của một người mẹ: “Ngươi hận A Lan Nhược như vậy, bản cung thấy thế lại cảm thấy đau lòng, nó đã giam cầm ngươi gây ra một sai lầm lớn, nhưng chung quy vẫn là cốt nhục của bản cung, nếu nó phải chịu khổ trong một thời gian dài, bản cung không nỡ nhẫn tâm. Hãy nể mặt bản cung, dù nó đã phạm sai lầm tày đình, chết cũng không trả được hết mối hận cho ngươi sao? Nếu ngươi cho bản cung ân tình này, sau này có việc gì cần tới bản cung, chỉ cần nói một tiếng là được. Mặc dù nói vậy, nhưng ánh mắt dò xét thần sắc chàng của bà ta lại khó che giấu được vẻ sắc bén.
Chàng nhíu mày, làm ra vẻ quả thực rất không hài lòng, một lát sau, mới chậm rãi nói: “Không biết Quân Hậu có biết một nữ tiên sinh tên là Văn Điềm ở trong tông học hay không, nếu cảm thấy việc này không phải với ta, Quân Hậu có thể nhận Văn Điềm làm nghĩa nữ được không? Khi ta sa cơ, nàng đối với ta không bạc, ta và nàng tâm đầu ý hợp, có ý muốn cưới nàng làm vợ”. Khuynh Họa chậm rãi nở một nụ cười: “Có gì mà không được chứ”. Trong nụ cười đó, cuối cùng đã có vài phần nhẹ nhõm.
Khuynh Họa cho phép Văn Điềm tới thần cung làm bạn với chàng, lần gặp gỡ này, khuôn mặt luôn trầm lặng của nữ tử lại không hề xuất hiện một nụ cười, lúc không có người, khinh bỉ nói với chàng: “Ta biết ngươi lấy ta vì muốn báo ơn, ngươi có biết người có ơn lớn nhất với ngươi lại là nhị công chúa điện hạ không? Công chúa đối tốt với ngươi, ngay cả ta cũng nhận thấy, lần này điện hạ phải chịu hàm oan, ngươi lại khoanh tay ngồi nhìn. Quả thực ta đã từng thích ngươi, nhưng hôm nay mới phát hiện ra rằng, ngươi không xứng đáng với tình cảm của ta”.
Chàng không hề giải thích, những lúc như thế này, ngoài bản thân mình ra, chàng không tin bất kỳ người nào khác. Nếu những lời nói đó của Văn Điềm xuất phát từ tấm lòng, chàng rất khâm phục. Nếu là do Khuynh Họa lệnh cho nàng ta nói ra những lời đó để thăm dò chàng, chàng lại càng phải cẩn trọng.
Khuynh Họa cuối cùng cũng tin chàng, dần dần nới lỏng sự giám sát đối với chàng, đặc biệt là khi có Văn Điềm ở bên cạnh. Ngày hôm đó, chàng dẫn theo Văn Điềm đi lấy nước suối trời ở hậu sơn, kín đáo tách riêng ra rồi đi tới động Thanh Y một chuyến. Động Thanh Y là nơi linh khí hội tụ mạnh mẽ nhất ở núi Kỳ Nam. Hai năm trở lại đây, Tức Trạch luôn bế quan trong động này.
Mũi tên mang theo một phong thư bay qua kết giới bên ngoài động, trong thư kể về việc A Lan Nhược bị bắt giam.
Năm xưa khi Tức Trạch bế quan, đã dẫn theo hai vị thần quan vào trong động để hộ pháp, chàng mặc dù tin tưởng Tức Trạch, nhưng không tin tưởng vào hai vị thần quan hộ pháp kia, do đó bức thư đã được viết theo bút tích của người khác. Lần này chỉ mong Tức Trạch có thể tận mắt đọc được bức thư này, ra khỏi động đi cứu A Lan Nhược.
Lúc cấp bách, càng cần phải bình tĩnh và suy nghĩ chu toàn. Nếu Tức Trạch cứu được A Lan Nhược ra ngoài, vài ba tháng sau, chàng sẽ lặng lẽ rời khỏi thần cung, trùng phùng với nàng. Nếu Tức Trạch không đọc được bức thư này, chỉ còn một cách duy nhất, đó là chuyển quyền hành án của nàng về thần cung. Lúc đó, mặc dù khả năng chàng giúp nàng bỏ trốn thành công chỉ có một nửa, hoặc còn ít hơn, nhưng dù sao cũng còn một chút cơ hội.
Khuynh Họa đã dùng mưu với chàng như vậy, nếu có thể vượt qua kiếp nạn này, chàng sẽ không để Khuynh Họa được toại nguyện. Bà ta một lòng muốn A Lan Nhược phải chết, vậy thì cuối cùng sẽ có một ngày, chàng nhất định phải để nàng ngồi lên vị trí Thượng Quân.
Trong cõi trời đất bao la rộng lớn này, chàng chưa từng có người thân, A Lan Nhược cũng không còn người thân nữa, cho dù tất cả mọi người đều bày mưu tính kế hãm hại họ thì đã sao, bọn họ chỉ có nhau, có nhau là đã đủ rồi.
Ngày mùng một tháng tám, A Lan Nhược được cướp khỏi nhà lao. Đó cũng chính là ngày Tương Lý Hạ xuất quân ra trận, khi tin tức được truyền tới, chàng đang ở trên Linh Sơ đài chủ trì lễ chúc phúc cho đại quân xuất chinh. Mấy ngày gần đây quả thực có quá nhiều chuyện đi lệch quỹ đạo, may mà chuyện này cuối cùng đã đi đúng quỹ đạo, chàng đã không đặt nhầm niềm tin vào Tức Trạch. Nhưng sau khi A Lan Nhược được cứu thoát, chàng lại càng bị giám sát chặt chẽ hơn, Khuynh Họa cuối cùng vẫn có chút nghi ngờ chàng. Tuy nhiên, may mà nàng đã được bình an. Nàng bình an là tốt rồi.
Cuộc chiến với bộ tộc Dạ Kiêu thi thoảng cũng có tin từ chiến trường báo về, mặc dù chàng ở trong thần cung, nhưng cũng biết được chút ít. Nhưng trong số chút ít thông tin đó, lại không bao gồm thông tin người chủ soái trận đánh bên sông Tư Hành lúc bấy giờ đã là A Lan Nhược chứ không phải là Tương Lý Hạ.
Ngày mùng sáu tháng tám, đại quân bị tộc Dạ Kiêu đẩy lùi về phía nam sông Tư Hành, tổn thất ba vạn quân lính.
Chàng đi dạo trong thần cung, thấy trong khu vườn phủ kín hoa tứ quý, có một vài quả rụng bị chim ăn, để lộ hạt màu nâu, chàng bèn thu những hạt giống đó lại.
Ngày mùng tám tháng tám, A Lan Nhược dùng Bán Nguyệt trận để ngăn chặn quân địch, bộ tộc Dạ Kiêu bị chặn phía ngoài sông, không thể tiến thêm được một bước.
Chàng phát quang được một mảnh đất trống trong vườn, gieo hạt giống lên mảnh đất trống đó, dùng nước suối trời pha một chút nước suối thường để tưới cây, ngày hôm sau, hạt giống đã nảy mầm thành một cây non xanh tốt.
Ngày mười bốn tháng tám, bộ tộc Dạ Kiêu công phá thành công Bán Nguyệt trận, A Lan Nhược sử dụng Chiêu Hồn trận, trên sông Tư Hành nghiệp hỏa cháy ngút trời.
Chàng vun xới thêm đất cho cây non, mấy ngày nay đám cây non đã mọc thành tán xanh biếc, một cây trong đó còn nở một đóa hoa nhỏ xinh xắn, chàng dùng pháp thuật lưu giữ cho hoa tươi mãi, nghĩ rằng đóa hoa này rất hợp với nàng.
Ngày mười bảy tháng tám, A Lan Nhược tử trận, hồn phách tan thành cát bụi, tan biến trong dòng sông Tư Hành.
Chàng đi đi lại lại trong vườn, hoa tứ quý đã nở kín cành, chàng lấy kéo cắt một vài cành hoa đẹp nhất, cũng muốn giữ lại những cành đó để sau này nàng có thể cắm chơi.
Theo lời đồn đại, Tương Lý Hạ tử trận, A Lan Nhược mang tội chết, Thường Đệ mà Tương Lý Khuyết sinh thời cưng chiều nhất, cũng nghe đồn rằng sau khi hay tin Tương Lý Khuyết qua đời, vì quá đau buồn nên đã phát điên. Một vương thất lớn như vậy, người kế vị lại chỉ còn một mình Quất Nặc. Ngày mười chín tháng tám, Quất Nặc đang bị lưu đày bên ngoài được đón về Vương đô kế vị. Ngày hai mươi tháng tám, Quất Nặc đích thân đến thần cung xin chàng làm lễ cầu phúc, sau khi tế lễ xong đã mời chàng tới bên hồ sen đi dạo.
Thiếu nữ đơn thuần, luôn giữ vẻ tôn nghiêm cao quý trước đây giờ trên gương mặt lại đầy ắp vẻ từng trải, đưa mắt ra xa nhìn mặt nước giữa hồ sen, hồi lâu mới nói: “Lưu đầy hai năm, tuy chịu một vài gian khổ, nhưng trong hai năm đó, muội dường như mới sống một cuộc sống thật sự, đã hiểu được về một vài người, cũng hiểu được một số việc. Trong ba chị em muội, thực ra người được giáo dưỡng tốt nhất lại chính là A Lan Nhược, sau khi lớn lên, muội căm ghét muội ấy như vậy chẳng qua chỉ vì muội ấy đã sống một cách thoải mái, không gò ép, khiến muội rất ngưỡng mộ. Khi muội ấy mới được sinh ra, muội còn nhớ, muội đã rất thích muội ấy”. Chàng không biết nàng ta nói những lời đó là có ý gì, cũng không tiếp lời.
Một lát sau, Quất Nặc lại nói: “Có rất nhiều việc mẫu thân không nói rõ với muội, nhưng trong lòng muội thực ra đều hiểu rõ, nói A Lan Nhược giết vua, muội, muội cảm thấy đó không phải là sự thật”. Nàng quay đầu lại nhìn chàng: “Biểu ca, mẫu thân khiến muội cảm thấy có chút đáng sợ”.
Cả đời Khuynh Họa đều vì cô con gái lớn này, hổ dữ còn không ăn thịt con, bà ta lại sẵn sàng dùng máu thịt của những đứa con gái nhỏ để đúc lên vương tọa của Quất Nặc. Cuối cùng, Quất Nặc lại không hề có nửa phần cảm kích, mà chỉ cảm thấy bà ta thật đáng sợ, đây chính là báo ứng.
Chàng lạnh lùng đáp lại một câu: “Thứ mà ngươi sợ không phải là bà ta, mà chính là quyền lực trong tay bà ta. Giờ ngươi đã là Thượng Quân, mẫu thân của ngươi không nên can thiệp vào việc triều chính quá lâu”.
Ngày hai mươi hai tháng tám là một ngày đẹp trời, ánh nắng không quá gay gắt, thi thoảng có gió nhẹ. Kiểu thời tiết như thế này, thích hợp nhất cho việc đi thăm bạn bè thân hữu. Dường như đã đặc biệt lựa chọn từ trước, ngày hôm đó, Tức Trạch thần quân tới thần cung thăm chàng.
Lúc đó, chàng đang đọc sách trong vườn cây tứ quý, Tức Trạch đi qua nguyệt môn, bước thẳng tới trước mặt chàng, thần sắc có phần phờ phạc lãnh đạm, bỏ qua màn chào hỏi, ngồi ngay xuống trước mặt chàng, nói: “Bên ngoài núi đã có biết bao biến động, ngươi ẩn thân ở đây, có vẻ rất an nhàn”.
Chàng ngẩng đầu khẽ liếc nhìn Tức Trạch một cái, tay lật giở một trang, lại nhìn vào trang sách: “Ta còn nhớ trước đây ngài thường nói, thần cung là nơi đứng ngoài thế sự, nếu đã như vậy, những thế sự đó có can hệ gì với thần cung chứ?”. Lại lật giở thêm một trang sách, nói: “A Lan Nhược nàng ấy...”.
Tức Trạch cau mày, ngắt lời: “Ta chưa từng biết đến chữ tình, đương nhiên không hiểu được ngươi và A Lan Nhược suy nghĩ như thế nào. Nhưng ngươi đã hỏi câu này, có thể thấy trong lòng ngươi vẫn còn nhớ tới nàng, nếu đã như vậy, sao phải ép nàng tới bước ấy. Đương nhiên, chuyện của hai người, ta là người ngoài, không tiện nói điều gì, con đường ngươi lựa chọn, con đường nàng lựa chọn, chẳng qua đều là số mệnh của mỗi người”. Tức Trạch thở dài một tiếng, nói: “Hôm nay ta tới đây, chẳng qua cũng vì thực hiện một tâm nguyện của nàng, nghe nói ngươi còn giữ hai mươi phong thư của A Lan Nhược, trước khi ra đi, nàng đã nhờ ta tới lấy lại”.
Những câu nói của Tức Trạch giống như đã nói lên điều gì đó, lại giống như chẳng nói gì cả, duy chỉ mấy từ ‘trước khi ra đi’ lại như những cây kim dài đâm vào tai chàng, ngón tay chàng sững lại trên trang sách, chậm rãi nói: “Trước khi ra đi? Ngài đã cứu nàng, nhưng lại để nàng ra đi sao?”.
Tức Trạch sững người lại, dường như chưa hiểu rõ tại sao chàng lại hỏi như vậy.
Một linh cảm chẳng lành tràn lên trong tim chàng, chàng bỗng nhiên đứng dậy, bước về phía cửa vườn: “Ngài đã tới đây rồi, chắc sẽ có cách giúp ta sớm rời khỏi nơi đây, cho dù nàng đã đi đâu, chúng ta lập tức xuống núi, vẫn còn có thể đuổi kịp nàng. Ngài không biết nàng thường hay có những suy nghĩ kỳ quặc, nếu để nàng một mình ở bên ngoài, ta không yên tâm...”. Chàng không phải là một người thích nói nhiều, lúc này lại dường như rất sợ bị người khác ngắt lời, rốt cuộc là đang lo sợ điều gì, bản thân chàng hiểu rõ. Chàng và A Lan Nhược, bọn họ chỉ có nhau, số mệnh còn có sai sót, nhưng tuyệt đối không thể để sai sót xảy ra vào lúc này, nếu như ngay cả bước đi này cũng sai sót, nếu như...
Tức Trạch lại dường như bỗng hiểu ra điều gì đó, nói sau lưng chàng: “Không ai nói cho ngươi biết sao, Trầm Diệp, A Lan Nhược đã ra chiến trường, thay...”. Nhưng đã bị chàng lớn tiếng cắt ngang: “Đừng nói nữa”.
Đừng nói nữa.
Như thể nếu Tức Trạch không nói ra, tất cả mọi việc theo ước nguyện của chàng vẫn có thể được như ý nguyện của chàng.
Trong vườn im lặng một cách chết chóc, chỉ có tiếng gió lạnh lật giở từng trang sách, phát ra vài tiếng sột soạt.
Bàn tay chàng chống lên cửa vườn, vầng trán lấm tấm mồ hôi, nhưng vẫn cố giữ một gương mặt bình thản, dường như khi giả vờ như vậy, thì nỗi sợ hãi sâu thẳm nhất trong lòng chàng, nỗi sợ hãi đủ để khiến chàng sụp đổ hoàn toàn sẽ không thể và cũng chưa từng xảy ra.
Nhưng Tức Trạch cuối cùng vẫn chậm rãi lên tiếng ngăn cản bước chân của chàng, nói: “A Lan Nhược, nàng ấy...”, dừng lại một chút: “Bức tấu biểu đó của ngươi, Khuynh Họa đã đưa cho nàng đọc rồi. Trước khi đi tới sông Tư Hành, nàng đã nói cuộc đời này của nàng có thể không hề có nhân duyên, ngươi là do nàng giành lấy, hai năm tình cảm sâu đậm với ngươi cho dù chỉ là hư ảo, nàng cũng chấp nhận, chỉ không ngờ rằng ngươi lại căm hận nàng như vậy, nàng dù có rộng lượng đến mấy thì cuối cùng cũng có phần không thể chịu đựng nổi”. Lại nói: “Nàng nói nàng sẽ quay trở về, ta không biết nàng đi tới sông Tư Hành vốn là muốn tìm tới cái chết”.
Những lời nói hết sức bình tĩnh nhưng chữ nào chữ nấy như một mũi dao sắc bén nhất cắm sâu vào tim chàng, chàng biết Tức Trạch không cố ý nhưng chàng lại muốn những lưỡi dao đó cắm sâu hơn, đau đớn hơn, bởi vì chỉ có như vậy mới khiến chàng cảm thấy bản thân mình còn đang sống, mới còn có hơi sức phản bác lại Tức Trạch: “A Lan Nhược, nàng không thể chết, những lời ngài nói, ta đều không tin”.
Tức Trạch đưa mắt quan sát chàng trong giây lát, khẽ nói: “Ngươi tin cũng được, mà không tin cũng chẳng sao”, lại thở dài, nói: “Sau khi nàng chết, Khuynh Họa và Quất Nặc mới biết được chuyện này, bởi vì những chuyện có liên quan tới vương quyền, bọn họ che giấu quần thần, nhưng ta không hiểu sao bọn họ lại giấu không cho ngươi biết”.
Chàng không biết bản thân mình đã phát ra tiếng bằng cách nào: “Hãy nói cho ta biết, nàng ở đâu?”.
Tức Trạch im lặng hồi lâu, trong bầu không khí tĩnh lặng vô biên đó, dường như cuối cùng đã hiểu ra, vị thần quan trẻ tuổi trước mặt không muốn tin nhưng lại không thể không tin, nhưng so với việc tin tưởng ở chàng, chàng ta còn muốn tin vào mắt mình hơn. Hồi lâu sau, Tức Trạch nói: “Nàng quyết liều mình đánh cược một phen, mở Chiêu Hồn trận, hung trận thời thượng cổ đã nuốt gọn hồn phách của nàng, hóa thành cát bụi tan biến trong dòng sông Tư Hành”.
Bóng dáng của chàng run rẩy, chân loạng choạng, nhưng bước chân lại càng gấp gáp hơn.
Ngày hôm đó, vị Thần Quan Trưởng đại nhân mà đám mật thám của vương cung tự cho rằng bọn họ đã trông chừng một cách nghiêm ngặt, hoàn toàn không có khả năng kháng cự lại bước ra khỏi thần cung bằng lối cửa chính ngay trước mắt bọn họ. Hành động này khiến bọn họ nổi giận, lần lượt hiện thân ngăn cản. Thần Quan Trưởng khuôn mặt tựa Tu La, một tay cầm kiếm, ánh kiếm lướt qua, đám mật thám kia lần lượt đầu lìa khỏi xác. Trong gần một trăm tên mật thám chỉ còn duy nhất một tên sống sót, đó là tên tiểu mật thám thường ngày phản ứng vô cùng chậm chạp, lúc này chưa kịp hiện thân. Đợi khi Thần Quan Trưởng đi xa rồi, tên tiểu mật thám mới gọi bồ câu đưa thư tới, buộc bức thư thông báo việc Thần Quan Trưởng đã rời thần cung vào chân chim bồ câu, chuyển cho mẹ con Khuynh Họa lúc này đang ở bên dòng sông Tư Hành. Hai mẹ con Khuynh Họa ở bên bờ sông Tư Hành là để cầu phúc cho các tướng sĩ đã tử trận theo tục lệ của bộ tộc Tỷ Dực Điểu.
Ngày hai mươi sáu tháng tám, bên bờ sông Nam Tư Hành, một đài cao trăm trượng được dựng lên bên cạnh hài cốt của các tướng sĩ, mây lành được gọi tới điểm xuyết thêm cho đài cao, đội nghi thức cầu phúc của nữ vương được sắp xếp rất lớn. Mấy ngày đi vội vã, chàng cũng vừa hay kịp tới nơi đúng vào ngày hôm đó.
Dòng sông như một dải ngọc, ngoằn ngoèo uốn lượn quanh núi Bình Vận, trong ánh nắng sớm rực rỡ, rừng nhạc âm khẽ ngân vang. Suốt mấy ngày liền không ăn không ngủ vội vã đi gấp, hình ảnh của A Lan Nhược cứ lởn vởn trong đầu óc trống rỗng của chàng, hễ nhắm mắt lại, trong đầu lại đầy ắp hình ảnh của nàng, tươi mới sống động như vậy khiến chàng không thể tin rằng nàng đã rời xa chàng. Nhưng sao có thể không tin được, chàng không phải là người có thể tự lừa dối bản thân mình. Mấy ngày hôm nay chàng như đi trên mây, suy nghĩ và đau khổ đều rời bỏ chàng, chàng phải đến sông Tư Hành, chàng đến tìm nàng, bởi vì nơi đây là câu trả lời nàng cho chàng, cũng sẽ là kết cục cuối cùng của chàng.
Chàng chưa từng nghĩ tới việc né tránh đội nghi thức của nữ vương, chàng chỉ đi dọc theo bờ sông, tưởng tượng rằng đó chính là đoạn đường mà nàng đã đi trước lúc lâm chung, đoạn đường cuối cùng trong cuộc đời nàng. Khi đi qua đoạn đường này, nàng đang nghĩ tới điều gì? Nàng vẫn còn hận chàng sao?
Đi tới phía cuối bờ sông, đài cao nổi lên, cờ xí rợp trời, khuôn mặt của Khuynh Họa dưới lọng che màu tím lọt vào mắt chàng lại có vẻ hốt hoảng kinh sợ hiếm thấy, chàng không biết bộ dạng của chàng lúc đó có khiến người khác hoảng sợ hay không, chỉ biết rằng Khuynh Họa nghiêm mặt hạ lệnh gì đó, lập tức một trận mưa tên ào ạt bay về phía chàng, chàng vung kiếm theo bản năng, thanh kiếm dài đứng thẳng bên bờ sông, phát ra quầng kiếm khí chặn tên lại, nhưng mưa tên liên tiếp không ngừng, cuối cùng cũng đã đẩy chàng vào thế tiến thoái lưỡng nan.
Một cơn gió bỗng thổi qua bên sông, dường như có ai đó tấu một khúc điếu ca trong rừng nhạc âm, hoa nhạc âm trắng lìa cành, xuyên qua trận mưa tên lạnh lẽo, bay tới rớt vào kiếm trận của chàng. Bông hoa nhạc âm nhỏ xinh đậu trên chuôi kiếm giống như một con bướm trắng tinh. Khi cánh bướm lay động, A Lan Nhược liền xuất hiện trước mắt chàng, mái tóc đen dài, xiêm áo màu đỏ, nàng khẽ nở một nụ cười, nhặt bông hoa trắng trên chuôi kiếm của chàng, đùa nghịch trên tay một lát rồi chậm rãi cài vào tóc, ngón tay khẽ vuốt ve nơi tóc mai rồi dừng lại. Trái tim chàng nhói đau, đưa tay ra muốn nắm lấy nàng, nhưng lại chỉ nắm được hư không. Đó chẳng qua chỉ là một chút hình bóng còn sót lại trong rừng nhạc âm mà thôi. Trong lúc tâm thần dao động, một mũi tên sắt đã xuyên qua kiếm khí hộ thân, đâm thẳng vào vai chàng, lực bắn mạnh khiến chàng loạng choạng lùi lại vài bước, máu tươi trào ra từ miệng nhuộm đỏ cả chuôi kiếm.
“Nghe nói Mạnh Xuân viện có khách mới đến, xin gửi thiệp tới bái chào”.
“Những lời ta nói có thể là thật, có thể là giả, có thể ta thật lòng thích huynh, có thể ta đã thật lòng đùa giỡn với huynh”.
“Huynh thật sự thích ta, Trầm Diệp”.
“Đôi khi muội cảm thấy không đủ, nhưng đôi khi lại cảm thấy huynh như vậy đã rất tốt rồi”.
Chàng để mất nàng nhiều lần như vậy, nhìn hình ảnh nàng dần tan biến ngay trước mắt mới lần đầu tiên hiểu rõ, mất mát rốt cuộc là như thế nào.
Người đó, ngươi sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy nàng nữa, không bao giờ còn được nghe nàng nói, không có cách nào để có thể chạm vào nàng nữa. Nàng thậm chí đã quả quyết từ bỏ cả luân hồi, cho dù còn bao nhiêu kiếp sau nữa, cho dù ngươi có biến thành ai cũng không thể gặp lại nàng được nữa.
Nàng đã không còn nữa, đã hoàn toàn rời xa ngươi rồi.
Nỗi đau khổ lớn lao từ trong sâu thẳm tâm hồn dần dần xé toạc chàng ra, lan tỏa từng chút từng chút một, là nỗi tuyệt vọng muộn màng, cả đời chàng chưa từng được nếm trải cảm giác tuyệt vọng. Nếu sớm biết như vậy, sự chịu đựng kìm nén đó của chàng là vì điều gì, nỗi lo ngại của chàng đối với thế tục là vì điều gì, chàng tồn tại là vì điều gì?
Trận cuồng phong kéo tới từ chân trời, ánh sáng ban ngày bỗng chốc bị mây đen che phủ, thanh kiếm dài chặn trận mưa tên bỗng phát ra một luồng huyền quang, những mũi tên bay tới gần đều bị luồng huyền quang thiêu đốt thành tro bụi. Luồng huyền quang sinh ra từ thân kiếm, dần dần lan rộng ra bên ngoài, giống như một lò lửa đáng sợ, những nơi nó đi qua, vạn vật đều trở thành cát bụi. Đây chính là sức mạnh có thể hủy diệt đất trời, chàng không biết bản thân mình có được sức mạnh này từ bao giờ, chỉ là ý muốn vạn vật cùng bị hủy diệt một khi đã nảy sinh thì rất khó thu lại, chàng cũng không hề có ý định thu lại.
Trên đài cao, trong mắt Khuynh Họa và Quất Nặc đầy ắp sự kinh hoàng, nhìn bọn họ yếu ớt không thể chống cự lại như vậy, chàng vô cùng hài lòng. A Lan Nhược đã yên nghỉ tại đây, nơi này có núi non nước biếc, có hoa lá chim muông tôm cá, như vậy rất tốt, nàng đã không thể quay trở lại, vậy thì, đồng táng cùng nàng tại nơi đây chính là kết cục cuối cùng của chàng, cũng sẽ là kết cục cuối cùng của bọn họ.
Luồng huyền quang không lành đó lan qua dòng sông Tư Hành, dòng sông dài cuồn cuộn chảy lặng lẽ bốc hơi, chỉ còn một dòng sông toàn bùn đất, chỉ còn cách đài cao cầu phúc chỉ vài trượng, Quất Nặc đã ngất lịm, duy chỉ còn một mình Khuynh Họa vẫn gắng sức chống đỡ. Trong thời khắc nguy cấp, trong đám mây dày đặc bên đài cao bỗng xuất hiện một bóng người. Tức Trạch thần quân. Dù sao cũng là một đại kiếp diệt tộc, vị Thần Quan Trưởng tiền nhiệm vốn luôn tiêu dao cũng không thể bàng quan đứng nhìn.
Ống tay áo rộng của Thần Quan Trưởng tiền nhiệm áo trắng phấp phới tung bay, tiên khí trác việt nhưng thần sắc lại khó giấu được vẻ mệt mỏi, ngài ấy đã phải dồn toàn lực để khống chế sự lan tỏa của luồng huyền quang, nói với chàng: “Không phải là không còn cách nào cứu A Lan Nhược, nghe nói trên Cửu Trùng Thiên có một thánh vật gọi là đèn Kết Phách, có khả năng tái tạo hồn phách cho người phàm trần, đèn Kết Phách này mặc dù không thể dùng được cho địa tiên như chúng ta, nhưng vạn vật đều có quy luật của nó, theo quy luật của đèn Kết Phách, tạo ra một nơi để nuôi dưỡng linh hồn, tái tạo hồn phách cho A Lan Nhược có gì là không được chứ? Trầm Diệp, ngươi muốn ôm nỗi nuối tiếc đồng táng cùng nàng ở đây hay muốn được gặp lại nàng?”.
Luồng huyền quang đang lan tỏa bỗng chốc dừng lại, khi lời nói của Tức Trạch lọt vào tai chàng, một chút thần trí của chàng đã trở lại, chàng nhìn vị thần quan áo trắng trước mặt, giọng nói khản đặc: “Ta phải làm như thế nào?”.
Tức Trạch hạ thấp giọng: “Ngươi có bằng lòng dùng hết tu vi của kiếp này để tạo ra một thế giới khác cho nàng không? Cho dù ban đầu nàng chỉ là một thân xác giả, cho tới khi ngươi đã bỏ ra đủ lòng kiên nhẫn, tái tạo hồn phách của nàng mới có thể khiến nàng hoàn toàn sống lại được. Ngươi có tình nguyện bỏ ra cả cuộc đời của mình để thực hiện việc này không?”.
Chàng nhìn vị thần quan trước mặt, thần sắc vô cùng bình thản: “Ta đã đánh mất nàng, ngài nói xem, còn điều gì mà ta không thể bỏ ra được chứ?”.