Tam sinh tam thế - Chẩm thượng thư - Phần III - Chương 04 - Phần 2
02.
Đêm
xuống, Phượng Cửu đội một chiếc mặt nạ trên đầu, ngồi xổm bên trong bãi lau sậy
xanh mướt bên hồ, hai mắt sáng lấp lánh quan sát tình hình ở bên ngoài.
Sông
Tư Hành gặp núi Đoạn Trường, bị ngọn núi ngăn lại, thành một cái vịnh tĩnh mịch,
bên trong vịnh trôi rất nhiều đèn hoa cầu nguyện của sơn dân, từng ngọn đèn từng
ngọn đèn như những ánh sao đêm trên bầu trời.
Đêm
nay vừa hay gặp lúc sơn dân gần đó tổ chức ngày lễ Ngọc Nữ Đản (Ngọc Nữ ra đời).
Ngọc Nữ Đản là ngày hội nhân duyên của các cặp nam thanh nữ tú. Nơi đây có một
tập tục có lịch sử hơn vạn năm rồi, cứ vào đêm Ngọc Nữ ra đời, nam nữ trẻ tuổi chưa
lập gia đình đều có thể đeo mặt nạ ra ngoài dạo chơi, giữa thiên nhiên hoang vắng
có thể dùng lời ca, điệu múa để bảy tỏ tình cảm, định mối lương duyên của cả cuộc
đời.
Vì
cần làm một sự kiện trọng đại như vậy, núi Đoạn Trường trong đêm nay nghe nói đã
được phong tỏa.
Phượng
Cửu đưa một ngón tay lên nghịch chiếc mặt nạ trên đầu, mừng thầm trong bụng,
may mà nàng nhanh trí, kiếm được chiếc mặt nạ này, đêm nay đội nó lên đầu, bí mật
chuồn vào trong núi chẳng phải dễ như trở bàn tay hay sao?
Một
cơn gió thổi qua mặt nước, Phượng Cửu hắt xì hơi một cái, rút khăn tay trong
tay áo ra lau nước mũi, khi ngước mắt nhìn lên, đã thấy Tức Trạch áo tím mà Tô
Mạch Diệp đóng giả thong thả đứng trước hố nước mà nàng đã đào ban chiều.
“Ngọn
liễu mảnh trăng treo/ Hoàng hôn người hẹn ước”(*). Chưa đến một khắc sau, thiếu
nữ áo xanh cũng nhẹ rảo gót sen thướt tha bước tới, vừa hay lại dừng bước ngay
trước hố nước đã được dùng chướng nhãn pháp, trong ánh đèn ánh lửa của tiều phu
và ngư dân, đắm đuối nhìn Tô Mạch Diệp.
(*) Hai câu thơ trên do
Nguyễn Xuân Tảo dịch. Nguyên tác là: Nguyệt thướng liễu tiêu đầu, Nhân ước
hoàng hôn hậu. Đây là hai câu thơ được trích trong bài thơ Sinh tra tử - Đêm
nguyên tiêu của Âu Dương Tu - một nhà thơ nổi tiếng thời Bắc Tống của Trung Quốc.
Phượng
Cửu nắm chặt tay lại thầm cầu khẩn: “Thêm một bước nữa, thêm một bước nữa...”.
Thường
Đệ trong bộ váy áo màu xanh lại cứ đứng yên tại chỗ, bẽn lẽn xấu hổ, cất giọng
yểu điệu thổ lộ nỗi lòng: “Bức thư mà Tức Trạch đại nhân gửi cho Thường Đệ, Thường
Đệ đã đọc rồi, trong thư, đại nhân nói rằng đã ngưỡng mộ Thường Đệ từ lâu, ngày
nào cũng trằn trọc nhớ tới Thường Đệ, đêm xuống không thể ngủ...”.
Phượng
Cửu nhìn thấy cơ thể của Tô Mạch Diệp khẽ lảo đảo trong gió đêm.
Thường
Đệ xấu hổ ngẩng đầu lên: “Đại nhân còn nói ban ngày nhiều người qua lại, không
thể ngắm kỹ Thường Đệ được, nên mới cố ý mời Thường Đệ đến đây để giải nỗi
tương tư, nhưng lại e mạo phạm Thường Đệ...”.
Phượng
Cửu nhìn thấy cơ thể của Tô Mạch Diệp lại khẽ lảo đảo trong gió đêm.
Ánh
mắt của Thường Đệ dịu dàng, lời nói nhẹ nhàng nũng nịu: “Bây giờ Thường Đệ đã tới
rồi, sao đại nhân chỉ nhìn người ta mà không nói một lời nào. Đại nhân, đại
nhân cứ nhìn người ta chăm chú như vậy, thật… thật khiến người ta xấu hổ chết
đi được...”.
Phượng
Cửu thấy cơ thể của Tô Mạch Diệp lại lảo đảo thêm một lần nữa, sau đó còn lùi lại
phía sau một bước, vội vàng thầm động viên chàng ta: “Mạch thiếu gia, hãy cố chịu
đựng”.
Thường
Đệ chăm chú nhìn Tô Mạch Diệp, ánh mắt đắm đuối, uyển chuyển nở một nụ cười:
“Thực ra đại nhân hà tất phải lo lắng sẽ mạo phạm Thường Đệ, đối với đại nhân,
Thường Đệ cũng...”. Nàng ta không kìm lòng được bước lên một bước.
“Á...”.
Thường
Đệ rơi xuống hố nước.
Phượng
Cửu ngây người, sau khi phản ứng lại, lau khô mồ hôi trên trán, thấy Tô Mạch Diệp
vẫn đứng sững trước miệng hố, nàng nhảy lên từ bụi lau sậy, ra hiệu bằng tay
cho chàng ta, ý muốn nói rằng con mồi đã vào bẫy, mặc dù vào một cách hơi bất
ngờ nhưng bước tiếp theo chàng ta cần nhảy vào hố nước cứu người. Tô Mạch Diệp
nhìn ám hiệu bằng tay của nàng, chần chừ trong giây lát, biến cây tiêu luôn
mang theo bên mình dài ra hai trượng, chọc chọc xuống hố nước.
Trong
hố vang lên giọng nói vô cùng ấm ức của Thường Đệ: “Đại nhân, ngài chọc vào đầu
của Thường Đệ rồi…”. Tô Mạch Diệp vội vàng chọc thêm vài cái nữa rồi mới chậm
rãi nói: “Ồ, xin lỗi, xin lỗi, vậy nàng hãy bám vào cây gậy này mà leo lên đi,
sao nàng đi lại không cẩn thận như vậy, để ta đưa nàng đi thay đồ”.
Phượng
Cửu chui lại vào trong đám lau sậy, qua kẽ hở của đám lau sậy, thấy Thường Đệ cả
người ướt sũng bám vào cây tiêu của Tô Mạch Diệp leo lên bờ, thút tha thút thít
đi theo sau Tô Mạch Diệp, bước về phía chiếc thuyền đã được nàng cho đậu ở đó từ
trước.
Chuyện
này quá trình có phần trúc trắc nhưng cuối cùng cũng xong, coi như đã thành
công được một nửa, chỉ có điều đoạn phía sau, Mạch thiếu gia dường như phát huy
không được ổn định. Phượng Cửu thầm suy nghĩ lại trong đầu, lẽ nào, bức thư
tình giả mạo nét bút của Tức Trạch viết cho Thường Đệ quả nhiên đã quá “liều”,
đến nỗi một công tử nhiều kinh nghiệm trên tình trường như Mạch thiếu gia cũng
có chút không chịu nổi? Nếu sau này có một ngày, Tức Trạch biết rằng mình đã mạo
danh của ngài ấy để viết bức thư tình này cho Thường Đệ, không biết ngài ấy có
chịu đựng nổi không.
Phượng
Cửu thở dài một tiếng, hơi thở vừa thoát ra khỏi miệng, một giọng nói liền vang
lên ngay bên cạnh: “Ngươi ở đây làm gì vậy?”.
Phượng
Cửu quay đầu lại nhìn, thấy người vừa đến, vui vẻ cười nói: “Đương nhiên là đợi
ngài rồi, chẳng phải đã nói là sau khi xong việc sẽ đưa ngài đi ngắm hoa nguyệt
lệnh hay sao?”.
Đưa
mắt nhìn về phía chiếc thuyền nhỏ: “Ngài cũng nhanh nhẹn thật đấy, không phải
là vừa đưa Thường Đệ vào trong thuyền đã quay ra ngay đấy chứ?”.
Quay
đầu lại nhìn chàng: “Sao vẫn còn giữ nguyên hình dáng của Tức Trạch thế này, biến
trở lại đi, quanh đây đâu có ai khác”.
Vạch
đám lau sậy bước đi hai bước, lại quay trở lại rút ra một chiếc mặt nạ bằng gỗ
bách, đưa tay đeo lên khuôn mặt vẫn là khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của Tức Trạch:
“Suýt nữa thì quên mất, muốn vào trong núi ngắm hoa nguyệt lệnh, phải đeo cái
này vào, ta cũng kiếm cho ngài một cái. Ngài không biết đường, hãy bám sát theo
ta”.
Vỗ
vỗ vào vai của chàng: “Đúng rồi, nếu có cô nương lạ mặt nào cất tiếng hát mời gọi
ngài, hãy nhớ kỹ tám chữ ‘Bảo toàn bản nguyên, giữ vững tiên căn’, nếu có chàng
trai lạ mặt nào tới cướp ta, cũng nhớ kỹ mấy chữ này, ‘Đừng khách khí, hãy đánh
cho hắn ta một trận nhừ tử’. Chặng đường này của chúng ta trước sói sau hùm, đầy
rẫy nguy hiểm, cần phải quan tâm chăm sóc nhau, khụ khụ, đương nhiên, thực ra
chủ yếu vẫn là ngài lưu tâm chăm sóc cho ta”.
Tô
Mạch Diệp ừ hữ một tiếng.
Phượng
Cửu nghiêng đầu: “Sao giọng nói của ngài nghe vẫn còn giống giọng nói của Tức
Trạch vậy? Chẳng phải đã bảo ngài hãy biến trở lại hay sao?”. Ngửa cổ nhìn lên
trời, lại nói: “Thôi được rồi, được rồi, cũng không còn sớm nữa, chúng ta phải
nhanh lên một chút, nếu không sẽ không thể nhìn thấy đâu”.
Vào
sâu trong núi, ngày càng tối hơn, bầu trời đêm xuân cũng không có lấy một vì
sao, Phượng Cửu phải dùng một viên minh châu để soi đường, thấy rừng cây rậm rạp
dọc hai bên đường, cũng tạo thành một phong cảnh khá đẹp mắt.
Địa
danh vịnh Minh Khê là do Phượng Cửu đọc được trong một cuốn sách cổ ở trong
cung, sách cổ ghi chép rất cẩn thận, bên trên còn có thêm một bức tranh vẽ bản
đồ hướng dẫn tỷ mỉ. Tấm bản đồ đó hiện giờ đang nằm trên tay của Phượng Cửu,
phát huy tác dụng chỉ đường.
Núi
Đoạn Trường tổ chức ngày hội hợp hoan, Nguyệt Lão lại rất không hợp tác, cả vòm
trời Cửu Thiên như được chụp lên một cái lồng chụp đen sì, Nguyệt Lão nấp phía
sau cái lồng chụp đó, ngay cả một sợi râu cũng không để lộ ra ngoài, làm Phượng
Cửu đi đứng loạng choạng suốt dọc đường.
Càng
vào sâu trong núi, dân cư lại càng thưa thớt, thi thoảng vang lên vài tiếng hổ
gầm sói hú, Phượng Cửu cảm khái lần này đưa cái đuôi Tô Mạch Diệp đi theo trợ
giúp, quả rất anh minh.
Tiếng
hát trong trẻo bị bỏ lại rất xa sau lưng, khi vào trong vịnh Minh Khê, đập vào
mắt: bốn bề đen kịt, đập vào tai: tám hướng tĩnh mịch, hoàn toàn khác với vẻ phồn
hoa náo nhiệt nhuốm màu hồng trần phía trước núi.
Phượng
Cửu thu viên minh châu vào trong tay áo, nằm xuống cạnh một vạt cỏ hơi ướt
sương đêm, gọi Tô Mạch Diệp qua đó cùng nằm. Cách đó vài bước chân vang lên tiếng
động chậm rãi, dường như Mạch thiếu gia đã nghe theo sự chỉ giáo của nàng.
Mạch
thiếu gia đêm nay trầm lặng, Phượng Cửu vốn cho rằng là do bức thư tình mà Thường
Đệ đọc, ban nãy trên đường đi, nghe thấy mấy khúc hát từ rừng cây vọng lại,
nàng nghe được đoạn đầu và đoạn cuối. Hai đoạn là bốn câu như thế này: “Phu thê
kết tóc xe tơ/ Ái ân thắm thiết chẳng ngờ lẫn nhau/ Sống còn, trở lại gặp nhau/
Chết đi vĩnh viễn ôm sầu tương tư”(*). Khúc hát uyển chuyển bay vào tai nàng,
trong giây lát giống như được linh quang chiếu rọi lên đầu, nàng mới hiểu ra.
(*) Đây là bốn câu thơ
trong bài thơ Thơ từ biệt kỳ 2 của tác giả Tô Vũ, người dịch: Nham Doanh Doanh.
Nguyên tác âm Hán Việt là: Kết phát vi phu phụ/ Ân ái lưỡng bất nghi/ Sinh
đương phục lai quy/ Tử đương trường tương tư.
Mạch
thiếu gia là ai? Một công tử phong lưu tao nhã đi qua cả vạn bụi hoa nhưng một
chiếc lá cũng không dính thân, chẳng qua chỉ là một bức thư tình hơi quá vượt
ra ngoài khuôn khổ phép tắc, làm gì kinh động đến nỗi khiến chàng ta yên lặng
suốt cả chặng đường? Mạch thiếu gia không nói gì, chính là do thấy cảnh đêm đẹp
đẽ, ngọc nhân song toàn, nhớ tới A Lan Nhược đã mất, vì vậy mới đau lòng không
nói lời nào.
Bỏ
mặc Mạch thiếu gia một mình bế tắc trong sự cô đơn không phải là hành động của
một người bạn, nên nhanh chóng tìm một chủ đề nào đó lôi kéo sự chú ý của chàng
ta mới phải.
Màn
đêm đen kịt tĩnh mịch dội vào tầm mắt, Phượng Cửu khẽ ho một tiếng, phá vỡ sự
yên lặng, nói với Mạch thiếu gia: “Trong sách nói hoa nguyệt lệnh nở vào cuối
giờ Tuất, khả năng còn phải đợi một lúc nữa. Có một bài ca dao nói về hoa nguyệt
lệnh, ngài đã từng được nghe chưa?”. Vừa nói vừa dùng ngón tay gõ lên thảm cỏ
làm nhịp phách, cất giọng hát: “Nguyệt lệnh hoa, tuyết trên trời, hoa mới nở,
đã sắp tàn, một khắc nở, một khắc tàn. Trăng lên không gặp hoa, hoa nở không gặp
trăng, nguyệt lệnh hoa không biết, hoa cũng không biết trăng, một khắc trước vừa
nở, một khắc sau đã tàn”.
Phượng
Cửu thuở nhỏ lười biếng, những môn học chính học rất dốt, khiến Bạch Chỉ Đế
Quân vô cùng đau đầu, nhưng lại rất có tư chất về ca vũ, hồi nhỏ cũng thích thể
hiện, chỉ là sau này theo cô cô Bạch Thiển đọc mấy cuốn truyện, cho rằng ca vũ
trước mặt người khác là hành vi của con hát, sau đó không múa hát nữa. Đêm nay,
để an ủi Tô Mạch Diệp, không ngại làm con hát trước mặt chàng ta, Phượng Cửu tự
thấy mình vì bạn bè mà hy sinh lớn lao như vậy, thật là hào sảng, thật là trượng
nghĩa.
Lời
ca rất bi thương, Phượng Cửu cũng hát rất xúc động, Tô Mạch Diệp nghe xong, lại
chỉ lạnh lùng buông một câu: “Hát không tồi”, sau đó không nói gì nữa.
Đêm
nay Mạch thiếu gia có chút khó chiều, nhưng chàng ta như vậy, lại càng cần đến
sự an ủi của nàng. Nhìn đêm đen như mực, Phượng Cửu cố tìm chủ đề tiếp tục nói:
“Ta thực ra cũng không hứng thú lắm với các loại hoa cỏ, nhưng lại muốn ngắm loại
hoa nguyệt lệnh được ghi chép trong sách vở này. Có thể ngài không biết, nghe
nói loại hoa này chỉ nở vào đúng dịp Ngọc Nữ Đản, khi hoa nở không được gặp ánh
trăng, vì vậy hàng năm, vào thời điểm này đều không có trăng. Thực ra, so với
hoa nguyệt lệnh, ngài và A...”.
Cái
tên A Lan Nhược đã lên đến miệng, Phượng Cửu lại nuốt vào trong. Mạch thiếu gia
lúc này đang đau khổ vì tình, đau khổ vì A Lan Nhược, theo kinh nghiệm của
nàng, lúc này không nên nhắc đến cái tên A Lan Nhược sẽ tốt hơn. Nàng tự cho rằng
mình rất thông tuệ khi lấy từ “nàng ấy” để thay thế, nói: “Ngài và nàng ấy, hai
người từng có hồi ức với nhau đã là rất tốt rồi, ngài xem loài hoa nguyệt lệnh
này, nghe nói thực ra nó luôn rất muốn được nhìn thấy ánh trăng, nhưng trăng
lên không gặp hoa, hoa nở không gặp trăng, luôn luôn không gặp được nhau, hữu
tình nhưng lại vô duyên, đây chẳng phải là một chuyện bi thương hơn hay sao?”.
Tô
Mạch Diệp không trả lời, yên lặng một lát, Phượng Cửu định nói tiếp, lời nói lại
tan biến trong ánh sáng bỗng nhiên từ từ xuất hiện, nàng nhất thời trợn tròn
đôi mắt.
Ánh
sáng từ từ xuất hiện soi rõ cảnh sắc bốn xung quanh, một dòng suối uốn lượn vạch
ra một cánh đồng hoa rộng lớn, giữa những cụm cây hoa nguyệt lệnh, những bông
hoa cánh kép nhỏ xíu kết lại tạo thành chùm hoa, phát ra thứ ánh sáng trắng
mông lung, rời khỏi đầu cành lả lướt bay vào không trung, dường như nhuốm một lớp
ánh trăng và sương đêm. Một dải cánh đồng hoa giống như một mảnh trời nhỏ bé,
những đóa hoa lơ lửng giữa không trung trải thành một dải tinh hà lóng lánh.
Hóa
ra đây chính là cảnh sắc khi hoa nguyệt lệnh nở. Cảnh đẹp như thế này, chưa từng
được thấy ở Thanh Khâu, ngay cả ở Cửu Trùng Thiên cũng chưa từng được thấy.
Phượng
Cửu xúc động nghiêng đầu nhìn Tô Mạch Diệp, thấy Mạch thiếu gia đang gối đầu
lên cánh tay, vẫn vô cùng trầm lặng, trầm lặng một cách rất phong độ. Phượng Cửu
không kìm được, thầm than thở trong lòng, khiến một lãng tử tình trường bị tổn
thương tới mức độ này, đã hơn hai trăm năm trôi qua rồi, vị lãng tử này vẫn đau
lòng như vậy, A Lan Nhược quả là một nhân tài.
Nhìn
Mạch thiếu gia ủ rũ cô đơn không nói một lời, Phượng Cửu không nỡ nhẫn tâm,
nhích lại gần, chỉ cách Tô Mạch Diệp một bàn trà, đưa tay chỉ vào những đóa hoa
nguyệt lệnh đang bay lượn như tuyết rơi trên không trung, quyết tâm thực hiện đại
nghiệp an ủi tới cùng: “Oa, ngài nhìn xem, tại sao hoa nguyệt lệnh nở lại đẹp
như vậy, bởi vì đêm nay không có gì cả, chỉ riêng một mình hoa nở, chỉ có một
màu sắc ánh sáng duy nhất, mắt chúng ta chỉ có thể nhìn thấy nó, vì vậy mới cho
rằng nó đẹp nhất”.
Nàng
quay đầu sang nhìn chiếc mặt nạ trên mặt của Tô Mạch Diệp, chân tình khuyên nhủ:
“Đã bao nhiêu năm qua mà ngài không có cách nào quên được nàng ấy, bởi vì ngài
không để bất cứ thứ gì trong hồi ức của mình, chỉ có nàng ấy, ngài chủ động xóa
nhòa tất cả những thứ khác, nàng ấy lại càng hiện rõ hơn, sâu đậm hơn, khiến
ngài càng đau khổ hơn”. Nàng nghiêm túc ra dấu: “Nhưng thực ra như vậy là không
đúng, ngoài nàng ấy ra còn có rất nhiều người khác, nhiều việc khác, nhiều thứ
khác, đôi khi chấp niệm của chúng ta quá sâu sắc, thực ra là bởi vì một chiếc
lá che khuất tầm nhìn. Mạch thiếu gia, không phải ngài không hiểu, ngài chẳng
qua chỉ là không muốn gạt chiếc lá đó ra mà thôi”. Nói đến nước này, một người
thấu triệt như Mạch thiếu gia nếu vẫn không thể hiểu ra, đạo nghĩa nàng cũng đã
tận, lười không muốn tốn lời chỉ bảo nữa.
Không
ngờ Mạch thiếu gia lại mở lời. Hoa nguyệt lệnh không ngừng nở rộ rồi úa tàn, giống
như thời gian đang dần trôi đi, trong làn ánh sáng ấy, Mạch thiếu gia lạnh lùng
nói: “Chỉ giữ một người trong ký ức có gì không thỏa đáng? Những người khác, có
đáng để ta phải đặc biệt chú ý không?”.
Mạch
thiếu gia có thể nói ra những lời như vậy, kỳ thực Phượng Cửu cảm thấy rất khâm
phục. Trong sự khâm phục lại dấy lên cảm giác thương cảm, bất giác dịu giọng
nói: “Ngài chung tình trước sau như một như vậy, quả là hiếm thấy, nhưng so với
việc để nàng ấy trong tim và chịu đau khổ như vậy...”.
Mạch
thiếu gia ngắt lời nàng, trong giọng nói có chút khó hiểu: “Ta đau khổ khi
nào?”.
Phượng
Cửu thông cảm cho Mạch thiếu gia nói cứng, không muốn bị người khác nhìn thấy sự
yếu đuối của bản thân mình, phụ họa: “Ta hiểu, ta hiểu, cho dù đau khổ, đây
cũng không phải là nỗi đau khổ thông thường, đó là một nỗi đau khổ ngọt ngào.
Ta đều hiểu cả, đều hiểu cả, nhưng nỗi đau khổ ngọt ngào lại càng dễ giày vò
trái tim con người, mới không thể nhìn mà không thấy, mới biết kiểu đau khổ này
mới chính là thứ ghê gớm nhất, xuyên thẳng vào trái tim...”.
Mạch
thiếu gia lặng lẽ ngắt lời: “... Ta thấy ngươi không hiểu rõ lắm”.
Phượng
Cửu cau mày: “Haizz, đau thì cũng đau rồi, nam tử hán đại trượng phu, làm gì mà
so đo như vậy, dám đau thì phải dám thừa nhận”. Chợt nhận thấy lúc này đang an ủi
người khác, cần phải dịu dàng một chút, cố gắng giãn lông mày, đau xót nói:
“Ngài như thế này, chính là đang trốn tránh, nếu không đau khổ, sao tối nay
ngài lại không nói nhiều với ta như mọi khi?”.
Mạch
thiếu gia dường như quay đầu sang nhìn nàng một cái, sau đó lật người, yên lặng.
Trái
tim của Phượng Cửu giật thót, chắc không phải là do bản thân mình đã nhìn thấu
vấn đề, tinh tường nhìn ra tâm sự chôn sâu trong lòng của Mạch thiếu gia, khiến
chàng ta xấu hổ quá mà tức giận đấy chứ?
Ồ,
đã tức giận rồi, có một việc nàng quả thực rất hiếu kỳ, nàng đã từng được nghe
rất nhiều tin đồn về A Lan Nhược, A Lan Nhược rốt cuộc như thế nào, nàng lại
không hề hay biết, nhân lúc chàng ta đang có chút phẫn nộ, chưa biết chừng có
thể lừa chàng ta nói ra được một vài câu thật lòng.
Phượng
Cửu làm ra vẻ hòa nhã, hờ hững nói: “Ban nãy ngài nói, chỉ muốn giữ một mình
nàng ấy trong ký ức, nàng ấy là người như thế nào?”.
Đêm
tĩnh mịch, không biết từ nơi nào phía trước núi vọng lại tiếng hát trong trẻo,
văng vẳng thướt tha, rất mơ hồ. Khi Mạch thiếu gia mở miệng nói, giọng rất nhỏ,
nhưng nàng lại nghe thấy rõ ràng.
“Rất
đẹp”, chàng ta nói, “Lớn lên sẽ càng xinh đẹp hơn”, dừng lại một chút, bổ sung
thêm, “Tính cách cũng tốt”. Dường như đang chìm vào một hồi ức nào đó, nói:
“Cũng rất giỏi. Phương diện nào cũng giỏi”. Tổng kết lại: “Nói tóm lại là điểm
nào cũng tốt”. Lại giống như tự nói với bản thân mình: “Ta lựa chọn, đương
nhiên điểm nào cũng rất tốt”.
Phượng
Cửu thầm nhắc lại mấy câu nói đó của Mạch thiếu gia một lượt, lại thêm một lượt
nữa. Ngoại hình đẹp, tính cách tốt, lại giỏi giang. Thảo nào A Lan Nhược tuổi
còn trẻ như vậy mà đã hồn về Ly Hận Thiên, có một câu nói là ông trời đố kỵ kẻ
hồng nhan, người như vậy sớm bị ông trời thu về quả thực không thể oán thán được.
May mà nàng và cô cô chỉ có ngoại hình đẹp, tính cách cũng không được coi là
quá tốt, cũng không được coi là quá giỏi giang. Nhưng Mạch thiếu gia lại nói một
cách vô cùng trân trọng như vậy, Phượng Cửu cảm thấy không thể bỏ mặc chàng ta,
nên đáp lại một câu, lại không biết nên đáp lời chàng ta như thế nào, lầm bầm:
“Trước đây ta cũng từng thích một người, trong ấn tượng dường như người ấy có
ngoại hình cũng rất đẹp, nhưng quả thực phải coi là một con người tồi tệ”, nói
thêm một câu, “Vì vậy chàng ta có thể sống rất lâu”.
Mạch
thiếu gia phụ họa theo một cách chẳng có ý nghĩa gì: “Có ta, nàng ấy cũng có thể
sống rất lâu”.
Phượng
Cửu thầm thở dài, câu nói này của Mạch thiếu gia, tuy trong giọng nói không
toát lên sự đau khổ tiếc nuối nào, nhưng nỗi đau không thể biểu lộ ra ngoài chắc
chắn là một nỗi đau cùng cực. Năm xưa nếu như có Mạch thiếu gia ở đó, với khả
năng của Mạch thiếu gia, tất nhiên có thể bảo vệ được A Lan Nhược, chỉ có thể
than thở một câu số mệnh đùa giỡn con người, khi Mạch thiếu gia nói câu này,
không biết đã tự oán trách bản thân mình bao nhiêu nữa.
Mạch
thiếu gia si tình biết bao. Mạch thiếu gia đáng thương biết bao.
Ngắm
nhìn hoa nguyệt lệnh lụi tàn theo gió, giống như ánh sao băng, một màn hoa nở rộ
rồi lập tức tàn lụi, rất đúng với sáu chữ: một khắc nở một khắc tàn.
Tô
Mạch Diệp đứng dậy trước, nói: “Đi thôi”.
Phượng
Cửu cũng đứng lên, chỉnh trang lại váy áo, khi ngẩng đầu lên, lại bỗng sững sờ
trong ánh sáng của hoa nguyệt lệnh đang tàn. Ban nãy khi nằm trên thảm cỏ, nàng
không quá chú ý, giờ đây đứng mặt đối mặt với nhau, lại thấy chiếc mặt nạ với
hoa văn tinh tế đã che kín khuôn mặt của Tô Mạch Diệp, nhưng mái tóc bên ngoài
mặt nạ vẫn là một màu trắng sáng như ánh trăng.
Một
ý nghĩ lóe lên trong đầu nàng, giống như vang lên một tiếng sấm, nàng sững sờ
chấn động.
Hồi
lâu, trong ánh sáng dịu dàng như sương mù buổi sớm, nàng đưa tay lên trước mặt
vị công tử áo tím, bàn tay run rẩy thả lỏng, chiếc mặt nạ trên khuôn mặt của vị
công tử rơi xuống theo, ánh sáng còn sót lại của những đóa hoa biến thành những
đốm sáng vương trên cành cây, trên bãi cỏ, trên người họ. Giữa những đốm sáng
khi mờ khi tỏ, Phượng Cửu lạc giọng nói: “Tức Trạch thần quân?”. Thấy vị công tử
kia yên lặng, lại nói: “Sao ngài lại lừa ta?”.
Vị
công tử đưa một tay ra đỡ chiếc mặt nạ đang rơi xuống, lạnh lùng nói: “Ta chưa
từng nói mình là Mạch tiên sinh - sư phụ của ngươi”.