Luận Anh Hùng - Phần IV - Chương 19 - phần 1

III.
Một thời đại hết thuốc chữa

Thực ra, rất nhiều người thừa nhận chính
tích của Hải Thụy.

Sau khi Hải Thụy bị miễn chức tuần phủ Ứng
Thiên, người kế nhiệm là Chu Đại Khí. Cao Củng và Trương Cư Chính luôn có thư
cho Chu Đại Khí, bàn về chuyện phải như thế nào với chính sách của Hải Thụy.
Cao Củng và Trương Cư Chính tuy là địch thủ, đều chủ trương bãi miễn Hải Thụy,
nhưng gần như đều nhất trí đánh giá cao Hải Thụy. Thứ nhất, không thể phủ nhận
toàn bộ những việc Hải Thụy đã làm, Cao Củng ngay từ đầu đã nói rõ ý chính:
“Những việc Hải Thụy đã làm, nếu nói đúng cả, chưa hẳn; nếu nói sai cả, cũng
chưa hẳn”. Thứ hai, bọn họ đều cho rằng, mục đích của Hải Thụy là “trừ ác”,
động cơ là “vì dân”, chỉ có cách làm là chưa thỏa đáng. Thậm chí Trương Cư
Chính còn dùng khẩu khí biện giải thay cho Hải Thụy: “Cách làm tuy có quá đáng,
nhưng lòng dạ lại vì dân”, tóm lại xuất phát điểm của động cơ là rất tốt. Thứ
ba, bọn họ đều cho rằng chính sách của Hải Thụy chỉ có thể điều chỉnh, không
thể vứt bỏ. Trương Cư Chính có phần khách khí hơn, nói: “Sau khi xuống tuyết,
cho thêm hơi ấm, người ta sẽ hoài xuân, chẳng cứ phải thay đổi hết phép tắc để
theo người”. Cao Củng lại nói như đinh đóng cột: “Nếu không điều chỉnh chỗ quá
khích, bất cận nhân tình của ông ta thì hẳn là không được, nếu lại bỏ hết chỗ
đau xót vì tệ nạn, làm chủ cho dân, thì lại càng không được”. Cái chữ “càng”
trong “càng không được” chỉ rõ, điều khẳng định của Cao Củng về việc làm của
Hải Thụy nhiều hơn hẳn những điều phủ định, thậm chí còn không muốn phủ định
những chỗ chưa đủ của Hải Thụy, cũng không thể phủ nhận phương hướng loại bỏ tệ
nạn, làm chủ cho dân của Hải Thụy.

Xem ra, không thể coi Cao Củng và Trương Cư
Chính là hai kẻ xấu, càng không phải là những kẻ tầm thường. Họ đều rất tỉnh
táo, rất hiểu biết. Cả hai đều không vì chán ghét con người Hải Thụy mà phủ
nhận nhân phẩm, nhân cách của Hải Thụy cùng những phương hướng chính xác của
Hải Thụy, cũng không vì Hải Thụy đã bị bãi quan mà như đá ném xuống giấy, truy
bức tới cùng, nói là Hải Thụy sai lầm hoàn toàn. Hai vị nguyên lão này có phần
như là “chèo thuyền trong bụng tể tướng”. So ra thì, Hải Thụy có phần trẻ con
khi chửi mắng tất cả.

Điều mà Cao Củng, Trương Cư Chính không hợp
với Hải Thụy chính là phương thức và phương pháp. Cao Củng nói Hải Thụy là “quá
khích”, Trương Cư Chính nói là “quá đáng”, về phần mình, Hải Thụy có cảm giác
là chưa đủ. Với vẻ lo nghĩ, buồn rầu, Hải Thụy từng nói, lúc này chữa bệnh cho
đất nước chỉ còn một vị thuốc là: Cam thảo. Thuốc để xử thế chỉ là hai chữ:
Hương nguyện! Hương nguyện còn là hương nguyên, Mạnh Tử định nghĩa là: “Hòa
cùng thói tục, hợp với đời dơ, ăn ở dường như trung tín, hành động dường như
liêm khiết, mọi người đều ưa thích, tự cho là phải, mà không thể cùng vào đạo
của Nghiêu Thuấn”. Rõ ràng, hương nguyện là giả dối, là phô diễn, lấy lòng bốn
phương, lung lạc tán thưởng, không nói tới nguyên tắc, bề ngoài là liêm khiết,
tự khép mình, thực tế là cùng với hủ tục, hợp với đời bẩn. Người như vậy, kê
đơn chữa bệnh cho đất nước, đương nhiên, chỉ có môt vị ngon ngọt là cam thảo,
trị không khỏi bệnh và cũng trị không chết người. Hải Thụy cho rằng phải dùng tới loại thuốc mạnh.
Hải Thụy có tấu sớ dâng lên hoàng đế Gia Tĩnh, đó chính là vị thuốc mạnh, vị
dẫn thuốc là sinh mạng của chính mình. Hải Thụy hy vọng vị thuốc đó có thể làm
cho hoàng đế bừng tỉnh và đất nước phấn chấn lên. Tiếc là bệnh về thể xác và tư
tưởng của vị hoàng đế đã nhập vào xương rồi, cuối cùng thì ô hô mất mạng. Chả
trách, khi được tin, Hải Thụy đã khóc rống lên, Hải Thụy khóc vì cái chết của
hoàng đế và cũng khóc vì phương thuốc đó không hiệu nghiệm.

Lúc này, khó khăn lắm Hải Thụy mới có cơ
hội chữa bệnh cho đất nước, đương nhiên không thể bỏ qua. Vì vậy, vừa đến nhận
chức tuần phủ Ứng Thiên, Hải Thụy đã giơ dao múa búa, sấm chớp vang trời, thậm
chí không sợ sửa sai quá mức. Lúc Từ Giai vừa hoàn trả ruộng đất, lẽ ra Hải
Thụy đã nên thôi. Vì nó đã có ảnh hưởng tốt, lũ đại địa chủ như Thẩm Khải thấy
ngay cả với Từ Giai Hải Thụy cũng không bỏ qua, đành phải chủ động hoàn trả số
ruộng đất đã cướp đoạt. Lúc đó Hoàng Nhân Vũ cũng nói: “Nếu Hải Thụy dùng
phương thức trừng trị một cảnh cáo trăm, tuyên truyền rộng rãi án của Từ gia và
một số kẻ khác làm gương, bọn nhà giầu lừa dối người nghèo sẽ phải khiếp sợ”,
thế thì “trong không khí ngoài cứng trong mềm, Hải Thụy sẽ thành công(1)”, nhưng Hải Thụy gần như không
hiểu “đạo của văn võ là khi cứng thì mềm”, nhiệt tình làm việc của Hải Thụy
không chỉ không giảm, mà còn gấp bội mỗi khi nghe tin thắng lợi. Hải Thụy thấy
không vui, nếu chỉ ngồi ở nha môn nhận đơn tố giác (như đã nói, mỗi tháng có
tới bảy, tám ngàn lá đơn), Hải Thụy còn đến tận phủ huyện để nghe tố tụng, hỏi
han từng đơn, thẩm lý từng đơn, đã làm là làm tiếp, dây cương đấu tranh ngày
một căng.

(1)
Hoàng Nhân Vũ, “Mười năm vạn lịch”, trang 142 (Tác giả).

Chỉ riêng Hải Thụy mới có nhiệt tình đó. Sở
dĩ phải làm việc như điên như dại, vì vừa chân ướt chân ráo đến nơi, Hải Thụy
đã phát hiện thấy những việc cần làm đang rối như tơ vò và cần phải chấn hưng
ngay mọi việc đã bê trệ. Hải Thụy thấu hiểu, một người không phải là tiến sĩ,
không có chỗ dựa là các ông lớn, được gánh vác trọng trách là điều đặc biệt trong
những điều đặc biệt, vậy chỉ còn cách là ra sức làm việc, mới có thể báo đáp
đất nước, không phụ hoàng ân. Hơn nữa, lúc này Hải Thụy đã hơn năm mươi tuổi,
thời gian làm việc không còn nhiều, đúng là “thời gian không biết chờ đợi”. Vì
vậy Hải Thụy luôn bị áp lực, giống như Hàn Dũ năm nào “muốn làm thánh minh trừ
thói tệ, chịu đan mục nát tiếc năm tàn”. Ngoài ra, Hải Thụy còn có suy nghĩ:
Trên đời này không có bữa tiệc nào là không tàn, không có chức quan nào là mãi
mãi, Hải Thụy này lại càng như thế, chỉ có thể một ngày làm quan thì một ngày
phải hết sức, có thể làm được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu. Để đẩy nhanh tiến độ
công trình trị thủy sông Tùng Giang, Hải Thụy cho dựng văn phòng làm việc ngay
tại công trường, cho giết ba tên giám quan bất lực và thi thể của chúng được
cuốn chiếu, chôn trước văn phòng. Kết quả, tiến độ công trình trở nên rất
nhanh. Một viên tuần án ngự sử vốn muốn cản trở và hãm hại Hải Thụy chưa kịp ra
tay thì công trình đã hoàn thành. Viên tuần án nọ chỉ còn biết ôm đầu thở dài:
“Công trình để đời đã bị hắn giành mất”. Đương nhiên, khi viên tuần án kia cho
người đào mồ ba kẻ bị giết, thấy có ba con lợn béo, ba tên giám quan đã được
Hải Thụy giấu ra nơi khác.

Công trình thủy lợi có thể được tiến hành
khẩn trương như vậy, nhưng công trình chính trị thì không hề đơn giản. Lúc này
nhìn lại, thấy việc làm của Hải Thụy lúc đó có phần giản đơn. Hải Thụy thụ án
nhiều đến như vậy, cũng có thể coi là đơn giản. Nhưng vấn đề đụng tới lại là
những vấn đề hết sức phức tạp: Như là đo đạc lại ruộng đất, hoàn trả nông điền,
bình phản oan ngục, chỉnh đốn trị an, sửa sang thủy lợi, giải tán mộ binh,
chỉnh đốn lại trị, khảo hạch quan viên, quyết định một loại thuế mới, đâu đâu
cũng là việc cũ, ăn sâu bám rễ rất khó bỏ, đã tiến hành là động tới toàn thể, nhưng
lực lượng của Hải Thụy lại rất mỏng, đã không có điều khoản pháp luật chính
xác, cũng không có cơ cấu chuyên môn đắc lực, chỉ bằng vào nhiệt tình chính
trị, cùng những trực giác về thiện và ác, đã hy vọng nhanh chóng gỡ hết mớ bòng
bong, chỉ một buổi đã thanh trừ hết những tệ nạn của trăm năm, điều đó không
thể thành công, đương nhiên không cần phải nói.

Bọn chúng thường lấy việc Hải Thụy cải cách
ở Ứng Thiên để hạch tội Hải Thụy, chúng ra tay rất hăng và khí thế ghê gớm. Cấp
sự trung Đới Phượng Tường còn nói bừa, dưới sự cai trị của Hải Thụy, tá điền
không dám nộp tô cho nghiệp chủ, người vay tiền không dám trả lại, dân gian lưu
truyền câu nói “trồng ruộng tốt không bằng tố cáo vặt”. Nếu Hải Thụy không
thanh liêm đến nhường ấy, e đã được coi là khốc lại kiểu như Chu Hưng và Lai
Tuấn Thần. Nội các cũng rất lo lắng về cách làm của Hải Thụy. Họ nghĩ ngay tới
một vị thầy thuốc, vị này từng cho bệnh nhân ăn rất nhiều ba đậu, còn hùng hồn
kể rằng, sách thuốc từng viết “phải cẩn thận khi dùng ba đậu”, đương nhiên, cần
phải trọng dụng loại người này. Còn như, vị thầy thuốc là Hải Thụy, nội các
thấy cần phải nhanh chóng thu lại chức tuần phủ, để đất nước Đại Minh vốn đã bị
bệnh, không bị Hải Thụy nhiệt tình chữa trị quá mức, khiến người nghiêng ngựa
ngả.

Hải Thụy quyết định cầu cứu Trương Cư
Chính.

Lúc còn ở kinh thành, chừng như Hải Thụy đã
gặp gỡ Trương Cư Chính. Theo Hải Thụy, Trương Cư Chính là người có đầu óc,
không như lũ quan viên chuyên ngồi không ăn sẵn, hệt như lũ đàn bà. Lúc này,
Trương Cư Chính đã có ba năm ở nội các, là thượng thư bộ Lại, là đại học sĩ
điện Vũ Anh. Vì vậy Hải Thụy mong muốn Trương Cư Chính sẽ đứng ra chủ trì công
lý. Cũng như Hải Thụy, Trương Cư Chính từng chủ trương đổi mới chính trị, tăng
cường pháp luật và cũng căm ghét bọn địa chủ Tô (Tô Châu), Tùng (Tùng Giang),
nhưng lại tỏ ra bất lực trước sự cầu viện của Hải Thụy. Trương Cư Chính có thư
cho Hải Thụy, nói: “Luật ba thước không thi hành ở nước Ngô lâu rồi, nay mà gò
vào khuôn phép hẳn không chịu nổi(2)”.
Còn nói thêm, lúc này triều đình đã bàn nhiều về Hải Thụy: “Ngoa ngôn sôi sục,
người nghe lo sợ”. Vì vậy, Trương Cư Chính tự thấy hổ thẹn trước miếu đường và
cũng hổ thẹn là người nắm giữ pháp luật mà không làm được gì.

(2)
Các điều khoản luật pháp thời cổ được viết trên thẻ tre dài ba thước, vì vậy
gọi là “luật ba thước”, cũng gọi là “ba thước” (Tác giả).

Xưa nay, người người luôn chê trách lá thư
của Trương Cư Chính, cho rằng Cư Chính lúc đồng tình lúc chê trách, thật dối
trá vô cùng. Tôi lại nghĩ, Cư Chính đã nói lên sự thực. Đúng, cả triều đình lúc
đó đã coi Hải Thụy như cái gai trong mắt, cần phải vứt bỏ nhanh, Trương Cư
Chính nói giúp Hải Thụy mấy câu, liệu có gì là hay ho, huống chi Cư Chính vẫn
còn chưa đồng tình với cách làm của Hải Thụy. Đương nhiên, không nên trách
Trương Cư Chính.

Vậy, bản thân Trương Cư Chính đã làm như
thế nào? Hình như cũng chẳng làm gì cả.

Trương Cư Chính được coi là một trong số
những chính trị gia nổi tiếng nhất thời Minh. Vào năm hoàng đế Vạn Lịch đăng cơ
(năm 1572), bằng phương thức tập kích bất ngờ, như tiếng sét ngang tai. Cư
Chính đã đánh đổ Thủ Phụ Cao Củng, đến năm Vạn Lịch thứ mười (năm 1582) qua
đời, có hơn mười năm là Nguyên Phụ Kiên đế sư. Trước lúc qua đời chín ngày, Cư
Chính được gia phong hàm thái sư, trở thành người có vinh dự đặc biệt ở triều
Minh. Trong mười năm đó, Vạn Lịch hoàng đế là học trò của Cư Chính (Vạn Lịch
đăng cơ lúc mới có chín tuổi), Từ Thánh
hoàng thái hậu ân sủng, tín nhiệm Trương Cư Chính hết mức, vì vậy, trong
mười năm đó ý chỉ của Trương Cư Chính cũng là thánh chỉ của hoàng đế, ý chỉ của
thái hậu. Phần lớn văn võ trong triều là người Cư Chính bồi dưỡng và đề bạt.
Đương nhiên, Hải Thụy không dám quay
lưng lại với một người quyền lực như vậy.

Địa vị của Trương Cư Chính và Hải Thụy tuy
có khác biệt, nhưng tác phong của hai người phần lớn là giống nhau: Luôn hăng
say làm việc, có nhận thức có trách nhiệm, không hề run sợ, tác phong mạnh
mẽ... Có điều Trương Cư Chính ít liêm khiết, nhiều quyền mưu hơn Hải Thụy.
Không nên nghi ngờ gì về tài năng chính trị của Trương Cư Chính, sức hút của
con người này cũng khiến người ta phải nghiêng ngả. Trương Cư Chính thông minh
tuyệt đỉnh, nhạy bén hơn người, hiểu sâu nhớ dai, hơn nữa còn biết trọng lễ
nghĩa, tu nhân tích đức, trong ngoài luôn biểu hiện phong độ cần có của vị hiền
tướng. Lúc hoàng đế Long Khánh tạ thế, Cư Chính và Cao Củng đều có mặt trong
nội các. Cao Củng là thủ phụ, Cư Chính là thứ phụ. Thời Minh không có chế độ tể
tướng, chỉ có chế độ các thần (đại thần trong nội các), nên thứ phụ có nghĩa
gần như “phó thủ tướng thứ nhất”. Nhưng mọi đình thần thời đó đều ác cảm với
các thần số một Cao Củng và thiện cảm với các thần số hai Cư Chính. Để bài xích
Cao Củng, được hoạn quan Phùng Bảo vẽ đường mách lối, Trương Cư Chính đã có một
hiệp định bí mật về chính trị với mẹ đẻ của Vạn Lịch là Lý quý phi, điều kiện
là tôn Lý quý phi làm “Từ Thánh hoàng thái hậu” ngang hàng với “Nhân Thánh
hoàng thái hậu” đích mẫu(3)
của Vạn Lịch. Hành vi không đẹp với các đồng liêu chính phái rốt cuộc vẫn được
chấp nhận. Lúc đó, nhân duyên của Trương Cư Chính là tốt, uy vọng cao quý, nói
chung là toàn vẹn.

(3)
Lý quý phi là mẹ ruột sinh ra hoàng đế Vạn Lịch, còn đích mẫu “Nhân Thánh hoàng
thái hậu mới là hoàng hậu, nguyên phối của tiên đế (BTV)”.

Tiểu hoàng đế Vạn Lịch nhìn Trương Cư Chính
vừa kính vừa ngại. Hoàng đế Vạn Lịch tên là Chu Dực Quân, Vạn Lịch là niên
hiệu, khi chết, miếu hiệu là Thần Tông. Trước thời Minh, có rất nhiều niên hiệu
của một hoàng đế, trong số đó, niên hiệu của Võ Tắc Thiên là nhiều nhất, có lúc
đổi hiệu đến mấy lần trong một năm, vì vậy lịch sử thường xưng hô các vị hoàng
đế bằng thụy hiệu hay miếu hiệu, như Hán Vũ đế, Đường Thái Tông. Hai triều
Minh, Thanh hoàng đế chỉ có một niên hiệu (trừ Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn có hai
lần đăng cơ). Mọi người đều quen xưng hô bằng niên hiệu, như Vạn Lịch thời
Minh, Ung Chính thời Thanh. Vạn Lịch và hai người mẹ của mình luôn có sự kính
trọng đặc biệt với Trương Cư Chính, thường gọi là “Nguyên phụ Trương tiên
sinh”. Vì Trương Cư Chính đã giúp họ, cô nhi quả mẫu, loại bỏ Cao Củng - một
thủ phụ hoành hành bá đạo, luôn có bụng không thần phục. Thực ra, đó là âm mưu
của Trương Cư Chính và Phùng Bảo. Lúc khóc trước linh cữu, Cao Củng nói: “Thái
tử mười tuổi trị thiên hạ thế nào đây”, từ đó, Phùng Bảo đổi thành “thằng bé
mười tuổi, làm thiên tử thế nào đây”, lúc câu nói sau truyền đến hậu cung, hai
cung thái hậu hết sức kinh ngạc, hoàng đế Vạn Lịch mặt cũng biến sắc. Sau đó,
với sự sắp đặt tinh tế của Trương Cư Chính, vào một buổi sáng, đột nhiên Cao
Củng bị tước mất toàn bộ quan hàm chức vị, bị đuổi khỏi kinh thành, trở về
nguyên quán, được giao cho địa phương quản thúc nghiêm ngặt. Nghe nói, lúc đó
Cao Củng đang quỳ trước trăm quan, và bất thần như bị sét đánh, đã gục xuống và
bất tỉnh, cuối cùng lại là Trương Cư Chính đến vực dậy, Cao Củng mới thất thểu
bước ra ngoài.

Trương Cư Chính có công hộ giá cần vương,
thêm nữa, Cư Chính phong thái trang trọng, đạo mạo trang nghiêm, thông minh tuệ
trí, bác học đa tài, từng câu chữ đầy lý lẽ, mỗi việc làm luôn thỏa đáng, từng
cử chỉ luôn hợp lý hợp thể, khiến cho vị hoàng đế mười tuổi và hai bà mẹ phải
phục sát đất, đương nhiên, Cư Chính được coi là tổng thiết kế sư việc triều
chính và là tổng trưởng giáo dục của hoàng đế.

Nhưng Trương Cư Chính bị đổ còn thảm hơn
Hải Thụy nhiều. Sau khi qua đời được nửa năm, Cư Chính bị phát giác và phê phán
về mọi mặt, gồm những tội danh khi quân hại dân, thu nhận hối lộ, mua quan bán
tước, nhiệm dụng người của mình, buông thả lũ nô bộc, kết bè lập đảng, thao
túng triều chính, lòng dạ phản trắc, thậm chí còn có người tố giác Cư Chính có
ý soán vị mưu phản. Hai năm sau, tức là vào năm Vạn Lịch thứ mười hai (năm
1584), gia sản bị tịch thu bằng sạch, con trai đầu đã tự sát trong quá trình
gọi là “truy thu tang vật”. Bốn tháng sau, tội của Cư Chính được ban bố thành
năm hạng mục: Vu cáo thân vương, chiếm đoạt vương phủ, kìm chế ngôn quan, bưng
bít thánh đế, chuyên quyền loạn trị. Với những tội ác đó, lẽ ra phải mở quan
tài băm nát thi thể, nay gia ân xá miễn, nhưng mấy người em và hai con trai đều
phải sung quân ra vùng đất hiểm.

Có đúng là Trương Cư Chính đã phạm những
tội ác vừa nói ở trên không còn là vấn đề chưa rõ và cũng không quan trọng.
Trong đấu tranh chính trị ở thời cổ đại Trung Quốc, những nguyên nhân khiến một
nhân vật hàng đầu thân bại danh liệt, thường bị những lời nói đường hoàng, có
vẻ như thật che khuất. Trương Cư Chính từ chỗ được “vạn người xưng tụng” đã
biến thành kẻ bị “vạn người chửi rủa”, nguyên nhân thực sự là đã đắc tội với
toàn bộ giới quan trường, chẳng khác gì nguyên nhân làm Hải Thụy bị bãi quan.
Có điều, tội của Hải Thụy là hủy hoại quy chế của quan trường, còn Cư Chính đã
đụng tới bát cơm của chúng. Họ giống nhau ở chỗ, đều nhận thấy tệ nạn quá
nhiều, cần phải sửa đổi, làm mới. Chỗ khác biệt là Hải Thụy chú ý tới liêm
chính, vì thấy phải làm chủ cho dân; Cư Chính chú ý tới hiệu suất, vì mục đích
là nước giàu binh mạnh. Muốn loại bỏ hủ bại hô hào liêm chính, chỉ cần đề cao
tinh thần đạo đức, khôi phục chế độ thời Hồng Vũ là xong; còn như muốn nâng cao
hiệu suất vận hành cả bộ máy nhà nước thì nhất thiết phải biến pháp. Biến pháp
là động tới toàn bộ hệ thống thần kinh của giới quan trường, tổn hại đến lợi
ích đã có hoặc sắp có của nhiều người, khiến cho kế hoạch thăng quan phát tài
của nhiều người trở thành bong bóng. Vì vậy “sự phẫn nộ của giới quan lại” đối với
Cư Chính càng lớn.

Ít ra cũng có tới hai sự kiện khiến bọn
quan văn căm hận Trương Cư Chính.

Sự kiện thứ nhất, Trương Cư Chính đã mượn
danh nghĩa hoàng đế trách cứ và lệnh cho các địa phương phải thu đủ mọi khoản
thuế theo quy định. Nhìn bề ngoài thì mệnh lệnh đó không có gì là không thỏa
đáng; làm ruộng nộp thuế để đất nước có lương thực, là việc thiên kinh nghĩa
địa xưa nay phải làm. Nếu không nộp đủ, phải bổ sung là đương nhiên, trừ trường
hợp có thiên tai, triều đình sẽ có lệnh đặc biệt để miễn giảm. Nhưng tình hình
thực tế hiện nay là: Khắp nơi trong toàn quốc, bất kể là huyện giàu hay nghèo,
bất kể là năm thiên tai hay năm được mùa, thuế má không bao giờ nộp đủ. Nguyên
nhân đại thể là thế này: Triều đình có một ngàn một trăm huyện, tình hình sẽ khác
nhau là lẽ tự nhiên, vì thế ngạch thuế và mức thuế ở các huyện cũng khác nhau.
Nghe nói tổng số thuế ở huyện khá giả gấp ba trăm đến bốn trăm lần một huyện
còn nghèo khổ, khó khăn. Điều này sẽ tạo nên một tâm lý bất bình đẳng. Ở một
huyện nghèo, ý thức nộp thuế của mọi người rất thấp. Với họ, được nộp thuế ít
là việc đương nhiên, thiếu một ít thuế cũng chẳng là gì. Vì ai cũng hiểu là họ
nghèo, không đủ tiền nộp thuế. Thế là, họ không nộp bất kể một thứ thuế nào, so
với những vùng giàu có, mức sống quá ư tồi tệ, nếu đóng đủ thuế, thì còn gì để
sống? Hơn nữa, thuế má vốn đã rất nhẹ, nếu đóng đủ cũng chẳng là mấy, việc gì
cứ phải cân đo đong đếm? Đất nước Đại Minh, đất rộng người đông, tài nguyên
phong phú, còn phải nghĩ tới mấy đồng tiền bọ kia làm gì? Những vùng giàu có
bớt ra một chút của giắt răng là đủ. Nông dân và địa chủ những vùng còn nghèo
khó, đều đã làm việc như đã thấy, tự nhiên có thể nộp thì cứ nộp, không nộp thì
thôi.

Nông dân và địa chủ những vùng giàu có lại
nghĩ khác. Họ cho rằng “khắp gần trời nay đều là đất của vua, mọi người đều là
bề tôi của vua” phải được đối xử công bằng như nhau, dựa vào đâu bảo chúng tôi
phải đóng nhiều, người khác được đóng ít. Huyện nghèo đất hẹp người thưa, tổng
ngạch thuế má ít đi một chút thì đã sao, nhưng không thể có hai loại thuế suất.
Thực tế thì khác biệt lại quá lớn, như thuế ruộng ở phủ Tô Châu, chiếm chừng
20% thu nhập của nông thôn còn ở huyện Tào, Sơn Đông chiếm 9%. Ở Lật Dương càng
ít, chỉ từ 1% đến 5%. Lật Dương cách Tô Châu không là bao, nhưng thuế suất lại
khác biệt một trời một vực, chẳng trách tâm lý dân Tô Châu là không bình
thường. Tính ra, những vùng giàu có chỉ cần nộp 60% tiền thuế, đã bằng tổng số
tiền thuế những vùng nghèo khó, đã cống hiến không ít. Số tiền còn lại, tự
nhiên có thể nộp thì cứ nộp, không nộp thì thôi.

Kết quả, bất luận là huyện giàu, huyện
nghèo, chỉ có thể thu được sáu phần tiền thuế, bốn phần còn lại chưa có hồi
kết. Con số đó cũng đáng kể. Mọi người đều hiểu, chống lại việc nộp thuế là
phạm vương pháp. Điền chủ không thể không nộp một ít, quan địa phương không thể
không thu một ít, bằng không sẽ mất mũ ô sa. Nhưng nếu chỉ thu được sáu phần,
tuy gọi là quá bán, cũng đủ để nói dân chúng chống thuế, quan lại vô năng. Vì
đã có con số 60% làm vật đệm, nên mọi người không hề sợ sệt, không phải đóng
tiếp bốn phần thuế còn nợ, và đó đã trở thành luật, được ngầm ước định giữa
quan và dân.

Còn một điểm nữa cũng rất quan trọng, tức
là phần thu thêm, ngoài số tiền thuế quy định để dân chúng phải nộp như thóc
gạo hao hụt trong quá trình vận chuyển, như bạc vụn đã đúc thành khối cũng
không khỏi có hao hụt. Để bổ sung vào chỗ hao hụt đó, lúc thu thuế còn phải thu
thêm một khoản khác, gọi là “mễ hao” và “hỏa hao”. Khoản tiền thu thêm “thường
lệ” này thực chất là thu nhập thêm của quan lại các cấp, ngay cả Hải Thụy cũng
có phần, có điều Hải Thụy tuyên bố là mình không nhận. Các quan lại địa phương
khác đều nhận số tiền này. Thực tế, một viên quan địa phương nếu có khéo léo
lập thêm một danh mục khác, ngoài các khoản thu thông thường, thì vẫn được coi
là quan thanh liêm, như ở phần trước đã nói, tiền lương của quan lại triều đình
rất thấp, lương bổng hàng năm của quan lớn nhị phẩm cũng chỉ được một trăm năm
mươi hai lạng bạc, không đủ để chi tiêu. Để duy trì cuộc sống tươm tất một
chút, họ không thể không có “thu nhập không minh bạch”. Quan kinh thành phải
dựa vào sự “hiếu kính” của quan địa phương; quan địa phương phải bám vào phần
“lệ thường” này. Cho nên phần thu nhập này, nói thẳng ra là tham ô, nhưng lại
được công nhận là hợp lý hợp pháp, ít ra cũng là bình thường, nên gọi là “lệ
thường”. Một chế độ coi “tham ô là hợp pháp” thì tính hợp lý của chế độ đó đã
có vấn đề lớn, nhưng không có ai dám tỏ ra nghi ngờ chế độ.

Người dân có thể nợ thuế nhà nước, nhưng
đối với các khoản thu thường lệ thì không được thiếu. Các quan địa phương tuy
không thu đủ được tiền thuế nộp vào quốc khố, nhưng các khoản thu thường lệ thì
không thiếu một xu. Như vậy, việc nợ bốn phần thuế còn lại, là có lợi cho dân,
không hại gì cho quan, chỉ có đất nước là thiệt thòi. Đất nước thiệt thòi,
không người xót xa. Thứ nhất, đất nước rộng lớn, giàu có, có thiệt thòi một
chút cũng chẳng sao. Thứ hai, đất nước là cao quý, vời vợi, thiệt hay không
thiệt liên quan gì tới bọn tiểu dân. Hơn nữa, đất nước thu được nhiều thuế như
vậy, nhưng chắc gì đã thu cho dân, để dân dùng, mà để phụng dưỡng hệ thống quan
liêu đông đảo và số ít kẻ hoang phí. Số tiền dùng để bảo vệ biên cương, tu sửa
công trình thủy lợi chắc cũng không quá nhiều. Còn như tiền để phát triển kinh
tế, nâng cao sức sản xuất hoặc làm lợi cho số đông những người nộp thuế chắc gì
đã có ai nghĩ tới. Đã vậy, chúng ta nộp nhiều như thế để làm gì?

Đương nhiên, trách nhiệm vẫn còn, quan địa
phương cũng thúc cũng giục, nhưng một khi cả trăm ngàn chủ hộ dây dưa kéo dài
để không nộp thuế thì cũng chẳng có quan địa phương nào ứng phó mãi được. Vì
các hộ lớn có chỗ dựa vững chắc, một viên huyện lệnh thất phẩm, vị tất đã dám
dây vào. Còn như một tên dân đen cùng khổ, thấp cổ bé họng, cũng tự có cách
riêng của mình, tức là “cần lương không có, cần mạng chỉ có một”. Cố nhiên, bọn
huyện lại có thể trói người không nộp thuế để xử trị, nhưng pháp luật không trị
tội số đông, nên chỉ có thể trừng trị một để đe dọa trăm. Có điều việc nợ thuế
đã thành việc của toàn bộ nông hộ, nên cách trừng phạt đó cũng không mấy hiệu
quả. Nhưng thuế cũ chưa nộp xong, sẽ thành gánh nặng cho thuế mới. Về phía các
quan, họ tìm đủ mọi cách để có thể miễn giảm phần thuế chưa thu, và nếu được
thì quan nào đề xuất ra biện pháp đó sẽ được coi là quan tốt quan thanh liêm, là
quan “làm chủ cho dân”, là quan phụ mẫu “yêu dân như con”. Làm như vậy khác gì
khích lệ việc nợ thuế. Cuối cùng thì việc nợ thuế cũng như việc thu khoản phụ
thu trở thành “lệ thường”.

Báo cáo nội dung xấu